Liên quan nồng độ CA-125 huyết thanh với lạc nội mạc tử cung ở bệnh nhân phẫu thuật điều trị hiếm muộn

Mục tiêu: Xác định mối liên quan giữa nồng độ CA-125 huyết thanh với lạc nội mạc tử cung phúc mạc (LNMTC) theo mức độ nặng của bệnh, lạc tuyến trong cơ tử cung. Xác định ngưỡng cắt CA-125 phù hợp cho chẩn đoán LNMTC phúc mạc và lạc tuyến trong cơ tử cung. Phương pháp nghiên cứu: Một nghiên cứu cắt ngang trên 220 trường hợp có chỉ định phẫu thuật điều trị hiếm muộn tại bệnh viện Đại học Y Dược, tất cả các đối tượng đều được thực hiện tổng soát Bilan hiếm muộn, tổng soát tiền phẫu và CA-125 sau sạch kinh. Dựa vào kết quả nội soi ổ bụng chia các đối tượng thành 2 nhóm: nhóm có LNMTC vùng chậu, lạc tuyến trong cơ tử cung (nhóm bệnh) và nhóm không có LNMTC (nhóm chứng) Kết Quả: Nồng độ CA-125 trung bình trong huyết thanh ở nhóm có LNMTC phúc mạc cao hơn nhóm chứng có ý nghĩa thống kê (48,63 ± 54,34 so với 13,36 ± 11,19), nhóm lạc tuyến cơ tử cung cao hơn nhóm chứng có ý nghĩa thống kê (60,283 ± 64,46 so với 20,34 ± 20,77). Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa nhóm LNMTC phúc mạc tối thiểu, nhẹ so với nhóm chứng với p lần lượt 0,962 và 0,128. Nhưng có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa nhóm LNMTC phúc mạc vừa, nặng so với nhóm LNMTC tối thiểu và nhóm chứng (p<0.05). Ngưỡng CA-125 16,06 UI/ml có độ nhạy 76,1%, độ đặc hiệu 75,6% với diện tích dưới đường cong ROC 0,759 phù hợp cho test chẩn đoán LNMTC phúc mạc. Ngưỡng CA-125 20,86 UI/ml có độ nhạy 70%, độ đặc hiệu 73,6% và tiên đoán âm 81,1% với diện tích dưới đường cong ROC 0,718 phù hợp cho test chẩn đoán lạc tuyến trong cơ tử cung.

pdf6 trang | Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 13/06/2022 | Lượt xem: 172 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Liên quan nồng độ CA-125 huyết thanh với lạc nội mạc tử cung ở bệnh nhân phẫu thuật điều trị hiếm muộn, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Nghiên cứu Y học Sản Phụ Khoa 131 LIÊN QUAN NỒNG ĐỘ CA-125 HUYẾT THANH VỚI LẠC NỘI MẠC TỬ CUNG Ở BỆNH NHÂN PHẪU THUẬT ĐIỀU TRỊ HIẾM MUỘN Phạm Văn Đức*, Âu Nhựt Luân** TÓM TẮT Mục tiêu: Xác định mối liên quan giữa nồng độ CA-125 huyết thanh với lạc nội mạc tử cung phúc mạc (LNMTC) theo mức độ nặng của bệnh, lạc tuyến trong cơ tử cung. Xác định ngưỡng cắt CA-125 phù hợp cho chẩn đoán LNMTC phúc mạc và lạc tuyến trong cơ tử cung. Phương pháp nghiên cứu: Một nghiên cứu cắt ngang trên 220 trường hợp có chỉ định phẫu thuật điều trị hiếm muộn tại bệnh viện Đại học Y Dược, tất cả các đối tượng đều được thực hiện tổng soát Bilan hiếm muộn, tổng soát tiền phẫu và CA-125 sau sạch kinh. Dựa vào kết quả nội soi ổ bụng chia các đối tượng thành 2 nhóm: nhóm có LNMTC vùng chậu, lạc tuyến trong cơ tử cung (nhóm bệnh) và nhóm không có LNMTC (nhóm chứng) Kết Quả: Nồng độ CA-125 trung bình trong huyết thanh ở nhóm có LNMTC phúc mạc cao hơn nhóm chứng có ý nghĩa thống kê (48,63 ± 54,34 so với 13,36 ± 11,19), nhóm lạc tuyến cơ tử cung cao hơn nhóm chứng có ý nghĩa thống kê (60,283 ± 64,46 so với 20,34 ± 20,77). Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa nhóm LNMTC phúc mạc tối thiểu, nhẹ so với nhóm chứng với p lần lượt 0,962 và 0,128. Nhưng có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa nhóm LNMTC phúc mạc vừa, nặng so với nhóm LNMTC tối thiểu và nhóm chứng (p<0.05). Ngưỡng CA-125 16,06 UI/ml có độ nhạy 76,1%, độ đặc hiệu 75,6% với diện tích dưới đường cong ROC 0,759 phù hợp cho test chẩn đoán LNMTC phúc mạc. Ngưỡng CA-125 20,86 UI/ml có độ nhạy 70%, độ đặc hiệu 73,6% và tiên đoán âm 81,1% với diện tích dưới đường cong ROC 0,718 phù hợp cho test chẩn đoán lạc tuyến trong cơ tử cung. Kết Luận: CA-125 huyết thanh đơn giản và không xâm lấn cho chẩn đoán và giúp gợi ý độ nặng của LNMTC phúc mạc nhất là giai đoạn nặng của bệnh và lạc tuyến trong cơ tử cung. Chúng tôi đề nghị ngưỡng CA-125 là 16,06 UI/ml và 20,86 UI/ml cho test chẩn đoán LNMTC phúc mạc và lạc tuyến cơ tử cung. Từ khóa: CA-125, lạc tuyến nội mạc tử cung, vô sinh. ABSTRACT SERUM CA-125 CONCENTRATION AND ENDOMETRIOSIS IN PATIENTS UNDERGOING SURGICAL TREATMENT FOR INFERTILITY Pham Van Duc, Au Nhut Luan * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 15 - Supplement of No 1 - 2011: 131 - 136 Objective: To determine the relationship between serum CA-125 concentrations and stages of pelvic endometriosis and adenomyosis. To determine the cutoff value of CA-125 suitable for diagnosis of pelvic endometriosis and adenomyosis. * Bộ Môn Sản, ĐH Y Dược TP Hồ Chí Minh Tác giả liên lạc: BS. Phạm Văn Đức ĐT: 0914240740, email: phamvanduc1998@gmail.com Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản Và Bà Mẹ - Trẻ Em 132 Method: This was a cross-sectional study on 220 women indicated to surgical treatment for infertility at the hospital of Hochiminh city University of Medicine and Pharmacy. Infertility investigations, pre- operative tests and serum CA-125 concentration determinations after menstruation were performed for all. Based on laparoscopic results, the patients were allocated into two groups: pelvic endometriosis or adenomyosis group, and control group without endometriosis or adenomyosis. Results: CA-125 levels were significantly higher than control in patients with pelvic endometriosis and adenomyosis (mean 48.63 ± 54.34 U/ml for pelvic endometriosis vs 13.36 ± 11.19 U/ml control; 60.283 ± 64.46 U/ml for adenomyosis vs 20.34 ± 20.77 U/ml control). There was no remarkable difference between control and patients with minimal to mild pelvic endometriosis (p = 0.962 and 0.128, respectively), but in patients with moderate to severe pelvic endometriosis, the difference was significant (p <0.05). The CA-125 level of 16.06 UI/ml was associated with a sensitivity of 76.1%, a specificity of 75.6%, and the area under the ROC curve of 0.759, hence suitable for pelvic endometriosis diagnosis. The CA-125 level of 20.86 UI/ml, associated with a sensitivity of 70%, a specificity of 73.6%, the positive predictive value of 81.1%, and the area under the ROC curve of 0.718, was suitable for adenomyosis diagnosis. Conclusions: Serum CA-125 is a simple and non-invasive diagnostic test for, and helpful in suggesting stages especially advanced stages of, pelvic endometriosis and adenomyosis. We suggest the CA-125 cutoff values of 16.06 UI/ml and 20.86 UI/ml, respectively, for the diagnosis of pelvic endometriosis and adenomyosis. Key words: CA-125, endometriosis, infertility. ĐẶT VẤN ĐỀ Cho đến nay, các chứng cứ về mối liên quan giữa LNMTC và hiếm muộn vẫn chưa rõ ràng, nhưng tỷ lệ có thai giảm dần theo mức độ nặng của bệnh. Đồng thời việc đánh giá độ nặng có thể đánh giá tiên lượng và chọn cách thức điều trị thích hợp(Error! Reference source not found.). Nội soi ổ bụng xác định bệnh LNMTC vẫn là tiêu chuẩn vàng chẩn đoán và quyết định biện pháp hỗ trợ sinh sản thích hợp. Tuy nhiên, đây là phương pháp xâm lấn và có một vai trò nhất định đối với u lạc nội mạc tử cung buồng trứng và LNMTC phúc mạc mức độ nhẹ-tối thiểu, còn đối với LNMTC mức độ vừa-nặng thì dường như không có vai trò của phẫu thuật can thiệp, do đó cần được thay thế bằng một khảo sát ít xâm lấn thay cho một nội soi chỉ với mục tiêu chẩn đoán(1,3). Tuy nhiên, siêu âm chỉ có giá trị trong u LNMTC buồng trứng, nhưng kém giá trị trong chẩn đoán các LNMTC khác ở vùng chậu so với nội soi ổ bụng. MRI chỉ có giá trị trong chẩn đoán các LNMTC sâu và adenomyosis còn có giá trị giới hạn trong LNMTC vùng chậu nhưng lại đắt tiền. Đã có rất nhiều xét nghiệm được sử dụng nhằm tiên đoán LNMTC nhưng vẫn chưa có loại nào tối ưu. CA-125 được sử dụng trên 20 năm(5). Nhưng CA-125 không có giá trị chẩn đoán xác định LNMTC vùng chậu khi so với nội soi ổ bụng. Các nghiên cứu của Saghar cho thấy CA 125 cao ở nhóm có LNMTC so với nhóm các bệnh phụ khoa lành tính khác, đặc biệt cao ở nhóm LNMTC nặng(7), cũng như tác giả Kurdoglu cho thấy CA-125 tăng theo giai đoạn nặng của bệnh. CA-125 lại giá thành rẻ hơn MRI và không xâm lấn như phẫu thuật, giá trị tiên đoán cao đối với LNMTC nặng trước thực hiện IVF-ET cũng như dự báo một trường hợp phẫu thuật khó khăn(7). Ngày nay, với tiến bộ của hình ảnh học chẩn đoán xác lập bản đồ và có thể định mức độ nặng của LNMTC, thì việc thực hiện nội soi chỉ với mục tiêu định mức độ nặng của LNMTC vùng chậu là không cần thiết và mang tính xâm hại, do đó thực hiện CA-125 kèm hướng dẫn tiếp theo bởi hình ảnh học là hướng đi mới với mục tiêu ít xâm lấn và lấy bệnh nhân là trung tâm. Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Nghiên cứu Y học Sản Phụ Khoa 133 PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Nghiên cứu cắt ngang được thực hiện tại bệnh viện Đại học Y Dược TPHCM từ tháng 8/2008-10/2010. Với mục tiêu so sánh hai trị số trung bình giữa hai nhóm đối tượng có LNMTC và nhóm không có LNMTC nên cỡ mẫu được tính theo công thức: )( 2 ES Cn = 2 Hằng số C = 10.51 với power 0.9 và a = 0.05, hệ số ảnh hưởng ES = (µ1-µ2)/δ1 với µ1, µ2 là trị số trung bình nhóm LNMTC (µ1=26.42) và nhóm không LNMTC (µ2=12.64), δ1 là độ lệch chuẩn của nhóm có LNMTC (δ1=24.34), đây là kết quả nghiên cứu của Saghar trên 60 phụ nữ nội soi vì các bệnh phụ khoa lành tính và dựa vào kết quả nội soi tác giả đưa ra hai nhóm như trên(7). Thay vào công thức chúng tôi nhận được cỡ mẫu tối thiểu là 65 cho mỗi nhóm, chúng tôi tiến hành trên 220 đối tượng. Phương pháp và tiến hành nghiên cứu Nghiên cứu cắt ngang được thực hiện tại BV Đại học Y Dược từ tháng 8/2008 đến 9/2010 trên 220 đối tượng nội soi điều trị hiếm muộn. Chúng tôi loại ra khỏi mẫu nghiên cứu các trường hợp u LNMTC buồng trứng được phát hiện trên siêu âm, phụ nữ dùng nội tiết điều trị trong vòng 6 tháng trước nội soi, có viêm vùng chậu. Tất cả các trường hợp nội soi có LNMTC đều được đánh giá phân độ theo Hội Sinh Sản Hoa Kỳ (AFS) bởi hai bác sĩ chuyên ngành hiếm muộn và vẽ lại sơ đồ tổn thương trong bảng tường trình phẫu thuật. Các trường hợp có nghi ngờ lạc tuyến trong cơ tử cung trên nội soi đều được siêu âm màu và chụp cộng hưởng từ nhân để khẳng định chẩn đoán bởi các bác sĩ khoa chẩn đoán hình ảnh bệnh viện ĐHYD đảm nhận. Xử lý số liệu Số liệu được phân tích bằng phần mềm SPSS 15.0 và Stata 10.0. Phép kiểm T độc lập được sử dụng để so sánh trung bình của nồng độ CA-125 của nhóm có LNMTC với nhóm chứng và phân tích kiểm định phương sai giữa các nhóm độ nặng LNMTC khác nhau với nhóm chứng. Vẽ đường cong ROC xác định ngưỡng cắt phù hợp của nồng độ CA-125 trong chẩn đoán LNMTC vùng chậu và lạc tuyến cơ tử cung. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU Qua 220 trường hợp nghiên cứu rút ra một số đặc điểm chung như sau: Tuổi trung bình là 32,12 ± 4,1 năm. Phụ nữ vô sinh nguyên phát chiếm 67,7%. Thời gian vô sinh trung bình là 5 ± 3 năm. Kết quả chụp buồng tử cung vòi trứng cho thấy thông thương tốt chiếm 50%, tắc một bên chiếm 16,8%, hai bên là 24,1%, còn ứ dịch là 9,1%. Chỉ định mổ lần này chủ yếu do nguyên nhân tại ống dẫn trứng chiếm 41,4%, thất bại IUI chiếm 24,1%, thất bại IVF chiếm 12,3%, thất bại cả hai là 9,1%. Nồng độ CA-125 trung bình ở nhóm có lạc tuyến trong cơ tử cung cao hơn nhóm chứng có ý nghĩa thống kê (60,283 ± 64,46 so với 20,34 ± 20,77) với p=0,000 Bảng 1: Nồng độ CA-125 trung bình của nhóm Adenomyosis với nhóm chứng số bệnh nhân (phần trăm %) CA-125 (IU/ml) (trung bình ± độ lệch chuẩn) Adenomyosis 80 (36,4%) 20,34 ± 20,77 Nhóm chứng 140 (63,6%) 60,283 ± 64,46 Nồng độ CA-125 trung bình ở nhóm có LNMTC phúc mạc nói chung cao hơn nhóm chứng có ý nghĩa thống kê (48,63 ± 54,34 so với 13,36 ± 11,19) với p=0,000. Nồng độ CA-125 tăng dần theo độ nặng của bệnh (bảng 2), khi phân tích kiểm định trung bình (T test) thì không có sự khác biệt có Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản Và Bà Mẹ - Trẻ Em 134 ý nghĩa thống kê giữa LNMTC phúc mạc tối thiểu với nhẹ (p=0,468) và độ nhẹ với vừa (p=0,245). Nhưng có khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa LNMTC vừa-nặng so với các mức độ nhẹ hơn (p=0,000). Bảng 2: Nồng độ CA-125 trung bình của nhóm LNMTC phúc mạc với nhóm chứng Giai đoạn LNMTC phúc mạc theo phân loại AFS số bệnh nhân (%) CA-125 (IU/ml) (trung bình ± độ lệch chuẩn) Không kèm LNMTC (nhóm chứng) 86 (39,1%) 13,36 ± 11,19 độ I (tối thiểu) 44 (20,0%) 16,23 ± 8,42 độ II (nhẹ) 31 (14,1%) 25,80 ± 13,08 độ III (vừa) 24 (10,9%) 42,44 ± 17,66 độ IV (nặng) 35 (15,9%) 113,83 ± 69,73 Kết quả phân tích so sánh trung bình của nồng độ CA125 thấy không có khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa LNMTC tối thiểu và nhẹ so với nhóm chứng với p lần lượt là 0,985 và 0,274, có khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa LNMTC vừa và nặng với nhóm chứng với p=0,000 (biểu đồ dưới). Vẽ đường cong ROC xác định ngưỡng cắt nồng độ CA125 phù hợp: Diện tích dưới đường cong ROC (UAC) của CA-125 cho LNMTC phúc mạc 0,846 Diện tích dưới đường cong ROC (UAC) của CA-125 cho lạc tuyến cơ tử cung 0,781 Ngưỡng cắt CA-125 phù hợp cho chẩn đoán LNMTC phúc mạc là 16,06 UI/ml với độ nhạy là 76,1% và độ đặc hiệu 75,6%, còn ngưỡng CA-125 cho cho chẩn đoán lạc tuyến cơ tử cung là 20,86 UI/ml cho độ nhạy là 70,0% và độ đặc hiệu 73,6% với diện tích dưới đường cong ROC thích hợp chẩn đoán. Bảng 3: Ngưỡng cắt CA-125 phù hợp cho chẩn đoán LNMTC phúc mạc và lạc tuyến cơ tử cung với diện tích dưới đường cong ROC thích hợp chẩn đoán. Ngưỡng CA-125 độ nhạy (%) độ đặc hiệu (%) AUC (95% CI) Giá trị p LNMTC phúc mạc (16,06 UI/ml) Adenomyosis (20,86 UI/ml) 76,1% 70,0% 75,6% 73,6% 0,759 (0,700–0,817) 0,718 (0,655 - 0,77) 0,000 0,000 Bàn Luận CA-125 là kháng nguyên bề mặt có nguồn gốc biểu mô của các cơ quan từ Mullerian bao gồm kênh cổ tử cung, nội mạc tử cung, vòi trứng và màng lót cơ quan trong khoang cơ thể (phúc mạc, màng tim). Nồng độ huyết thanh cao kết hợp với các bệnh lành và ác tính từ các cơ quan này, nhưng tăng cao hơn ở bệnh lý nguồn gốc lạc vị hơn các nội mô chính vị nên sử dụng chẩn đoán LNMTC. Nghiên cứu của Saghar(7) cho thấy CA-125 cao có ý nghĩa ở nhóm có LNMTC so với nhóm bệnh phụ khoa lành tính khác (26,42 ± 24,34UI/ml so với 12,64 ± 6,87UI/ml), không có sự khác biệt giữa nhóm LNMTC nhẹ và tối thiểu so với nhóm chứng, đặc biệt nhóm có LNMTC mức độ vừa-nặng cao có ý nghĩa so với nhóm còn lại (p<0,05) tương tự kết quả nghiên cứu của chúng tôi và tác giả Kurdoglu cho thấy CA-125 tăng theo giai đoạn nặng của bệnh và khác biệt ở nhóm LNMTC nặng so với nhóm khác (bảng 4). Trong một nghiên cứu cắt ngang trên 52 đối tượng gồm 35 bệnh nhân có LNMTC phúc mạc chậu và 17 đối tượng không bệnh, tác giả Vivian Ferreira Do Amaral(2) ghi nhận nồng độ CA 125 trung bình trong huyết tương cao có ý Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Nghiên cứu Y học Sản Phụ Khoa 135 nghĩa thống kê ở nhóm LNMTC vừa-nặng (39,1 ± 45,8UI/ml) so với nhóm chứng (10,5 ± 5,9 UI/ml) với p <0,005. Kết quả này tương tự với nghiên cứu của chúng tôi trên các đối tượng hiếm muộn. Các phân tích tổng quan mới đây cho thấy vai trò của CA-125 trong chẩn đoán LNMTC phúc mạc nhất là giai đoạn nặng của bệnh, ít có vai trò trong chẩn đoán ở mức độ nhẹ với độ nhạy rất thấp (dưới 50%)(6), khi kết hợp với các chỉ số sinh học khác thì cho giá trị chẩn đoán cao hơn(5). Bảng 4: Nồng độ CA-125 trung bình của nhóm LNMTC phúc mạc với nhóm chứng của tác giả khác: Nghiên cứu Saghar(7) (trung bình ± độ lệch chuẩn) Kurdoglu (trung bình ± độ lệch chuẩn) Không LNMTC (nhóm chứng) 12,64 ± 6,87 15,92 ± 9,10 độ I (tối thiểu) 13,06 ± 5,35 23,56 ± 16,94 độ II (nhẹ) 21,24 ± 11,78 41,02 ± 46,26 độ III (vừa) 40,97 ± 25,46 64,83 ± 126,76 độ IV (nặng) 71,72 ± 30,24 80,86 ± 66,56 Nghiên cứu Chúng tôi Vivian Ferreira (9) Không LNMTC (nhóm chứng) 13,36 ± 11,19 10,5 ± 5,9 độ I (tối thiểu) 16,23 ± 8,42 8,30 ± 4,10 độ II (nhẹ) 25,80 ± 13,08 14,8 ± 8,00 độ III (vừa) 42,44 ± 17,66 37,8 ± 37,9 độ IV (nặng) 113,83 ± 69,73 115,3 ± 35,4 Ngưỡng CA-125 phù hợp chẩn đoán Bảng 5: Ngưỡng CA-125 là 16,06 UI/ml phù hợp cho chẩn đoán LNMTC phúc mạc có tính giá trị chẩn đoán sau: Tính giá trị khoảng tin cậy 95% Độ nhạy, độ đặc hiệu Giá trị tiên đoán dương, âm Tỷ số khả dĩ: LR+, LR- Diện tích dưới đường cong ROC 76,1%, 75,6% 82,9%, 67% 3,12, 0,316 0,759 (68%-83,1%), (65%- 84,2%) (75,1%-89,1%), (56,7%-76,2%) (2,12-4,58), (0,228- 0,437) (0,7-0,817) Ở ngưỡng CA125 này cho thấy giá trị tiên đoán dương rất cao 82,9%, nghĩa là trên ngưỡng CA-125 16UI/ml khả năng có LNMTC phúc mạc nói chung cao với tỷ số khả dĩ dương LR+ là 3,12. Rất quan trọng trong định hướng can thiệp nội soi vô sinh như hoạch định chiến lược trước phẫu thuật và bệnh nhân được thông tin về khả năng điều trị sau mổ khi có LNMTC. Tương tự, nhận biết một LNMTC trước chuẩn bị IVF-ET là rất quan trọng vì điều trị sau đó rất chuyên biệt nhất là đã từng thất bại với IVF, thất bại làm tổ, đã từng phẫu thuật LNMTC, hay hiếm muộn chưa rõ nguyên nhân. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi tương tự với tác giả Saghar(7) ghi nhận ở ngưỡng CA- 125 14,70 UI/ml và tác giả Jo Kitawaki(4) với ngưỡng CA-125 20UI/ml phù hợp với test chẩn đoán LNMTC phúc mạc (bảng 6) Bảng 6: So sánh giá trị ngưỡng cắt CA-125 trong chẩn đoán LNMTC phúc mạc: Tác giả (ngưỡng CA- 125) độ nhạy độ đặc hiệu AUC (95% CI) Chúng tôi (16,06 UI/ml) Saghar (14,70 UI/ml)(7) Jo Kitawaki (20 UI/ml)(4) 76,1% 65,0% 64,5% 75,6% 68,0% 84,2% 0,759 0,711 0,74,3 Bảng 7: Ngưỡng CA-125 là 20,86 UI/ml phù hợp cho chẩn đoán lạc tuyến cơ tử cung có giá trị chẩn đoán sau: Tính giá trị Khoảng tin cậy 95% Độ nhạy Độ đặc hiệu Giá trị tiên đoán dương Giá trị tiên đoán âm Tỷ số khả dĩ LR+ Tỷ số khả dĩ LR- Diện tích dưới đường cong ROC 70% 73,6% 60,2% 81,1% 2,65, 0,408 0,718 (58,7%-79,7%) (65,5%-80,7%) (49,5%-70,25%) (73,2%-87,5%) (1,94-3,62), (0,288-0,577) (0,655-0,77) Ở ngưỡng CA125 này cho thấy giá trị tiên đoán âm rất cao 81,1%, nghĩa là dưới ngưỡng CA-125 20,86 UI/ml khả năng không có lạc tuyến cơ tử cung với tỷ số khả dĩ âm LR- là 0,408. Do vậy ở trên ngưỡng cắt này đòi hỏi hình ảnh học chuyên sâu (siêu âm màu, MRI) để xác định khả năng tồn tại một bệnh lý tiềm tàng gây thất bại IVF và thất bại làm tổ. Tuy nhiên, ở dưới ngưỡng cắt này với siêu âm doppler sau sạch kinh có thể thay thế các can thiệp đắt tiền (MRI) và xâm lấn (nội soi chẩn đoán) tỏ ra là quá tay và không cần thiết. Kết Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản Và Bà Mẹ - Trẻ Em 136 quả này tương tự với nghiên cứu của tác giả Jo Kitawaki ở ngưỡng CA-125 20UI/ml, tuy nhiên độ đặc hiệu và tiên đoán dương cao hơn kết quả nghiên cứu của chúng tôi, có lẽ do khác nhau đối tượng nghiên cứu. Bảng 8: So sánh giá trị ngưỡng cắt CA-125 trong chẩn đoán lạc tuyến cơ tử cung Giá trị tiên đoán Tác giả Ngưỡng CA- 125 Độ nhạy % Độ đặc hiệu % dương âm Diện tích dưới ROC Jo Kitawaki(4) 20UI/ml 51,9% 84,2% 88,7% 42,3% 0,703 Chúng tôi 20,86 UI/ml 70% 73,6% 60,2% 81,1% 0,718 Kết luận Có mối liên quan giữa nồng độ CA-125 huyết thanh với lạc tuyến trong cơ tử cung, LNMTC phúc mạc nhất là các giai đoạn nặng của bệnh. Ngưỡng CA-125 16,06 và 20,86 UI/ml thích hợp cho test tầm soát LNMTC phúc mạc và lạc tuyến cơ tử cung với diện tích dưới đường cong ROC phù hợp. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Âu Nhựt Luân. (2010). Vai trò giới hạn của phẫu thuật trong điều trị hiếm muộn có kèm lạc nội mạc tử cung. Hội thảo CAR III. 2. do Amaral VF. (2006). Positive correlation between serum and peritoneal fluid CA-125 levels in women with pelvic endometriosis. Sao Paulo Med J, 124(4), 223-227. 3. Eshre T. (2008). The ESHRE Guideline on Endometriosis. 4. Kitawaki J. (2005). Usefulness and limits of CA-125 in diagnosis of endometrosis without associated ovarian endometriomas. Human Reproduction, 20(7). 5. May KE. (2010). Peripheral biomarkers of endometriosis: a systematic revier. Human Reproduction update, 00(0), 1-24. 6. Mihalyi AOG (2010). Non-invasive diagnosis of endometriosis based on a combined analysis of six plasma biomarkers. Human Reproduction, 25(3), 654-664. 7. Saghar S. (2009). The correlation between serum and peritoneal fluid CA125 level in Women with pelvic endometriosis. International Journal of Fertility and Sterility, 3(1), 29-34.
Tài liệu liên quan