Khảo sát tần suất & đặc điểm lâm sàng của bệnh nhân ngất khi làm nghiệm pháp bàn nghiêng

Cơ sở: Ngất là một triệu chứng thường gặp ở người trẻ lẫn người cao tuổi. Ngất có rất nhiều nguyên nhân, trong đó nguyên nhân tim mạch chiếm một tỷ lệ đáng kể. Nghiệm pháp bàn nghiêng là một trong những phương tiện để chẩn đoán nguyên nhân ngất do bệnh lý tim mạch. Mục tiêu: Khảo sát tần suất và đặc điểm lâm sàng của bệnh nhân ngất khi làm nghiệm pháp bàn nghiêng. Phương pháp: Phương pháp nghiên cứu tiền cứu, thống kê mô tả, cắt ngang. Kết quả: Trong 52 bệnh nhân có 30 bệnh nhân nam (57,69%) và 22 bệnh nhân nữ (42,31%), tuổi trung bình 42,25 ± 19,94 (15 – 87). Về tiền sử, có 08 bệnh nhân bị ngất 1 lần chiếm tỷ lệ 15,4% và 44 bệnh nhân bị ngất nhiều lần chiếm tỷ lệ 84,6%. Trong đó, yếu tố khởi phát do đứng lâu có 25 bệnh nhân (48,1%) là cao nhất. Huyết động trước nghiệm pháp: Nhịp tim trung bình: 80,62 ± 16,80 lần / phút. Huyết áp tâm thu: 103,56 ± 13,83 mmHg. Huyết áp tâm trương: 63,35 ± 09,70 mmHg. Xét riêng nhóm có kết quả dương tính, có 21 trường chiếm tỷ lệ 40,4 %, trong đó type 1 có 9 trường hợp (17,30%), type 2A chỉ có 1 trường hợp (1,9%), không có trường hợp nào type 2B, trong khi đó type 3 có 11 trường hợp (21,2%). Có 5 bệnh nhân (23,8%) ngất khi chưa cần phải dùng thuốc, và 16 bệnh nhân (76,20%) ngất xảy ra trong giai đoạn dùng thuốc (Isuprel hoặc Nitroglycerine). Huyết động thay đổi trong lúc ngất với mạch: 82,62 ± 16,71 lần/phút (55 – 110), huyết áp tâm thu: 95,71 ± 07,46 mmHg và huyết áp tâm trương: 63,81± 06,69 mmHg. Kết luận: Tỷ lệ ngất do qua trung gian thần kinh chiếm tỷ lệ khá cao 40,4%, trong đó yếu tố khởi phát thường gặp nhất là thường xảy ra khi ở tư thế đứng (66,7%), và đa số bệnh nhân phải dùng thuốc (Isuprel hoặc Nitroglycerine) trong quá trình thực hiện nghiệm pháp. Trong quá trình thực hiện chúng tôi không ghi nhận có biến chứng gì đáng kể xảy ra. Đây là nghiệm pháp khá an toàn và nên sử dụng ở tại các cơ sở y tế có điều kiện để chẩn đoán nguyên nhân gây ngất.

pdf7 trang | Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 13/06/2022 | Lượt xem: 180 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Khảo sát tần suất & đặc điểm lâm sàng của bệnh nhân ngất khi làm nghiệm pháp bàn nghiêng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Hội nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Thống Nhất TP. HCM 2012 76 KHẢO SÁT TẦN SUẤT & ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG CỦA BỆNH NHÂN NGẤT KHI LÀM NGHIỆM PHÁP BÀN NGHIÊNG Hồ Thượng Dũng*, Ngô Thị Kim* TÓM TẮT Cơ sở: Ngất là một triệu chứng thường gặp ở người trẻ lẫn người cao tuổi. Ngất có rất nhiều nguyên nhân, trong đó nguyên nhân tim mạch chiếm một tỷ lệ đáng kể. Nghiệm pháp bàn nghiêng là một trong những phương tiện để chẩn đoán nguyên nhân ngất do bệnh lý tim mạch. Mục tiêu: Khảo sát tần suất và đặc điểm lâm sàng của bệnh nhân ngất khi làm nghiệm pháp bàn nghiêng. Phương pháp: Phương pháp nghiên cứu tiền cứu, thống kê mô tả, cắt ngang. Kết quả: Trong 52 bệnh nhân có 30 bệnh nhân nam (57,69%) và 22 bệnh nhân nữ (42,31%), tuổi trung bình 42,25 ± 19,94 (15 – 87). Về tiền sử, có 08 bệnh nhân bị ngất 1 lần chiếm tỷ lệ 15,4% và 44 bệnh nhân bị ngất nhiều lần chiếm tỷ lệ 84,6%. Trong đó, yếu tố khởi phát do đứng lâu có 25 bệnh nhân (48,1%) là cao nhất. Huyết động trước nghiệm pháp: Nhịp tim trung bình: 80,62 ± 16,80 lần / phút. Huyết áp tâm thu: 103,56 ± 13,83 mmHg. Huyết áp tâm trương: 63,35 ± 09,70 mmHg. Xét riêng nhóm có kết quả dương tính, có 21 trường chiếm tỷ lệ 40,4 %, trong đó type 1 có 9 trường hợp (17,30%), type 2A chỉ có 1 trường hợp (1,9%), không có trường hợp nào type 2B, trong khi đó type 3 có 11 trường hợp (21,2%). Có 5 bệnh nhân (23,8%) ngất khi chưa cần phải dùng thuốc, và 16 bệnh nhân (76,20%) ngất xảy ra trong giai đoạn dùng thuốc (Isuprel hoặc Nitroglycerine). Huyết động thay đổi trong lúc ngất với mạch: 82,62 ± 16,71 lần/phút (55 – 110), huyết áp tâm thu: 95,71 ± 07,46 mmHg và huyết áp tâm trương: 63,81± 06,69 mmHg. Kết luận: Tỷ lệ ngất do qua trung gian thần kinh chiếm tỷ lệ khá cao 40,4%, trong đó yếu tố khởi phát thường gặp nhất là thường xảy ra khi ở tư thế đứng (66,7%), và đa số bệnh nhân phải dùng thuốc (Isuprel hoặc Nitroglycerine) trong quá trình thực hiện nghiệm pháp. Trong quá trình thực hiện chúng tôi không ghi nhận có biến chứng gì đáng kể xảy ra. Đây là nghiệm pháp khá an toàn và nên sử dụng ở tại các cơ sở y tế có điều kiện để chẩn đoán nguyên nhân gây ngất. Từ khóa: Ngất, nghiệm pháp bàn nghiêng, NP bàn nghiêng dương tính, tình trạng huyết động. ABSTRACT SURVEY FREQUENCY & CLINICAL CHARACTERISTICS OF PATIENTS UNDERGOING TILT- TABLE TEST Ho Thuong Dung, Ngo Thi Kim * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 - Supplement of No 1 - 2012: 76 - 82 Background: Fainting is a common symptom in young and elder. Fainting has many causes, including cardiovascular causes accounted for a significant percentage. Tilt table test is one of the means to diagnose the cause of syncope due to cardiovascular disease. Objective: Survey frequency and clinical characteristics of patients undergoing tilt-table test. Method: The method of prospective, descriptive statistics. Results: In 52 patients including 30 male patients (57.69%) and 22 female patients (42.31%), mean age * Bệnh viện Thống Nhất TP.Hồ Chí Minh Tác giả liên lạc: CN. Ngô Thị Kim ĐT: 0983223404 E.mail:bngoc62@gmail.com Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học Hội nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Thống Nhất TP. HCM 2012 77 42.25 ± 19.94 (15-87). Regarding history, 08 patients with one time of syncope only (15.4%), and 44 patients have had several times of syncope (84.6%). In those, the trigger factors which is long standing in 25 patients (48.1%) is highest. The hemodynamic status before doing the test: the average heart rate: 80.62 ± 16.80 times / min. mean of systolic blood pressure: 103.56 ± 13.83 mmHg and diastolic blood pressure: 63.35 ± 09.70 mmHg. In the positive tilt test group, we had 21 cases (40.4%), including type 1 has 9 cases (17.30%), type 2A only 1 case (1.9%), not any type 2B cases, while type 3 has 11 cases (21.2%). There are 5 patients (23.8%) passed without need to take medicine, and 16 patients (76.20%) syncope occurs during medicated (Isuprel or Nitroglycerine). Hemodynamic changes during fainting to the circuit: 82.62 ± 16.71 times / min (55-110), systolic blood pressure: 95.71 ± 07.46 mmHg and diastolic blood pressure: 63.81 ± 06.69 mmHg. Conclusion: The rate of the nerve- mediated syncope had high proportion (40.4%), in which the most commonly trigger is long-standing position (66.7%), and most patients to take medicine (Isuprel or Nitroglycerine) during the tests are done. During implementation we did not note any significant complications occurred. This tests are quite safe and should be used at medical facilities to diagnose conditions causes of fainting Key words: Sycope, Tilt table test, Positive tilt test, Hemodynamic status. ĐẶT VẤN ĐỀ Ngất là tình trạng mất ý thức thoáng qua do giảm tưới máu não tạm thời có đặc điểm khởi phát nhanh, thời gian ngắn, và hồi phục hoàn toàn tự phát. Ngất là triệu chứng thường gặp, chiếm 3-5% tỉ lệ bệnh nhập khoa cấp cứu, 1-3% tỉ lệ bệnh nhập viện. Ngất qua trung gian thần kinh (TGTK) là nguyên nhân phổ biến nhất. Ngược lại, động kinh ít hơn và ngất do rối loạn nhịp thường không phổ biến. Trong một nghiên cứu cho thấy chỉ có 5% người lớn có cơn ngất đầu tiên ở độ tuổi 40. Đa số là đã ghi nhận có cơn ngất ở tuổi thiếu niên và vị thành niên. Cuối cùng, xuất hiện ngất cao nhất là ở độ tuổi > 65 ở cả nam và nữ. Đánh giá ngất còn gặp nhiều khó khăn và thách thức. Ngất có thể do nhiều nguyên nhân khác nhau từ lành tính đến gây tử vong. Xác định nguyên nhân rất quan trọng trong điều trị và tiên lượng. Ngất qua trung gian thần kinh là nguyên nhân thường gặp. Hiểu biết rõ về bệnh lý và điều kiện gây ngất kết hợp với cận lâm sàng thích hợp có thể giúp tìm nguyên nhân. Một trong những xét nghiệm cận lâm sàng được tiến hành đơn giản, không xâm lấn, rẻ tiền phải kể đến là nghiệm pháp bàn nghiêng (NPBN). Gần đây, người ta tập trung vào nghiên cứu đáp ứng nhịp tim và huyết áp (đáp ứng huyết động học) trong suốt quá trình làm NPBN từ lúc nghiêng bàn đến lúc ngất(5). Những kiểu đáp ứng huyết động lúc ngất được phân chia thành những nhóm nhỏ theo nghiên cứu quốc tế về ngất phó giao cảm (VASIS - vasovagal international study investigators 1992)(3). Với vai trò là người Điều Dưỡng phải theo dõi huyết áp và nhịp tim của bệnh nhân trong suốt quá trình thực hiện nghiệm pháp, chúng tôi tiến hành khảo sát những thay đổi huyết động học trong nghiệm pháp này để sơ bộ đánh giá nguyên nhân gây ngất. Mục tiêu nghiên cứu Mục tiêu tổng quát Khảo sát tần suất & đặc điểm lâm sàng của bệnh nhân làm nghiệm pháp bàn nghiêng để chẩn đoán nguyên nhân ngất tại Khoa Tim mạch Cấp cứu và Can thiệp Bệnh viện Thống Nhất. Mục tiêu chuyên biệt - Khảo sát tần suất của ngất và phân loại type trong số bệnh nhân làm nghiệm pháp bàn nghiêng. - Khảo sát đặc điểm về tiền sử, bệnh sử bệnh nhân có biểu hiện ngất. - Khảo sát tình trạng biến đổi huyết động khi làm nghiệm pháp bàn nghiêng. Tổng quan y văn Ngất là sự mất ý thức thoáng qua do giảm tưới máu não toàn bộ, thoáng qua đặc trưng bởi Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Hội nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Thống Nhất TP. HCM 2012 78 xuất hiện nhanh, kéo dài ngắn và tự phục hồi. Định nghĩa này không bao hàm các nguyên nhân khác chỉ gây giảm tưới máu não thoáng qua mà không gây mất ý thức. Trong một vài dạng của ngất có tiền triệu báo trước, dấu tiền triệu đa dạng (nhức đầu, đổ mồ hôi, buồn nôn, mờ mắt...) nhưng thường cơn mất ý thức không có dấu tiền triệu. Hiếm khi ta ước lượng chính xác được thời gian của cơn, đa số không quá 20 giây. Ngất có thể lành tính nếu nó xảy ra do nguyên nhân phản xạ thần kinh phế vị hoặc có thể ác tính do nguyên nhân rối loạn nhịp đe dọa tính mạng. Dịch tễ học của ngất(2) Một nghiên cứu Framingham trong cộng đồng lớn dân cư (thực hiện từ 1971 đến 1998 trên 7814 cá nhân trong cộng đồng) cho thấy có 822 người (10,5%) có ít nhất một cơn ngất trong độ tuổi trung bình là 17 tuổi. Tỷ lệ mới mắc được ghi nhận đầu tiên là 6,2/1.000 người/năm. Giả định rằng tỷ lệ này không thay đổi theo thời gian, tác giả đã tính ra tần suất mới mắc cộng dồn sau 10 năm của ngất là 6%. Các nguyên nhân gây ngất Bảng 1: Phân loại ngất(1) 1. Ngất do phản xạ (ngất qua TGTK) Kích thích bởi cảm xúc: sợ hãi, đau, sợ máu Ngất do thần kinh phế vị Kích thích bởi tư thế Ho, hắt xì Kích thích đường ruột (nuốt, đại tiện, đau nội tạng) Sau gắng sức Hoàn cảnh Khác (ví dụ: cười, cử tạ) Ngất do nhạy cảm xoang cảnh Các dạng không điển hình (không rõ yếu tố kích thích và hoặc triệu chứng không rõ ràng) 2. Ngất do hạ huyết áp tư thế 3. Ngất do nguyên nhân tim mạch Rối loạn nhịp Bệnh lý cấu trúc tim Ngất do phản xạ (ngất qua TGTK): Ngất qua TGTK là do những phản xạ tim mạch đáp ứng không thích hợp với các kích thích gây nên dãn mạch và/ hoặc nhịp chậm dẫn đến hậu quả: giảm HA và giảm tưới máu não toàn bộ Ngất qua TGTK được phân loại dựa theo đường dây thần kinh ly tâm. Đáp ứng gồm 3 thể Thể dãn mạch (Type 3): hạ HA chiếm ưu thế vì mất phản xạ co thắt mạch đáp ứng ở tư thế đứng. Thể ức chế tim (Type 2A, 2B): nhịp chậm hoặc vô tâm thu chiếm ưu thế. Thể kết hợp (Type 1): kết hợp cả 2 loại trên. Nghiệm pháp bàn nghiêng (NPBN) Trước đây, ngất do qua TGTK được chẩn đoán dựa trên bệnh sử và loại trừ các nguyên nhân khác. Từ khi NPBN được áp dụng để xác nhận và tạo lại các triệu chứng của ngất do phản xạ thần kinh phế vị đã mở ra một bước ngoặc mới cho việc tiếp cận bệnh lý này. Từ những thông tin khách quan ghi nhận được khi làm nghiệm pháp bàn nghiêng để chẩn đoán ngất do phản xạ thần kinh phế vị, nghiệm pháp này giúp cho bệnh nhân có thể tránh được những chấn thương không đáng có về sau và không cần thiết phải làm thêm nhiều xét nghiệm khác nữa. Chỉ định thực hiện NPBN(1) Ngất 1 lần không giải thích được nguyên nhân ở người có nguy cơ cao (Ví dụ: có nguy cơ gây tổn thương thể chất hoặc nghề nghiệp). Ngất nhiều lần không kèm bệnh tim thực thể, hoặc có bệnh tim thực thể nhưng các nguyên nhân ngất do tim đã được loại trừ. Có bằng chứng lâm sàng chứng minh ngất do phản xạ thần kinh. Để chẩn đoán phân biệt ngất do nguyên nhân phản xạ thần kinh và hạ HA tư thế. Để phân biệt những co giật do nguyên nhân động kinh. Té ngã tái phát không giải thích được nguyên nhân. Đánh giá ngất thường xuyên và có bệnh về tâm lý. Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học Hội nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Thống Nhất TP. HCM 2012 79 Biểu đồ 1: Đáp ứng mạch, HA khi nghiêng bàn ở người bình thường Biểu đồ 2: Đáp ứng mạch, HA khi nghiêng bàn ở bệnh nhân ngất qua TGTK Chống chỉ định NPBN Hẹp van động mạch chủ nặng. Bệnh cơ tim phì đại tắc nghẽn. Hẹp hai lá nặng. Hẹp mạch vành nặng. Quá trình thực hiện NPBN: (Hình 2) Trước khi thực hiện NPBN bệnh nhân nên được ngưng các thuốc ảnh hưởng đến kết quả của nghiệm pháp này như thuốc dãn mạch, thuốc ức chế nhịp tim ít nhất là 48 giờ trước nghiệm pháp. Bệnh nhân nhịn ăn ít nhất 4 giờ. Bàn để thực hiện nghiệm pháp là bàn chuyên dụng chỉnh được độ nghiêng chính xác, bàn phải có bục để chân. Bệnh nhân nằm nghỉ ít nhất là 20 phút trước khi làm nghiệm pháp, tránh các tác động ồn ào có thể ảnh hưởng đến tâm lý của bệnh nhân trước khi làm nghiệm pháp. Lập đường truyền tĩnh mạch, nối bệnh nhân với máy theo dõi nhịp tim liên tục và máy đo HA. Quá trình nghiêng bàn được thực hiện qua 2 giai đoạn: giai đoạn dùng thuốc và giai đoạn không dùng thuốc(4). HA tâm thu HA tâm trương Nghiêng bàn Hạ bàn Phút HA tâm thu HA tâm trương Nghiêng bàn Hạ bàn Phút Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Hội nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Thống Nhất TP. HCM 2012 80 Giai đoạn 1: giai đoạn không dùng thuốc: nghiêng bàn ở vị trí 70o trong vòng 20 - 30 phút. Trong suốt thời gian này máy theo dõi nhịp tim liên tục và đo HA mỗi 3-5 phút. Giai đoạn 2: giai đoạn dùng thuốc kéo dài 20 phút. Hiện nay hai loại thuốc được dùng phổ biến nhất là Isoproterenol liều 1-3mcg/phút mục đích tăng nhịp tim lên hơn 25% so với trước lúc truyền thuốc hoặc thuốc Nitroglycerin xịt dưới lưỡi liều cố định 300 hoặc 400mcg. Hình 2. Hình ảnh minh họa tư thế đứng và độ nghiêng bàn Kết quả: Bất cứ giai đoạn nào của nghiệm pháp này có thể gây được cơn ngất hoặc gần ngất kèm với thay đổi huyết động theo biểu đồ 2 đều được ngưng nghiệm pháp ngay bằng cách cho bàn trở về vị trí 0o ban đầu. Có thể nâng chân bệnh nhân lên cao để giúp tăng nhanh lượng máu về tim, hồi phục cơn ngất nhanh hơn(6). ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Phương pháp nghiên cứu Phương pháp nghiên cứu tiền cứu, thống kê mô tả, cắt ngang. Đối tượng nghiên cứu Tất cả bệnh nhân đến làm nghiệm pháp bàn nghiêng tại Khoa Tim mạch Cấp cứu và Can thiệp của Bệnh viện Thống Nhất trong năm 2011. Tiêu chuẩn chọn bệnh Bệnh nhân phải tỉnh táo, đủ sức khỏe để có thể đứng trên bàn nghiêng đủ thời gian quy định. Bệnh nhân đồng ý thực hiện nghiệm pháp. Tiêu chuẩn loại trừ Bệnh nhân không đủ tỉnh táo để thực hiện nghiệm pháp. Bệnh nhân bị đoạn chi dưới. Bệnh nhân không đồng ý thực hiện nghiệm pháp. Bệnh nhân có huyết động không ổn định. Các dữ kiện được thu thập theo mẫu đính kèm. Số liệu nghiên cứu được thực hiện theo các phép kiểm thống kê của phần mềm SPSS 17.0 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU Qua quá trình thu thập và xử lý số liệu từ tháng 01 đến tháng 10 năm 2011, chúng tôi ghi nhận kết quả sau Tổng số bệnh nhân nghiên cứu là 52 người, trong đó có 32 bệnh nhân nam (57,69%) và 20 BN nữ (42,31%). Như vậy trong dân số nghiên cứu, số lượng bệnh nhân Nam nhiều hơn Nữ. Tuổi trung bình Tuổi trung bình 42,25 ± 19,94 (range 15 – 87) Số lần đã bị ngất trước đó Bảng 2: Số lần bị ngất Ngất 1 lần 8 bệnh nhân (15,40%) Ngất nhiều lần 44 bệnh nhân (84,60%) Trong dân số nghiên cứu, số bệnh nhân bị ngất nhiều lần chiếm đa số. Yếu tố khởi phát cơn ngất Bảng 3: Yếu tố khởi phát cơn ngất Yếu tố khởi phát Số bệnh nhân (Tỷ lệ %) Xúc động 3 (05,80%) Đứng lâu 25 (48,10%) Kích thích từ đường tiêu hoá 7 (13,50%) Sau gắng sức 5 (09,60%) Không rõ 12 (23,10%) Yếu tố khởi phát ngất do dứng lâu chiếm tỷ lệ cao nhất. Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học Hội nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Thống Nhất TP. HCM 2012 81 Huyết động trước khi thực hiện NP bàn nghiêng Bảng 4: Huyết động trước nghiệm pháp Mạch 80,62 ± 16,80 lần/phút Huyết áp tâm thu 103,56 ±13,83 mmHg Huyết áp tâm trương 63,35 ± 09,70 mmHg Kết quả nhóm bệnh nhân có kết quả dương tính Qua thực hiện nghiệm pháp bàn nghiêng cho 52 bệnh nhân chúng tôi ghi nhận có 21 trường hợp dương tính chiếm tỷ lệ 40,4%. Tỷ lệ phân bố các type như sau 17.3 1.9 21.2 0 5 10 15 20 25 Type 1 Type 2A Type 2B Type3 Biểu đồ 4: Tỷ lệ phân bố các type Type1 có 9 trường hợp (17,30%), Type 2A chỉ có 1 trường hợp, không có trường hợp nào Type 2B, trong khi đó Type 3 có 11 trường hợp (21,20%). Tiền sử ngất trong nhóm NPBN dương tính Chúng tôi ghi nhận trong nhóm BN có kết quả NP bàn nghiêng dương tính có 100% BN có tiền sử đã từng thực sự ngất 1 hoặc nhiều lần, trong đó yếu tố khởi phát do đứng lâu chiếm tỷ lệ 66,7% (14/21 BN). Giai đoạn có biểu hiện ngất Trong số BN có biểu hiện ngất khi làm NP bàn nghiêng có 5 BN (23,8%) khi chưa cần phải dùng thuốc, và 16 BN (76,20%) ngất xảy ra trong giai đoạn dùng thuốc (Isuprel hoặc Nitroglycerine). 23.8 76.2 0 10 20 30 40 50 60 70 80 90 Chưa dùng thuốc Sau khi đã dùng thuốc Biểu đồ 5: Giai đoạn có biểu hiện ngất Thay đổi huyết động trong lúc ngất khi làm NP bàn nghiêng Bảng 5: Thay đổi huyết động trong lúc ngất khi làm NP bàn nghiêng Mạch 82,62 ± 16,71 l/ph Huyết áp tâm thu 95,71 ± 07,46 mmHg Huyết áp tâm trương 63,81 ± 06,69 mmHg Sự thay đổi huyết áp trước NPBN và khi ngất có ý nghĩa thống kê (p< 0.024). Biến chứng Không có biến chứng gì đáng kể xảy ra. BÀN LUẬN Sau thời gian 1 năm thực hiện nghiệm pháp bàn nghiêng cho 52 bệnh nhân trong đó có 32 BN nam (57,69 %) và 20 BN nữ (43,21%), tuổi trung bình 42,25 ± 19,94 (15 – 87). Nghiên cứu về tiền sử bệnh chúng tôi ghi nhận có 8 BN bi ngất chỉ có 1 lần chiếm tỷ lệ 15,4% và 44 BN bị ngất nhiều lần chiếm tỷ lệ 84,6% trong đó yếu tố khởi phát ngất do xúc động có 3 BN (5,8%), do đứng lâu có 25 BN (48,1%), do kích thích từ đường tiêu hoá có 7 BN (13,5%) và ngất xảy ra sau gắng sức có 5 BN (9,6%). Tuy nhiên có 12 BN (23,1%) không rõ yếu tố khởi phát. Khảo sát huyết động trước nghiệm pháp bàn nghiêng chúng tôi ghi nhận: Nhịp tim trung bình: 80,62 ± 16,80 lần / phút. Huyết áp tâm thu: 103,56 ± 13,83 mmHg. Huyết áp tâm trương; 63,35 ± 09,70 mmHg. Xét riêng nhóm có kết quả bàn nghiêng dương tính, chúng tôi ghi nhận có 21 trường hợp Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Hội nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Thống Nhất TP. HCM 2012 82 dương tính chiếm tỷ lệ 40,4 %, trong đó type1 có 9 trường hợp (17,30%), type 2A chỉ có 1 trường hợp (1,9%), không có trường hợp nào type 2B, trong khi đó type 3 có 11 trường hợp (21,2%). Chúng tôi ghi nhận trong nhóm BN có kết quả NP bàn nghiêng dương tính có 100% BN có tiền sử đã từng thực sự ngất 1 hoặc nhiều lần, trong đó yếu tố khởi phát do đứng lâu chiếm tỷ lệ 66,7% (14/21 BN). Trong số BN có biểu hiện ngất khi làm NP bàn nghiêng có 5 BN (23,8%) khi chưa cần phải dùng thuốc, và 16 BN (76,20%) ngất xảy ra trong giai đoạn dùng thuốc (Isuprel hoặc Nitroglycerine). Chúng tôi cũng ghi nhận những thay đổi về huyết động trong lúc ngất khi làm NP bàn nghiêng với mạch: 82,62 ± 16,71 lần/phút (55 – 110) và huyết áp tâm thu: 95,71 ± 07,46 mmHg và huyết áp tâm trương: 63,81± 06,69 mmHg. KẾT LUẬN Qua nghiên cứu khảo sát 52 bệnh nhân thực hiện NP bàn nghiêng để chẩn đoán ngất, chúng tôi nhận thấy ngất do qua trung gian thần kinh chiếm tỷ lệ khá cao 40,4%, với tiền sử ngất 1 lần là 15,4%, ngất nhiều lần chiếm 84,6%, trong đó yếu tố khởi phát thường gặp nhất là thường xảy ra khi ở tư thế đứng (66,7%). Có tình trạng thay đổi về huyết động học và phân loại type trong quá trình thực hiện. Chúng tôi thấy rằng đa số BN phải dùng thuốc (Isuprel hoặc Nitroglycerine) trong quá trình thực hiện nghiệm pháp. Trong quá trình thực hiện chúng tôi ghi nhận không có biến chứng gì đáng kể xảy ra. Đây là nghiệm pháp khá an toàn và điều dưỡng chúng tôi có vai trò chủ yếu trong lúc thực hiện nghiệm pháp này. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Almquist A, Goldenburg I, Milstein S et al (1989), “Provocation of bradycardia and hypotension by isoproterenol and upright posture in patients with unexplained syncope”, N Engl J Med, 320, pp 346-351. 2. Baum T, Shropshire AT (1975), “Inhibition of efferent sympathetic nerve activity by 5-hydroxytryptophan in centrally administered 5-hydroxytrytophan”, Neuropharmacology, 202, pp 301-319. 3. Brignole M, Croci F, Menozzi C, Solano A, Donateo P, Oddone D, Puggioni E, Lolli G (2002), “Isometric arm counter-pressure maneuvers to abort impending vasovagal syncope”, J Am Coll Cardiol, 40, pp 2053–2059. 4. Kurbaan AS, Bowker TJ, Wijesekera N, Franzén AC, Heaven D, Itty S, Sutton R. (2003), “Age and hemodynamic responses to tilt testing in those with syncope of unknown origin”, J Am Coll Cardiol, 41, pp 1004-1007. 5. Kurbaan AS, Franzen A-C, Bowker TJ et al (1999), “Usefulness of tilt test induced patterns of heart rate and blood pressure using a two stage protocol with glyceryl trinitrate provocation in patients with syncope of