Khảo sát việc sử dụng thuốc giảm đường huyết trong điều trị đái tháo đường týp 2 tại Bệnh viện Thống Nhất năm 2013

Đặt vấn đề: Việc sử dụng các thuốc hạ đường huyết trong điều trị đái tháo đường týp 2 (ĐTĐ2) đã được các khuyến cáo cập nhật thường xuyên. Tuy nhiên trong thực tiễn lâm sàng việc tuân thủ theo khuyến cáo khác nhau tùy theo bệnh viện và chuyên khoa của bác sĩ. Mục tiêu: Tìm hiểu cơ cấu và nhận xét sơ bộ về việc sử dụng các thuốc hạ đường huyết trong điều trị ĐTĐ2 tại Bệnh viện Thống Nhất. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Mô tả cắt ngang 205 hồ sơ bệnh án của bệnh nhân nội trú có chẩn đoán ĐTĐ2 và được chỉ định các thuốc hạ đường huyết, từ tháng 1 đến tháng 5 năm 2013, gồm 64,6% bệnh nhân nam và 35,6% bệnh nhân nữ, với tuổi trung bình là (71,4 ± 12,1). Kết quả nghiên cứu: Các nhóm thuốc chống tăng đường huyết được sử dụng theo thứ tự là biguanid (56,6%), insulin (54,1%), sulfonylurea (43,4%) và ức chế DPP‐4 (1,5%). Việc sử dụng metformin như lựa chọn đầu tiên trong các phác đồ chiếm 41,5%, trong đó tỷ lệ metformin dùng đơn độc (11,2%), metformin kết hợp thêm một thuốc khác (33,2%) và metformin kết hợp với hai thuốc khác (9,3%). Số thuốc hạ đường huyết trong các phác đồ: phác đồ chỉ có 1 thuốc chiếm 50,3% (trong đó 29,3% insulin đơn độc, 11,2% metformin đơn độc và 9,8% gliclazid đơn độc), phác đồ gồm hai thuốc chiếm 38,1% (trong đó tỷ lệ metformin kết hợp gliclazid cao nhất 17,6%) và phác đồ gồm 03 thuốc chỉ chiếm 9,3% (trong đó tỷ lệ metformin kết hợp với insulin và gliclazid là cao nhất 7,3%). Kết luận: Các thuốc chống tăng đường huyết hiện tại được sử dụng tại bệnh viện Thống Nhất chỉ gồm 4 nhóm là biguanid, insulin, sulfonylurea và ức chế DPP‐4. Số thuốc hạ đường huyết trong phác đồ gồm một thuốc hoặc hai thuốc hoặc ba thuốc và không có phác đồ gồm bốn thuốc hạ đường huyết. Việc không chọn metformin đầu tiên trong phác đồ điều trị ĐTĐ2 chưa cao trong khi đó tỷ lệ dùng insulin ở người lớn tuổi thì khá cao.

pdf6 trang | Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 14/06/2022 | Lượt xem: 162 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Khảo sát việc sử dụng thuốc giảm đường huyết trong điều trị đái tháo đường týp 2 tại Bệnh viện Thống Nhất năm 2013, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013  Nghiên cứu Y học Hội Nghị Khoa Học Nội Khoa Toàn Quốc năm 2013  305 KHẢO SÁT VIỆC SỬ DỤNG THUỐC GIẢM ĐƯỜNG HUYẾT   TRONG ĐIỀU TRỊ ĐÁI THÁO ĐƯỜNG TÝP 2   TẠI BỆNH VIỆN THỐNG NHẤT NĂM 2013  Phạm Thị Thu Hiền*, Lê Đình Thanh*, Nguyễn Văn Thành*, Nguyễn Đức Công*  TÓM TẮT  Đặt vấn đề: Việc sử dụng các thuốc hạ đường huyết trong điều trị đái tháo đường týp 2 (ĐTĐ2) đã được  các khuyến cáo cập nhật thường xuyên. Tuy nhiên trong thực tiễn lâm sàng việc tuân thủ theo khuyến cáo khác  nhau tùy theo bệnh viện và chuyên khoa của bác sĩ.  Mục  tiêu: Tìm hiểu cơ cấu và nhận xét sơ bộ về việc sử dụng các  thuốc hạ đường huyết  trong điều  trị  ĐTĐ2 tại Bệnh viện Thống Nhất.  Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Mô tả cắt ngang 205 hồ sơ bệnh án của bệnh nhân nội trú có  chẩn đoán ĐTĐ2 và được chỉ định các thuốc hạ đường huyết, từ tháng 1 đến tháng 5 năm 2013, gồm 64,6%  bệnh nhân nam và 35,6% bệnh nhân nữ, với tuổi trung bình là (71,4 ± 12,1).  Kết quả nghiên  cứu: Các nhóm  thuốc chống  tăng đường huyết được sử dụng  theo  thứ  tự  là biguanid  (56,6%), insulin (54,1%), sulfonylurea (43,4%) và ức chế DPP‐4 (1,5%). Việc sử dụng metformin như lựa chọn  đầu tiên trong các phác đồ chiếm 41,5%, trong đó tỷ lệ metformin dùng đơn độc (11,2%), metformin kết hợp  thêm một thuốc khác (33,2%) và metformin kết hợp với hai thuốc khác (9,3%). Số thuốc hạ đường huyết trong  các phác đồ: phác đồ chỉ có 1 thuốc chiếm 50,3% (trong đó 29,3% insulin đơn độc, 11,2% metformin đơn độc và  9,8% gliclazid đơn độc), phác đồ gồm hai thuốc chiếm 38,1% (trong đó tỷ lệ metformin kết hợp gliclazid cao nhất  17,6%) và phác đồ gồm 03 thuốc chỉ chiếm 9,3% (trong đó tỷ lệ metformin kết hợp với insulin và gliclazid là cao  nhất 7,3%).  Kết luận: Các thuốc chống tăng đường huyết hiện tại được sử dụng tại bệnh viện Thống Nhất chỉ gồm 4  nhóm  là biguanid,  insulin, sulfonylurea và ức chế DPP‐4. Số  thuốc hạ đường huyết  trong phác đồ gồm một  thuốc  hoặc  hai  thuốc  hoặc  ba  thuốc  và  không  có  phác  đồ  gồm  bốn  thuốc  hạ  đường  huyết. Việc  không  chọn  metformin đầu tiên trong phác đồ điều trị ĐTĐ2 chưa cao trong khi đó tỷ lệ dùng insulin ở người lớn tuổi thì  khá cao.  Từ khóa: Đái tháo đường týp 2, metformin, phác đồ.  ABSTRACT THE INVESTIGATION OF USING HYPOGLYCEMIC DRUGS FOR TREATMENT OF TYPE 2  DIABETES AT THONG NHAT HOSPITAL IN 2013  Pham Thi Thu Hein, Le Dinah Than, Nguyen Van Than, Nguyen Duck Cong  * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ Supplement of No 3‐ 2013: 305 ‐ 310  Background:  The  using  of  hypoglycemic  drugs  for  type  2  diabetes  treatment  was  updated  by  recommendations  in  the world. However,  the compliance recommendations  in clinical reality  is different  from  hospitals and speciality of doctors.  Objectives: Finding the structure of using hypoglycemic drugs  in type 2 diabetic patients and primarily  evaluating of using hypoglycemic drugs in therapeutic protocols at Thong Nhat hospital in 2013.  * Bệnh viện Thống Nhất TP Hồ Chí Minh  Tác giả liên lạc: PGS.TS.Nguyễn Đức Công ĐT: 0982160860  Email: cong1608@gmail.com  Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 Hội Nghị Khoa Học Nội Khoa Toàn Quốc năm 2013 306 Study  method:  A  retrospective,  cross‐sectional  descriptive  study  from  January  to May  2013  of  205  inpatient reports with diagnosis of type 2 diabetes and prescribed by hypoglycemic drugs. Including 64.6%  male and 35.6% female, the mean of age was 71.4 ± 12.1.  Results:  The  groups  of  antihyperglycemic  drugs were  biguanid  (56.6%),  insulin  (54.1%),  sulfonylurea  (43.4%) and DPP‐4 inhibitor (1.5%). The protocol with metformin in the initiation of pharmacotherapy for type  2  diabetes was  41.5%,  the metformin  of monotherapy  (11.2%), metformin  in  combination  therapy with  one  hypoglycemic  drug  (33.2%), metformin  in  combination  therapy with  two  other  hypoglycemic  drugs  (9.3%).  Number of hypoglycemic drugs in the regimens: monotherapy regimen was 50.3% (including of 29.3% insulin,  11.2% metformin and 9.8% gliclazid); the regimen of two hypoglycemic drugs were 38.1% (combination with  gliclazid  was  the  highest  17.6%)  and  the  regimens  of  three  hypoglycemic  drugs  were  9.3%  (combination  metformin with gliclazid and insulin was the highest 9.3%).  Conclusions: There were only 4 groups of antihyperglycemic drugs using at Thong Nhat hospital in this  study (biguanid, insulin, sulfonylurea and DPP‐4 inhibitor. Number of hypoglycemic drugs in the rigmens were  only one or two or three and not finding the regimen of 4 hypoglycemic drugs. The protocol with metformin in  the initiation of pharmacotherapy for treatment of type 2 diabetes was not high and total combination regimens  with insulin were rather high in this study.  Keywords: Type 2 diabetes mellitus, metformin, regimens.  ĐẶT VẤN ĐỀ  Đái  tháo  đường  (ĐTĐ)  là  bệnh  lý  thuộc  nhóm  bệnh  chuyển  hóa, mạn  tính  chiếm  tỷ  lệ  khoảng 60 % ‐ 70% trong số các bệnh nội tiết và  gây ra tổn hại nghiêm trọng đến sức khỏe cộng  đồng(6,11). Các thử nghiệm lâm sàng chứng minh  rằng, sử dụng thuốc hợp lý để kiểm soát đường  huyết và HbA1c  trên bệnh nhân ĐTĐ  týp 2 có  thể  làm chậm  tiến  triển bệnh và hạn chế  tối đa  những biến chứng trên cơ quan đích(2,6).  Việc  sử  dụng  các  thuốc  hạ  đường  huyết  trong điều  trị đái  tháo đường  týp 2  (ĐTĐ2) đã  được  các  khuyến  cáo  cập  nhật  thường  xuyên.  Tuy  nhiên  trong  thực  tiễn  lâm  sàng  việc  tuân  thủ  theo khuyến  cáo khác nhau  tùy  theo bệnh  viện và chuyên khoa của bác sĩ. Do đó, chúng tôi  thực hiện đề tài “Khảo sát việc sử dụng thuốc điều  trị  đái  tháo  đường  týp  2  tại BV Thống Nhất  năm  2013”, với các mục tiêu:  Tìm hiểu cơ cấu các loại thuốc điều trị ĐTĐ  týp 2.  Sơ  bộ  nhận  xét  về  việc  kê  đơn  các  thuốc  điều  trị  hạ  đường  huyết  trong  các  phác  đồ  điều  trị  bệnh  nhân  đái  tháo  đường  týp  2  tại  bệnh viện.  ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU  Đối tượng nghiên cứu  Hồ  sơ  bệnh  án  của  bệnh  nhân  được  chẩn  đoán ĐTĐ týp 2, có chỉ định sử dụng hạ glucose  máu,  tại  Bệnh  viện  Thống Nhất  –  TP Hồ Chí  Minh, từ tháng 01 đến tháng 05 năm 2013.  Phương pháp nghiên cứu  Mô tả cắt ngang.  Thu thập các chỉ tiêu  Đặc điểm dịch  tễ của bệnh nhân  (tuổi, giới,  BMI).  Chỉ  số  cận  lâm  sàng  (nồng  độ Cr/máu,  độ  thanh thải creatinin ‐ ClCr).  Thuốc  và  nhóm  thuốc  điều  trị  đái  tháo  đường, tỷ lệ bệnh nhân sử dụng metformin theo  phác  đồ  khuyến  cáo  trong  đồng  thuận  EASD/ADA 2012(3).  Xử lý số liệu  Trên phần mềm Microsoft Excel 2010.  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013  Nghiên cứu Y học Hội Nghị Khoa Học Nội Khoa Toàn Quốc năm 2013  307 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU  Đặc điểm đối tượng nghiên cứu  Bảng 1. Đặc điểm của bệnh nhân.  Đặc điểm Số lượng (%) Giới Nam 132 (64,6%) Nữ 73 (35,6%) Tuổi Dưới 60 tuổi 28 (13,7%) 60 ≤ tuổi ≤ 70 62 (30,2%) 70 < tuổi ≤ 80 60 (29,3%) 70 < tuổi ≤ 80 55 (26,8%) Nhỏ nhất 35 Cao nhất 95 Trung bình ± 12,1 Creatinin Clearance (ClCr) 141 (68,8%) BMI 161 (78,5%) Các bệnh mắc kèm Tăng huyết áp 138 (67,3%) Bệnh tim mạch khác 69 (33,7%) Bệnh tiêu hóa 36 (17,6%) Bệnh hô hấp 21 (10,2%) Suy thận 15 (7,3%) Nhiễm khuẩn nặng 5 (2,4%) Hôn mê 3 (1,5%) Đặc điểm dịch tễ của bệnh nhân được trình  bày  trong  bảng  1.  Trong  205  bệnh  nhân,  tỷ  lệ  bệnh nhân nam cao hơn nữ khoảng 1,8 lần. Với  độ tuổi trung bình là 71,.4 ± 12,1 và số bệnh nhân  trên 60 tuổi nhiều hơn 6 lần so với bệnh nhân ở  độ  tuổi dưới 60. Bệnh nhân cao  tuổi nên đa số  đều có bệnh kèm theo bên cạnh đái tháo đường,  do một bệnh nhân có thể có nhiều hơn một bệnh  kèm, nên tổng số tỷ lệ các bệnh kèm được trình  bày  trong bảng 1 cao hơn 100%. Ở nhóm bệnh  nhân  nghiên  cứu,  chúng  tôi  nhận  thấy  nhóm  bệnh lý tim mạch chiếm tỷ lệ cao nhất, đặc biệt  là tăng huyết áp (67,3%).  Chức năng thận không được đánh giá trên  tất cả các bệnh nhân, chỉ có 141  (68,8%) bệnh  nhân  được  làm  xét  nghiệm  creatinin/máu  và  đánh  giá  chức  năng  thận  dựa  vào  độ  thanh  thải  creatinin. Đây  là một kết quả đáng  được  chú ý, do một số thuốc điều trị đái tháo đường  không  được  khuyến  cáo  sử  dụng  cho  bệnh  nhân suy thận.  Thuốc và các phác đồ điều trị  Tỷ  lệ  các  thuốc và  các nhóm  thuốc  đái  tháo  đường  Bảng 2. Các thuốc và các nhóm thuốc đái tháo  đường.  STT Thuốc và nhóm thuốc Số lượng Tỷ lệ (%) 1 Insulin 111 54,1 2 Sulfonylureas Gliclazid 83 40,5 43,4Glimepirid 1 0,5 Glibenclamid 5 2,4 3 Biguanid Metformin 116 56,6 6 Ức chế DPP-4 * Sitagliptin 3 1,5 Ức chế DPP‐4: Dipeptidyl peptidase‐4 inhibitors.  Trong số các bệnh án khảo sát, nhóm thuốc  biguanid  (metformin) và  insulin  được  chỉ  định  với  tỷ  lệ  khá  tương  đồng  nhau  (1:1),  kế  đến  sulfonylureas. Nhóm  thuốc mới  ức  chế DPP‐4  (sitagliptin) vẫn còn chỉ định hạn chế.  Tỷ  lệ  sử dụng metformin  cho  bệnh nhân  đái  tháo  đường  týp  2  (theo  đồng  thuận  EASD/ADA 2012)  Bảng 3. Tỷ lệ sử dụng metformin trong các phác đồ  điều trị theo đồng thuận EASD/ADA 2012.  TT Sử dụng metformin Số lượng Tỷ lệ (%) 1 Metformin được lựa chọn bước 1 85 41,5 2 Metformin đơn độc 23 11,2 3 Metformin + Sulfonylurea 45 22,0 4 Metformin + Insulin 23 11,2 5 Metformin + Ức chế DPP-4 0 0 6 Metformin + đồng vận thụ thể GLP-1 0 0 7 Metformin + Sulfonylurea + Ức chế DPP-4 2 1,0 8 Metformin + Ức chế DPP-4 + Insulin 1 0,5 Trong  các phác  đồ điều  trị  đái  tháo  đường  týp 2, kể cả phác đồ mới của EASD/ADA 2012,  metformin  luôn  được  lựa  chọn  đầu  tiên  trong  các thuốc hạ đường huyết(4). Những bệnh nhân  được xếp  trong nhóm metformin  lựa chọn đầu  tay là những bệnh nhân được kê metformin đầu  tiên  khi  bắt  đầu  dùng  thuốc  điều  trị  đái  tháo  đường  týp  2,  có  thể dùng  đơn  độc metformin  hoặc  có  thể  kết  hợp  với  các  thuốc  điều  trị  hạ  đường huyết khác.  Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 Hội Nghị Khoa Học Nội Khoa Toàn Quốc năm 2013 308 Theo  khảo  sát  của  chúng  tôi  trên  tất  cả  những  phác  đồ  có  sử  dụng  metformin,  metformin có thể được sử dụng trong các phác  đồ  1  thuốc,  kết  hợp  2  thuốc  hoặc  3  thuốc.  Trong  đó,  khi  so  sánh  với  phác  đồ  của  EASD/ADA  2012, metformin  được  dùng  chủ  yếu làm lựa chọn đầu tay và phối hợp với một  thuốc  sulfonylurea,  với  tỷ  lệ  tương  ứng  là  41,5% và  22,0%. Không ghi nhận  trường hợp  sử dụng phối hợp metformin và  thuốc ức chế  DPP‐4; hoặc metformin và thuốc đồng vận thụ  thể GLP‐1.  Các phác đồ điều trị khác  Bảng 4. Các phác đồ điều trị ĐTĐ týp 2 trong mẫu  nghiên cứu.  Nhóm Phác đồ Số lư ợn g Tỷ lệ (%) 01 thuốc (50,3%) Insulin đơn độc 60 29,3 Metformin đơn độc 23 11,2 Gliclazid đơn độc 20 9,8 02 thuốc (38,1%) Metformin + Insulin 23 11,2 Metformin + Gliclazid 36 17,6 Metformin + Glimepirid 6 2,9 Metformin + Glibenclamid 3 1,5 Insulin + Gliclazid 10 4,9 03 thuốc (11,6%) Metformin + Insulin + Gliclazid 15 7,3 Metformin + Insulin + Glibenclamid 2 0,5 Metformin + Insulin + Ức chế DPP-4 1 0.5 Metformin + Glimepirid + Ức chế DPP-4 2 0.5 Metformin + Glimepirid + Insulin 1 0.5 Khảo  sát  trên  toàn  bộ  bệnh  nhân  được  nghiên  cứu,  với  phác  đồ  sử  dụng  1  thuốc,  insulin hay được chỉ định nhiều hơn khoảng 2  lần  so  với metformin  hoặc  gliclazid  đơn  độc.  Điều này  chứng  tỏ,  có một  tỷ  lệ khá  lớn bệnh  nhân  đái  tháo  đường  týp  2  không  kiểm  soát  được  được  đường  huyết  bằng  thuốc  đường  uống  nên  phải  chuyển  dùng  insulin  đơn  độc.  Ngược lại, trong phác đồ 2 thuốc, metformin và  gliclazid  là  lựa  chọn  ưu  tiên  nhất,  với  tỷ  lệ  17,6%. Bệnh nhân được sử dụng phác đồ 1 thuốc  chiếm tỷ lệ cao nhất (50,3%), tiếp đến là nhóm 02  thuốc  (38,1%)  và  cuối  cùng  là  nhóm  gồm  03  thuốc  (11,6%). Các phác đồ điều  trị ĐTĐ  týp 2  trong mẫu nghiên cứu được  trình bày cụ  thể ở  bảng 4.  BÀN LUẬN  Đặc điểm chung của nhóm nghiên cứu  Theo  nghiên  cứu  dịch  tễ  bệnh  đái  tháo  đường  của Wild  S.  và  cộng  sự  tiến hành  năm  2004, với kết quả được  sử dụng  cho  tất  cả 191  nước thành viên của Tổ chức y tế thế giới. Tỷ lệ  bệnh nhân nam bị đái  tháo đường cao hơn nữ,  nghiên cứu của chúng tôi cũng đưa ra tỷ lệ phù  hợp với mô hình  chung  ‐ bệnh nhân nam  cao  hơn bệnh nhân nữ. Tuy nhiên, một trong những  yếu  tố có  thể ảnh hưởng đến chỉ số này  là mô  hình bệnh nhân ở bệnh viện Thống Nhất thông  thường  là bệnh nhân nam  cao hơn nữ, do  đặc  thù bệnh viện phục vụ  cán bộ  cách mạng  cấp  cao. Cũng theo nghiên cứu trên, bệnh nhân từ 65  tuổi trở lên có tỷ lệ mắc bệnh đái tháo đường týp  2 cao hơn, nghiên  cứu  của  chúng  tôi  cũng  cho  kết quả khá tương đồng với tỷ lệ bệnh nhân trên  60 tuổi cao gấp gần 6 lần so với nhóm đối tượng  dưới 60, và đa số bệnh nhân từ 60‐70 tuổi(11).  Bệnh nhân thuộc nhóm nghiên cứu chủ yếu  mắc  các  bệnh  kèm  về  tim mạch.  Schutta MH.  thực  hiện  nghiên  cứu  năm  2007  về  dịch  tễ  và  mối quan hệ giữa bệnh lý đái tháo đường và các  bệnh lý kèm theo. Nghiên cứu cho thấy đái tháo  đường và tăng huyết áp là cặp bệnh thường gặp  nhất,  dẫn  tới  những  nguy  cơ  tim mạch  nguy  hiểm. Tăng huyết áp là bệnh lý kèm thường gặp  nhất đối với bệnh nhân ĐTĐ týp 1 và 2, chiếm tỷ  lệ  75%  trong  số  tất  cả  các  bệnh  kèm(8).  So  với  nghiên  cứu  Schutta MH.  tỷ  lệ  bệnh  kèm  tăng  huyết  áp  trong  nghiên  cứu  của  chúng  tôi  khá  tương  đồng  –  67,3%.  Theo  chương  trình mục  tiêu  quốc  gia  phòng  chống  tăng  huyết  áp  nói  chung và  tăng huyết áp  ở bệnh nhân  đái  tháo  đường  nói  riêng,  tăng  huyết  áp  là  yếu  tố  làm  tăng mức  độ  nặng  của  ĐTĐ,  ngược  lại  ĐTĐ  cũng làm cho tăng huyết áp trở nên khó điều trị  hơn. Tỷ lệ tăng huyết áp ở người ĐTĐ cao gấp 2  lần  so  với  người  không  bị  ĐTĐ(8).  Bệnh  nhân  trong  nhóm  nghiên  cứu  đa  số mắc  từ  2  bệnh  kèm trở lên. Theo nghiên cứu của tác giả Đỗ Chí  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013  Nghiên cứu Y học Hội Nghị Khoa Học Nội Khoa Toàn Quốc năm 2013  309 Cường (2011) về mô hình bệnh tật tại Bệnh viện  Thống Nhất  thì bệnh nhân  tại bệnh viện  thống  nhất mắc trung bình 4,5 bệnh/ bệnh nhân(7).  Việc đánh giá chức năng thận của bệnh nhân  trước khi cho thuốc là một việc làm quan trọng  và cần thiết để đảm bảo dược hiệu quả điều trị  và  hạn  chế  tác  dụng  không mong muốn  trên  bệnh nhân. Kết quả nghiên  cứu  cho  thấy  tỷ  lệ  bệnh nhân được đánh giá chỉ số ClCr (68,8%), tỷ  lệ này là rất khiêm tốn. Một số thuốc điều trị đái  tháo đường chống chỉ định cho đối tượng bệnh  nhân  suy  giảm  chức  năng  thận,  việc  kiểm  tra  chức năng thận sẽ giúp bác sĩ đưa ra những chỉ  định  thuốc đùng và kiểm soát  tác dụng không  mong muốn  trên  thận  của  thuốc. Chỉ  có  BMI  (78,5%) được đo BMI, những bệnh nhân còn lại  ở  tình  trạng  hôn mê  hoặc  cấp  cứu  nên  không  tiến hành cân đo cho bệnh nhân để thiết lập các  chỉ số trên khi nhập viện. Tuy nhiên trong nhóm  bệnh nhân được khảo sát BMI, bệnh nhân thừa  cân béo phì chiếm tỷ lệ 25,6%, điều này phù hợp  với nghiên cứu của Wild S., béo phì có thể là yếu  tố nguy  cơ  của  đái  tháo  đường hoặc  làm  trầm  trọng tình trạng bệnh.  Việc sử dụng thuốc  Nhóm  thuốc biguanid được sử dụng nhiều  nhất, chiếm (56,6%) kết quả này phù hợp với xu  hướng  điều  trị  trên  thế  giới.  Đồng  thuận  EASD/ADA  2012  đã khuyến  cáo nên  lựa  chọn  metformin  trong  bước  1  trong  phác  đồ  và  kết  quả nghiên cứu trên cho phác đồ này chiếm tỷ lệ  cao  nhất  (chiếm  41,5%).  Tỷ  lệ  sử  dụng  metformin  trong các phác đồ điều  trị cho bệnh  nhân đái tháo đường týp 2 cần được tăng thêm.  Bằng  chứng  của  các nghiên  cứu hiện nay  trên  thế giới cho thấy lợi ích của đem lại cho những  bệnh nhân  bị  đái  tháo  đường  có  kèm  suy  tim  mạn và  có  thể dùng  cho những bệnh nhân  có  eGFR < 30(5). Nghiên cứu UKPDS đã chỉ ra việc  sử dụng metformin  làm giảm các nguyên nhân  tử vong và nhồi máu cơ tim trên bệnh nhân đái  tháo đường týp 2(10). Các nghiên cứu đang quan  tâm  hướng  đến  việc  đánh  giá  lợi  ích  của  metformin  trên  khả  năng  ngăn  ngừa  ung  thư.  Hiện nay, có khoảng 50 nghiên cứu trên thế giới  hướng đến khả năng ngừa ung  thư  trên nhóm  bệnh nhân không bị đái tháo đường(5).  Trong nhóm bệnh nhân đái tháo đường týp  2 dùng đơn  trị  liệu  (01  thuốc hạ đường huyết)  thì Insulin đơn độc chiếm tỷ lệ cao nhất (29,3%),  việc sử dụng này hoàn toàn hợp lý vì đặc điểm  của bệnh nhân  của bệnh viện Thống Nhất  cao  tuổi, đa bệnh lý; đặc biệt các bệnh nhân đái tháo  đường týp 2 có kèm nhồi máu cơ tim, các bệnh  lý  tim mạch  nặng,  suy  gan,  suy  thận,  nhiễm  khuẩn, hôn mê hay tiền hôn mê thì việc sử dụng  insulin là chỉ định bắt buộc(6).  Acarbose  là  một  tetrasacharid  chống  đái  tháo đường, ức chế men alpha‐glucosidase ruột  đặc biệt  là  sucrose,  làm  chậm  tiêu hóa  và hấp  thu  carbohydrate.  Thuốc  acarbose  không  thấy  được  kê  trong  nhóm  nghiên  cứu,  có  thể  do  lượng  thức  ăn  trong một  bữa  người  cao  tuổi  không nhiều; hoặc có  thể các bác sĩ  lo ngại  tác  dụng  phụ  đầy  hơi,  tiêu  chảy. Cũng  có  thể do  bản chất của thuốc được hấp thu qua đường tiêu  hóa  kém  và  đòi  hỏi  chuyển  hóa  ở  ruột  do  vi  khuẩn đường ruột, các yếu tố này lại là trở ngại  đối  với  các  đối  tượng  bệnh  nhân  lớn  tuổi  tại  bệnh  viện  Thống Nhất.  Tuy  nhiên,  trong  quá  trình điều trị các bác sĩ vẫn có thể cân nhắc điều  trị phối hợp với các thuốc nhóm sulfonylurea để  kiểm soát đường huyết cho bệnh nhân(6).  Nhóm ức chế DPP‐4 (dipeptidyl peptidase‐4  inhibitors) hiện tại chưa được sử dụng phổ biến  tại bệnh viện (chỉ chiếm 1,5%) do giá thành điều  trị  so  với  các  thuốc nhóm  khác  còn  tương  đối  cao. Trong các năm  tới có  lẽ số  lượng sử dụng  các  thuốc  trong  nhóm  này  sẽ  tăng  lên  vì  hiệu  quả và các lợi ích vượt trội của chúng(4).  KẾT LUẬN  Qua  nghiên  cứu  khảo  sát,  chúng  tôi  ghi  nhận  về  thuốc  sử  dụng  để  điều  trị  đái  tháo  đường  týp  2 và  các phác  đồ  kết hợp  sử dụng  thuốc  hạ  đường  huyết  tại  bệnh  viện  Thống  Nhất. Nhóm thuốc được sử dụng phổ biến nhất  tại  bệnh  viện  hiện  nay  là  biguanid  và  insulin.  Kinh nghiệm về  sử dụng  các nhóm  thuốc mới  Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 Hội Nghị Khoa Học Nội Khoa Toàn Quốc năm 2013 310 như  thuốc  ức  chế DPP‐4  và  đồng  vận  thụ  thể  GLP‐1  còn  hạn  chế. Metformin  được  lựa  chọn  nhiều nhất trong các phác đồ kết hợp 2 thuốc. So  với khuyến cáo mới của EASD/ADA 2012, việc  sử dụng  thuốc ở bệnh viện Thống Nhất  là khá  phù hợp. Tuy nhiên, qua nghiên cứu này, chúng  tôi  đề  nghị  cần  phải  theo  dõi  chức  năng  thận  chặt chẽ hơn nữa trên tất cả các đối tượng bệnh  nhân đái tháo đường, điều này không chỉ đánh  giá  được  biến  chứng  thận  của  bệnh  nhân, mà  còn  góp  phần  vào  quyết  định  chỉ  định  thuốc  hợp lý cho bệnh nhân. Các nghiên cứu tiếp theo  với quy mô rộng hơn, thời gian khảo sát lâu hơn  và thiết kế phân tích cần được tiến hành để đánh  giá chính xác các yếu tố ảnh hưởng đến chỉ định  thuốc  và  hiệu  quả  điều  trị  lâu  dài  trên  bệnh  nhân đái tháo đường týp 2.  TÀI LIỆU THAM KHẢO  1. ACCORD Study Group et al (2010). Effects of intensive blood‐ pressure  control  in  type  2  diabetes  mellitus.  N  Engl  J  Med.;362:1575.  2. Action  to  Control  Cardiovascular  Risk  in  Diabetes  Study  Group et al (2008). Effects of intensive glucose lowering in týpe  2 diabetes. N Engl J Med;358:2545. (47)  3. American  Diabetes  associati
Tài liệu liên quan