Luận văn Một số biện pháp cơ bản nhằm hoàn thiện công tác trả lương theo sản phẩm ở Công ty May 10

Tiền lương là một phạm trù kinh tế quan trọng và phức tạp, công tác quản lý tiền lương là một nội dung trọng yếu của công tác quản trị doanh nghiệp. Nó có quan hệ mật thiết với các hoạt động sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp và phải tuân theo những chính sách nguyên tắc, chế độ đãi ngộ đối với người lao động. Tiền lương là một yếu tố chi phí sản xuất quan trọng cấu thành giá thành sản phẩm của doanh nghiệp đồng thời là nguồn thu nhập chủ yếu của người lao động Tiền lương là đòn bẩy kinh tế kích thích sản xuất phát triển. Cùng với sự đổi mới đường lối kinh tế của Đảng và Nhà nước công tác tiền lương ở nước ta những năm qua đã có sự nhận thức đúng đắn hơn và đã có nhiều sự hoàn thiện, cải tiến nhằm thúc đẩy sản xuất phát triển, động viên người lao động nâng cao trình độ nghề nghiệp, hợp lý hoá sản xuất cải tiến kỹ thuật, thực hành tiết kiệm không ngừng tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành sản phẩm trên cơ sở đảm bảo nguyên tắc phân phối theo lao động. Tuy nhiên bước vào cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, các doanh nghiệp không tránh khỏi những khó khăn bỡ ngỡ trong công tác tiền lương nhiều vấn đề nảy sinh đòi hỏi phải tiếp tục nghiên cứu, cải tiến hoàn thiện hơn.

doc87 trang | Chia sẻ: maiphuong | Lượt xem: 1172 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Một số biện pháp cơ bản nhằm hoàn thiện công tác trả lương theo sản phẩm ở Công ty May 10, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU Tiền lương là một phạm trù kinh tế quan trọng và phức tạp, công tác quản lý tiền lương là một nội dung trọng yếu của công tác quản trị doanh nghiệp. Nó có quan hệ mật thiết với các hoạt động sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp và phải tuân theo những chính sách nguyên tắc, chế độ đãi ngộ đối với người lao động. Tiền lương là một yếu tố chi phí sản xuất quan trọng cấu thành giá thành sản phẩm của doanh nghiệp đồng thời là nguồn thu nhập chủ yếu của người lao động Tiền lương là đòn bẩy kinh tế kích thích sản xuất phát triển. Cùng với sự đổi mới đường lối kinh tế của Đảng và Nhà nước công tác tiền lương ở nước ta những năm qua đã có sự nhận thức đúng đắn hơn và đã có nhiều sự hoàn thiện, cải tiến nhằm thúc đẩy sản xuất phát triển, động viên người lao động nâng cao trình độ nghề nghiệp, hợp lý hoá sản xuất cải tiến kỹ thuật, thực hành tiết kiệm không ngừng tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành sản phẩm trên cơ sở đảm bảo nguyên tắc phân phối theo lao động. Tuy nhiên bước vào cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, các doanh nghiệp không tránh khỏi những khó khăn bỡ ngỡ trong công tác tiền lương nhiều vấn đề nảy sinh đòi hỏi phải tiếp tục nghiên cứu, cải tiến hoàn thiện hơn. Công ty May 10 là một doanh nghiệp may với đặc điểm sản xuất là làm hàng gia công cho bạn hàng (90-95% năng lực sản xuất) do đó chi phí tiền lương chiếm một tỷ trọng rất lớn trong chi phí sản xuất của công tyvà mang tính gia công. Sử dụng hợp lý và hiệu quả chi phí tiền lương có ý nghĩa rất quan trọng đến kết quả sản xuất kinh doanh của công ty. Trong thời gian qua mặc dù đã có rất nhiều cố gắng trong việc sử dụng tiền lương một cách hợp lý và đem lại hiệu quả cao nhưng vấn đề tiền lương vẫn là một vấn đề cần phải được hoàn thiện. Trong thời gian thực tập ở công ty được sự hướng dẫn của các cô chú ở công ty, của thầy giáo Đỗ Văn Lư và những tìm hiểu của bản thân tại công ty em đã chọn đề tài “Một số biện pháp cơ bản nhằm hoàn thiện công tác trả lương theo sản phẩm ở Công ty May 10” với mục đích phân tích thực trạng công tác trả lương ở công ty kết hợp với những kiến thức đã được học trong thời gian qua đó đề xuất một vài biện pháp cơ bản nhằm hoàn thiện công tác trả lương ở công ty nhằm sử dụng một cách hiệu quả chi phí tiền lương. Kết cấu của chuyên đề gồm ba phần Phần I Hoàn thiện hình thức trả lương theo sản phẩm là nhân tố cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp Phần II Thực trạng công tác trả lương theo sản phẩm ở Công ty May 10 Phần III Những biện pháp cơ bản nhằm hoàn thiện công tác trả lương theo sản phẩm ở Công ty May 10 PHẦN I HOÀN THIỆN HÌNH THỨC TRẢ LƯƠNG THEO SẢN PHẨM LÀ NHÂN TỐ CƠ BẢN NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ SẢN XUẤT KINH DOANH CỦA DOANH NGHIỆP A. Bản chất của tiền lương I. Các quan điểm cơ bản về tiền lương 1. Quan điểm chung về tiền lương Một trong những đặc điểm của quan hệ sản xuất xã hội là hình thức phân phối. Mỗi phương thức sản xuất đều có một hình thức phân phối nhất định. Ăngghen viết: “Vì phân phối là do những lý do thuần túy kinh tế chi phối, cho nên lợi ích của sản xuất sẽ điều chỉnh việc phân phối và phương thức phân phối nào làm cho mọi người trong xã hội có thể phát triển toàn diện nhất, có thể duy trì và biểu hiện năng lực của mình thì phương thức phân phối đó mới kích thích phát triển nhất” Phân phối là một trong bốn khâu quan trọng nhất của quá trình sản xuất xã hội: Sản xuất ---Phân phối ---Trao đổi--- Tiêu dùng. Chủ nghĩa Mac Lênin khẳng định trong quá trình sản xuất thì sản xuất đóng vai trò quyết định phân phối và các khâu khác phụ thuộc vào sản xuất và do sản xuất quyết định nhưng có ảnh hưởng trực tiếp, tích cực trở lại đối với sản xuất. Ănghen viết; “Phân phối không chỉ đơn thuần là kết quả tiêu cực của sản xuất và trao đổi, đến lượt nó cũng có tác dụng trở lại sản xuất, trao đổi” Tổng sản phẩm xã hội do lao động xã hội tạo ra phải được đem phân phối cho tất cả tiêu dùng cá nhân, cho cả tích luỹ tái sản xuất mở rộng và cho tiêu dùng công cộng. Dưới chủ nghĩa xã hội việc phân phối theo lao động phù hợp với đòi hỏi đó, toàn bộ sản phẩm xã hội là kết quả của lao động thuộc về người lao động và được phân phối vì lợi ích của họ Phân phối theo lao động dưới chủ nghĩa xã hội chủ yếu là tiền lương tiền thưởng. Tiền lương dưới chủ nghĩa xã hội về bản chất khác hẳn tiền lương dưới chế độ tư bản chủ nghĩa Trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa người công nhân sau thời gian làm việc, hoặc sau khi hoàn thành một khối lượng công việc nào đó, được nhà tư bản trả một số tiền, đó là tiền lương tư bản chủ nghĩa. Tiền lương tư bản chủ nghĩa không phải là tiền trả công lao động, không phải là giá cả của lao động. Tiền lương tư bản chủ nghĩa là biểu hiện bằng tiền của giá trị sức lao động là giá cả sức lao động biểu hiện ra bên ngoài như là giá cả của lao động. Đó là bản chất tiền lương tư bản chủ nghĩa còn trong CNXH tiền lương là một phần giá trị mà xã hội làm ra trong một giai đoạn và được phân phối cho người lao động căn cứ quĩ hàng hoá xã hội và công sức đóng góp của từng người 2. Quan điểm mới về tiền lương Theo quan điểm mới của Đảng và Nhà nước ta, tiền lương trong giai đoạn mới phải được trả theo đúng giá trị sức lao động. Điều này có nghĩa là a. Tiền lương phải trả theo đúng cấp bậc công việc Xuất phát từ quan điểm chung là tiền lương phải được trả theo đúng giá trị sức lao động của người công nhân chúng ta nhận thấy rằng giá trị sức lao động của người công nhân bên cạnh việc có thể lượng hoá được thông qua các sản phẩm mà họ hoàn thành nhưng trong thực tế có rất nhiều công việc không tạo ra sản phẩm thực tế hoặc do thời gian tạo ra sản phẩm quá lớn và do vậy rất khó đánh giá, lượng hoá giá trị sức lao động của công nhân theo sản phẩm. Khắc phục những khó khăn đó người ta đã tìm ra một chỉ tiêu mới nhằm lượng hoá giá trị sức lao động mà người lao động bỏ ra đó là cấp bậc công việc. Người ta xác định rằng để tạo ra một sản phẩm hay hoàn thành một bước công việc bất kỳ người công nhân đều phải thực hiện một hay một số các công việc, thao tác nhất định tác động lên đối tượng lao động nhằm cải biến nó thành các sản phẩm, bán thành phẩm phục vụ cho quá trình sản xuất tiếp theo. Các thao tác này tuỳ thuộc từng loại công việc, loại sản phẩm mà đòi hỏi các yêu cầu khác nhau về sức lực cơ bắp hay về trí lực, khả năng khéo léo trình độ khoa học, kinh nghiệm làm việc... của người công nhân. Người ta cũng xác định được rằng có thể phân nhóm các loại công việc khác nhau đó thành các nhóm có cùng yêu cầu về trí, lực để thực hiện và từ đó xây dựng nên hệ thống cấp bậc công việc, các công việc có cùng cấp bậc công việc có cùng yêu cầu để thực hiện công việc Như vậy căn cứ vào cấp bậc công việc mà người công nhân thực hiện người ta có thể lượng hoá chính xác hơn giá trị sức lao động mà người lao động bỏ ra để thực hiện công việc đó. Vì vậy khi tiến hành trả lương người ta phải căn cứ vào cấp bậc công việc để trả lương. Cấp bậc công việc cao có nghĩa là nó đòi hỏi người công nhân phải hao tốn nhiều sức lực cơ bắp, phải có kinh nghiệm hơn.. giá trị sức lao động bỏ ra nhiều hơn để hoàn thành công việc do đó mà họ phải được trả lương cao hơn công nhân thực hiện công việc có cấp bậc công việc thấp hơn. b. Tiền lương cao hay thấp là tuỳ thuộc vào kết quả sản xuất kinh doanh của đơn vị Cũng xuất phát từ quan điểm tiền lương phải được trả theo đúng giá trị sức lao động. Nếu giá trị sức lao động mà họ bỏ ra cao thì họ phải được hưởng lương cao. Tuy vậy cần phải nói thêm rằng trong nền kinh tế thị trường lượng lao động hao phí bỏ ra phải thực sự đem lại hiệu quả, thực sự đem lại giá trị mới hay nói cách khác thì lao động phải hiệu quả. Lao động bỏ ra phải đạt được hiệu quả thì mới được trả lương Giá trị sức lao động trong hoạt động sản xuất kinh doanh là giá trị đầu vào đặc biệt bởi vì nó không như các giá trị khác ở sản phẩm cuối cùng các giá trị khác đều bị giảm đi riêng giá trị sức lao động lại được tăng lên ở sản phẩm cuối cùng hay nói cách khác chính sự gia tăng của giá trị sức lao động tạo nên hiệu quả của hoạt động sản xuất kinh doanh. Tiền lương là biểu hiện của giá trị sức lao động và nó nhỏ hơn giá trị thực tế mà việc sử dụng sức lao động đem lại. Chúng ta quay lại với vấn đề hiệu quả trong hoạt động kinh doanh mà ở đây là sử dụng sức lao động. Tính hiệu quả ở đây thể hiện qua việc sử dụng hợp lý sức lao động làm cho lượng giá trị mới mà việc sử dụng sức lao động đem lại tăng đến tối đa có thể được và vì vậy làm tăng được kết quả của hoạt động SXKD. Có thể dễ dàng nhận thấy kết quả SXKD là một biểu hiện của tính hiệu quả trong quá trình sử dụng sức lao động. Giá trị sức lao động bỏ ra của người lao động đem lại kết quả gì có thể định lượng được và được xã hội chấp nhận được lưu thông trao đổi được sử dụng để thỏa mãn nhu cầu của con người. Có như vậy sản phẩm tạo ra mới được thanh toán để trả lương cho công nhân lao động. Như vậy tiền lương cao hay thấp bên cạnh việc trả theo đúng giá trị sức lao động mà họ bỏ ra còn phải tính đến tính hiệu quả của việc sử dụng sức lao động mà biểu hiện của nó là kết quả hoạt động SXKD, nếu cùng một lượng giá trị sức lao động bỏ ra nếu tính hiệu quả cao hơn, kết quả SXKD cao hơn thì tất yếu sẽ được trả lương cao hơn và ngược lại nếu hiệu quả thấp hơn, kết quả SXKD thấp hơn thì sẽ được trả lương thấp hơn thậm chí tiền lương sẽ giảm tối thiểu bằng 0 nếu như không có tính hiệu quả trong việc sử dụng lao động. c. Phải gắn chặt tiền lương thực tế và tiền lương danh nghĩa. Cũng lại xuất phát từ quan điểm tiền lương phải trả theo đúng giá trị sức lao động. Như ta đã biết giá trị sức lao động được biểu hiện qua các hao phí về cơ bắp, trí lực trong quá trình hoạt động SXKD. Tiền lương mà người công nhân nhận được là được trả cho các hao phí đó và như bất kỳ một hoạt động nào nó phải được dùng để bù đắp lại các hao phí đó. Tiền lương được trả là tiền lương tiền tệ nếu xét về mặt hiện vật nó chỉ là giấy, kim loại hay bất kỳ một vật thể nào được xã hội coi là có giá trị trong trao đổi nhưng thực tế cái mà tái tạo ra các hao phí của người lao động lại là thức ăn, nước uống. Ở mức độ cao hơn đó là các giá trị tinh thần khác. Vì vậy cần phải có sự chuyển đổi tiền lương từ tiền tệ sang các yếu tố nhằm tái tạo hao phí lao động. Trong nền kinh tế thị trường muốn trao đổi cần phải có tiền và khi trao đổi thì yếu tố giá cả là yếu tố quan trọng quyết định đến hành vi trao đổi. Trên cơ sở đó người ta xây dựng nên hai khái niệm về tiền lương là tiền lương danh nghĩa và tiền lương thực tế trong đó tiền lương danh nghĩa là lượng tiền tệ mà người lao động nhận được do sự đóng góp sức lao động của mình vào hoạt động SXKD. Còn tiền lương thực tế là chỉ tiêu nhằm xác định về mặt hiện vật các giá trị vật chất mà tiền lương danh nghĩa đem lại. Giữa tiền lương danh nghĩa và tiền lương thực tế có mối quan hệ TL danh nghĩa TL thực tế = ¾¾¾¾¾¾¾¾¾ Chỉ số giá Khi chỉ số giá thay đổi làm cho tiền lương thực tế thay đổi ảnh hưởng đến cuộc sống của người lao động do vậy cần phải có sự điều chỉnh tiền lương danh nghĩa khi chỉ số giá thay đổi nhằm ổn định tiền lương thực tế tạo điều kiện cho nó thực hiện đầy đủ các chức năng vai trò của nó. d. Doanh nghiệp phải đảm bảo trả lương đúng thời hạn qui định để ổn định đời sống cho người lao động. Trong xã hội hiện đại thời gian và tính thời điểm luôn được coi trọng. Tiền lương của người công nhân sau khi nhận được dùng để chi cho hai nhu cầu là tiêu dùng và tích lũy. Nhu cầu tiêu dùng là nhu cầu có ý nghĩa quan trọng và nó là nhu cầu thường trực trong cuộc sống. Trong xã hội hiện đại sản xuất được chuyên môn hóa cao độ lưu thông trao đổi đóng vai trò quan trọng và vì vậy tiền tệ có vai trò rất lớn trong xã hội. Người lao động khi thoả mãn nhu cầu của mình cần phải có tiền để mua bán, trao đổi. Tiền của người lao động ở đây có thể coi chủ yếu là tiền lương. Vì vậy do nhu cầu tiêu dùng là nhu cầu thường xuyên nên người lao động cũng cần tiền liên tục và họ lao động để nhận chúng, để có kế hoạch sử dụng chúng. Bất kỳ một sự thay đổi trong thời hạn trả lương sẽ làm thay đổi các kế hoạch, xáo trộn nhu cầu tiêu dùng và vì vậy sẽ làm cho cuộc sống của người lao động bất định, do vậy doanh nghiệp cần phải trả lương đúng thời hạn, không chỉ để ổn định đời sống cho người lao động mà còn đảm bảo rằng người lao động sẽ toàn tâm toàn ý khi lao động trong doanh nghiệp. e. Doanh nghiệp phải đảm bảo đủ việc làm để ổn định và tiến tới tăng mức thu nhập cho người lao động. Việc làm không chỉ là nhu cầu của người lao động mà còn là nhu cầu cả chủ doanh nghiệp. Đối với người lao động có việc làm đồng nghĩa với có thu nhập, có nguồn sống... còn đối với doanh nghiệp có việc làm có nghĩa là có cơ hội để tồn tại và phát triển. Có đủ việc làm là cơ sở để doanh nghiệp xây dựng các kế hoạch trong tương lai và xác định được đích đến của mình. Xuất phát từ các yếu tố đó doanh nghiệp còn phải đảm bảo đủ việc làm để ổn định và tăng mức lương cho người lao động. g. Trong một đơn vị phải đảm bảo công bằng hợp lý Xã hội càng hiện đại, giá trị “mới” tạo ra ngày càng nhiều, thu nhập, đời sống của người lao động ngày càng cao thì yếu tố tinh thần lại càng giữ vị trí quan trọng. Khi lao động chuyển từ giản đơn sang lao động phức tạp thì yếu tố tinh thần có vai trò quyết định đến năng suất lao động, hiệu quả lao động. Vì vậy vấn đề tạo động lực trong doanh nghiệp ngày càng có vai trò quan trọng trong chính sách quản lý doanh nghiệp. Và vấn đề tạo động lực cho lao động bằng các biện pháp phi vật chất ngày càng quan trọng hơn khi yếu tố vật chất trở nên kém ý nghĩa. Một trong số các biện pháp phi vật chất là tạo động lực thông qua việc trả lương công bằng hợp lý. Công bằng hơn là mục tiêu mà các nhà quản lý luôn vươn tới, nó là cơ sở để thực hiện tất cả các qui phạm đề ra, có công bằng mới trả lương theo đúng giá trị sức lao động, có công bằng mới trả lương theo hiệu quả lao động... và công bằng là động lực mạnh mẽ nhất thúc đẩy người lao động vươn lên trong hoạt động sinh tồn vì họ không chỉ mang lại giá trị vật chất mà còn được xã hội khẳng định tính hơn trội của họ, thỏa mãn được nhu cầu tâm lý tự hoàn thiện, khẳng định cái tôi cá nhân một trong những nhu cầu ở cấp cao nhất của con người. II. Các chức năng cơ bản của tiền lương 1. Chức năng tái sản xuất sức lao động Như Các Mác đã nói trước khi làm bất cứ một việc gì từ đơn giản đến phức tạp thì bất cứ một con người nào cũng phải ăn, mặc hay nói cách khác họ phải được thỏa mãn các nhu cầu sinh lý tổi thiểu của mình. Muốn sống và phát triển thì bất kỳ con người nào cũng phải được thỏa mãn các nhu cầu nói trên. Lao động cũng là hoạt động của con người và lẽ dĩ nhiên để có khả năng lao động người lao động phải ăn, mặc hay chúng ta có thể nói để có sức lao động thường xuyên người lao động cần phải được tái sản xuất sức lao động. Để có được các yếu tố nhằm thỏa mãn các nhu cầu đó trong xã hội hiện nay người lao động cần phải có hoạt động trao đổi mua bán với một công cụ đặc biệt đó là tiền tệ; có tiền họ mới có được các yếu tố trên. Tiền được nói ở đây gồm phần lớn là tiền lương từ lao động của người lao động hay nói cách khác muốn có được các yếu tố thỏa mãn nhu cầu của mình người lao động cần có tiền lương. Tiền lương phải đảm nhận việc đem lại cho người lao động các yếu tố mà họ cần. Tiền lương phải thực hiện chức năng tái sản xuất sức lao động trí tuệ để lao người lao động nghiên cứu, tích lũy kinh nghiệm, mua sách báo khoa học... giải trí, thư giãn... Từ cơ sở là chức năng tái sản xuất sức lao động của tiền lương, người ta đã xây dựng lên tiền lương tối thiểu. Đây là tiền lương đủ để tái sản xuất sức lao động cho người lao động khi thực hiện một công việc nào đó. Trong thực tế trên lương tối thiểu có thể khác nhau tùy yêu cầu tái sản xuất sức lao động của người lao động như thế nào. 2. Chức năng kích thích lao động Tiền lương là cơ sở để tái sản xuất sức lao động, để người lao động có một cuộc sống tốt đẹp hơn, là điều kiện để người lao động tự hoàn thiện mình, khẳng định mình... Do vậy sức ép của tiền lương đối với người lao động là rất lớn. Họ sẽ phải cố gắng để có được tiền lương cao vì nó không chỉ đem lại cho họ giá trị vật chất mà còn đem lại cho họ giá trị tinh thần. Từ quan điểm tiền lương trả đúng theo giá trị sức lao động và nhận định về hiệu quả của sử dụng sức lao động, người lao động cần phải đóng góp được nhiều hơn giá trị sức lao động của họ. Họ phải sử dụng hợp lý thời gian làm việc để đóng góp được nhiều nhất sức lao động của mình. Họ sẽ phải lao động hăng say, tăng số giờ làm việc thực tế, giảm số giờ hao phí không cần thiết. Họ phải sử dụng hiệu quả sức lao động của mình, tăng tỉ lệ sức lao động có ích trên tổng hao phí sức lao động, họ phải giảm được các thao tác thừa trong quá trình sản xuất, tăng được năng suất lao động, tăng tỉ lệ thành phẩm đạt chất lượng cao, phát huy sáng kiến nhằm tận dụng công suất máy móc... nâng cao hiệu quả sử dụng lao động cho doanh nghiệp và những cố gắng nỗ lực này của họ được ghi nhận, cùng với việc tăng lương kích thích lao động, tiền thưởng còn tạo cho họ một động lực mạnh mẽ hơn nữa và cứ như vậy tiền lương đã làm cho kích thích lao động từ thụ động sang việc chủ động nâng cao năng lực của mình. 3. Chức năng điều phối lao động Tiền lương được trả theo đúng giá trị của sức lao động nhưng đánh giá về hiệu quả, chất lượng của giá trị sức lao động lại phụ thuộc nhiều yếu tố khác nhau như tính cấp thiết, tính thời điểm... Do vậy người ta đã lợi dụng đặc tính này để sử dụng tiền lương như một công cụ hiệu quả trong điều phối lao động. Lao động ở đây làm công việc gì là tự quyền quyết định của người lao động trên cơ sở đánh giá xem xét tiền lương đem lại và sức lao động hao phí bỏ ra. Nếu cùng một công việc, cùng điều kiện làm việc mà họ được đánh giá là có giá trị sức lao động đóng góp cao, được tiền lương cao thì họ sẽ chấp nhận công việc đó. Do vậy khi mong muốn lao động tập trung hay giảm bớt lượng lao động có một công việc, nhà quản lý sử dụng đến công cụ tiền lương. Muốn tập trung lao động họ chỉ cần đánh giá cao sức lao động mà người lao động bỏ ra và trả lương cao lên thì tất yếu lao động sẽ tập trung tại đó và ngược lại muốn giảm bớt lượng lao động quản lý chỉ cần giảm lương thấp xuống. Đây không phải là sự điều phối lao động bằng các mệnh lệnh hành chính. Sự điều phối này thực chất là sự tự nguyện của người lao động và vì vậy hiệu quả của lao động sẽ cao hơn rất nhiều. 4. Chức năng quản lý lao động Các tác dụng to lớn của tiền lương đối với người lao động đã rõ như vậy sử dụng công cụ tiền lương trong hoạt động quản lý là điều tất yếu. Tiền lương thể hiện chức năng quản lý lao động thể hiện qua việc nó được sử dụng nhằm theo dõi, giám sát người lao động, quản lý gián tiếp người lao động, đánh giá hiệu quả sử dụng lao động. Nhìn vào tiền lương của người lao động, ta thấy được nguyên nhân của việc tiền lương cao, thấp là do đâu, do đơn giá cao hay thấp, do người lao động chăm chỉ hay biếng nhác. Ta thấy được trong cùng một đơn vị thời gian sự khác nhau về tiền lương giữa hai công nhân cùng làm việc, đưa ra các nhận định, đánh giá. Khi tiến hành phân tích, chứng minh các nhận định đó đưa ra các giải pháp nhằm thực hiện đầy đủ các quan điểm về tiền lương là thực chất chúng ta đã thực hiện hoạt động quản lý. III. Vai trò kinh tế của tiền lương 1. Đối với người lao động Đối với người lao động tiền lương với ý nghĩa là thu nhập của họ có vai trò to lớn đối với hoạt động của họ trong xã hội. Và vì vậy họ luôn luôn có mong muốn được tiền lương cao hơn, có được thu nhập nhiều hơn. Muốn vậy họ phải đóng góp nhiều hơn giá trị sức lao động cảu mình vào hoạt động sản xuất kinh doanh của xã hội. Họ tăng lượng giá trị sức lao động đóng góp vào hoạt động sản xuất không chỉ bằng việc tăng cường độ hoạt động mà ngày nay họ phải nâng cao hiệu quả sức lao động, phải chuyển từ lao động giản đơn sang lao động phức tạp. Vì vậy họ phải không ngừng nâng cao khả năng của mình, cố gắng học hỏi trí thức khoa học, tích lũy kinh nghiệm và sử dụng những gì họ có một