Luận văn Nâng cao chất lượng cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại chi nhánh Láng Hạ - Ngân hàng thương mại cổ phần Quân Đội

Những năm gần đây chúng ta chứng kiến sự phát triển nhanh chóng của hệ thống ngân hàng từ 4 Ngân hàng thương mại quốc doanh và 15 Ngân hàng thương mại cổ phần và hợp tác xã tín dụng năm 1990, đến năm 2008 con số này đã lên tới 6 ngân hàng quốc doanh và 35 ngân hàng thương mại cổ phần cùng rất nhiều các chi nhánh ngân hàng nước ngoài, công ty tài chính Với số lượng đông đảo như vậy, các ngân hàng muốn phát triển và thành công thì phải tự xác định cho mình thị trường và đối tượng khách hàng chủ yếu. Doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm hơn 93% số doanh nghiệp tại Việt Nam, với lĩnh vực hoạt động phong phú, quy mô đa dạng đang là thị trường mang lại nhiều lợi nhuận nhưng cũng đầy rủi ro cho các ngân hàng thương mại. Ngân hàng thương mại cổ phần Quân Đội là ngân hàng lựa chọn chiến lược phát triển ngân hàng bán lẻ tập trung đối tượng doanh nghiệp vừa và nhỏ và đã thu được nhiều thành công.

doc75 trang | Chia sẻ: maiphuong | Lượt xem: 1802 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Nâng cao chất lượng cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại chi nhánh Láng Hạ - Ngân hàng thương mại cổ phần Quân Đội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU Những năm gần đây chúng ta chứng kiến sự phát triển nhanh chóng của hệ thống ngân hàng từ 4 Ngân hàng thương mại quốc doanh và 15 Ngân hàng thương mại cổ phần và hợp tác xã tín dụng năm 1990, đến năm 2008 con số này đã lên tới 6 ngân hàng quốc doanh và 35 ngân hàng thương mại cổ phần cùng rất nhiều các chi nhánh ngân hàng nước ngoài, công ty tài chính… Với số lượng đông đảo như vậy, các ngân hàng muốn phát triển và thành công thì phải tự xác định cho mình thị trường và đối tượng khách hàng chủ yếu. Doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm hơn 93% số doanh nghiệp tại Việt Nam, với lĩnh vực hoạt động phong phú, quy mô đa dạng đang là thị trường mang lại nhiều lợi nhuận nhưng cũng đầy rủi ro cho các ngân hàng thương mại. Ngân hàng thương mại cổ phần Quân Đội là ngân hàng lựa chọn chiến lược phát triển ngân hàng bán lẻ tập trung đối tượng doanh nghiệp vừa và nhỏ và đã thu được nhiều thành công. Chi nhánh Láng Hạ là chi nhánh mới đi vào hoạt động của ngân hàng Quân Đội và 100% khách hàng là doanh nghiệp vừa và nhỏ. Vấn đề lớn nhất của chi nhánh đó là đảm bảo tăng trưởng dư nợ trong khi vẫn đảm bảo chất lượng cho vay với đối tượng khách hàng doanh nghiệp vừa và nhỏ được xem là có nhiều đặc điểm phức tạp. Yêu cầu trên đặc biệt khó khăn trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế như hiện nay. Do đó, em đã lựa chọn cho đề tài “ Nâng cao chất lượng cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại chi nhánh Láng Hạ - Ngân hàng thương mại cổ phần Quân Đội”. Chuyên đề thực tập được chia làm ba phần chính: Phần I: Chất lượng cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ Phần II: Thực trạng cho vay đối với DNVVN tại chi nhánh Ngân hàng thương mại cổ phần Quân Đội – Láng Hạ Phần III: Giải pháp nâng cao chất lượng cho vay tại chi nhánh Ngân hàng TMCP Quân Đội – Láng Hạ. Trong quá trình làm, em xin được chân thành cảm ơn sự hướng dẫn tận tình của giáo viên hướng dẫn PGS.TS Đào Văn Hùng, cùng sự chỉ bảo trong quá trình thực tập của cán bộ tín dụng tại MB Láng Hạ đã giúp em hoàn thành chuyên đề thực tập này. CHƯƠNG I. CHẤT LƯỢNG CHO VAY ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ. 1.1. Khái niệm và các đặc trưng của doanh nghiệp vừa và nhỏ: 1.1.1. Khái niệm và phân loại doanh nghiệp vừa và nhỏ: 1.1.1.1 Khái niệm doanh nghiệp vừa và nhỏ: Theo Luật doanh nghiệp tại Việt Nam, “Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật, nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh – tức là thực hiện một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lời.” Có rất nhiều cách phân loại doanh nghiệp. Nếu phân loại theo hình thức sở hữu, ta sẽ có: doanh nghiệp Nhà Nước, doanh nghiệp tư nhân, công ty hợp danh, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần. Còn có thể phân loại doanh nghiệp theo các ngành nghề, lĩnh vực. Nếu phân loại theo quy mô doanh nghiệp, ta sẽ có doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp vừa và nhỏ. Như vậy, khi nói đến doanh nghiệp vừa và nhỏ là ta đang nói đến các doanh nghiệp được phân loại theo tiêu thức quy mô doanh nghiệp. Khái niệm doanh nghiệp vừa và nhỏ hiện nay ở các nước trên thế giới chỉ mang tính chất tương đối về thời gian lẫn không gian. Quy mô doanh nghiệp vừa và nhỏ ở các nước thì khác nhau và có thể, quy mô doanh nghiệp nhỏ ở Mỹ, Nhật, Pháp lớn hơn quy mô của doanh nghiệp nhỏ ở Việt Nam, và quy mô của doanh nghiệp vừa và nhỏ của một nước hiện tại có thể lớn hơn quy mô của doanh nghiệp vừa và nhỏ tại nước đó vào thời kì trước. Tại Mỹ, doanh nghiệp vừa và nhỏ được định nghĩa như sau: “Là một doanh nghiệp có quyền sở hữu độc lập, hoạt động độc lập và không phải là thành phần nổi trội của một ngành công nghiệp”. Tiêu chuẩn cụ thể doanh nghiệp vừa và nhỏ của Mỹ phụ thuộc vào ngành hoạt động. Ví dụ như trong ngành chế tạo, doanh nghiệp nhỏ nếu số lượng công nhân nhỏ hơn hoặc bằng 250 người, vừa: nếu 250 – 1000 người, lớn: nếu trên 1000 người. Tại Hàn Quốc, phân chia dựa chủ yếu vào số lượng công nhân làm việc cho cơ sở ấy và tùy thuộc vào ngành nghề kinh doanh. Ví dụ trong ngành chế tạo và khai khoáng thì doanh nghiệp vừa là doanh nghiệp từ 21-300 công nhân, doanh nghiệp nhỏ là có nhỏ hơn 21 công nhân. Tóm lại, ở mỗi quốc gia trên thế giới đều có những khái niệm khác nhau và những tiêu chuẩn khác nhau để phân loại như thế nào là một doanh nghiệp vừa và nhỏ. Nhưng nhìn chung những tiêu thức mà các nước thường sử dụng để làm căn cứ phân loại các doanh nghiệp vừa và nhỏ với các doanh nghiệp lớn là các tiêu thức về vốn, lao động hoặc doanh thu. Tùy thuộc vào điều kiện và thời điểm của mỗi nước mà tiêu thức dùng làm phân loại có thể là một hoặc hai trong ba tiêu thức đó. Ở Việt Nam, theo Nghị Định số 90/2001 NĐ – CP ngày 23/11/2001 của Chính Phủ thì doanh nghiệp vừa và nhỏ được định nghĩa như sau: “Doanh nghiệp vừa và nhỏ là các cơ sở sản xuất kinh doanh theo quy định của pháp luật hiện hành, có vốn đăng kí không quá 10 tỉ đồng hoặc có số lao động trung bình hàng năm không quá 300 người.” 1.1.1.2 Phân loại doanh nghiệp vừa và nhỏ: Theo tiêu chuẩn của Ngân hàng Thế giới (World Bank) và Công ty tài chính Quốc tế (IFC), các doanh nghiệp vừa và nhỏ được phân chia theo quy mô như sau: Doanh nghiệp vô cùng nhỏ (Micro – enterprise): có đến 10 lao động, tổng tài sản không quá 100.000 USD và tổng doanh thu hàng năm không quá 100.000 USD. Doanh nghiệp nhỏ (Small – enterprise): có không quá 50 lao động, tổng tài sản có giá trị không quá 3.000.000 USD và tổng doanh thu hàng năm không quá 3.000.000 USD. Doanh nghiệp vừa (Medium – enterprise): có không quá 300 lao động, tổng tài sản có giá trị không quá 15.000.000 USD và tổng doanh thu hàng năm không quá 15.000.000 USD. Ở Việt Nam, không có sự phân chia cụ thể doanh nghiệp vừa và doanh nghiệp nhỏ. 1.1.2. Các đặc điểm của doanh nghiệp vừa và nhỏ: Doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm số lượng đông đảo, rất đa dạng về ngành nghề và quy mô, tuy vậy, có thể kể ra một số đặc điểm nổi bật dễ nhận thấy của các DNVVN: Thứ nhất, DNVVN có quy mô vốn và năng tài lực chính thấp. Đây là đặc điểm nổi bật nhất của các DNVVN. Các DNVVN có quy mô vốn ban đầu thấp cho nên khả năng huy động vốn theo đó cũng sẽ không được cao, gây khó khăn trong tiếp cận với tín dụng ngân hàng. Từ vốn ban đầu thấp ảnh hưởng đến quy mô đầu tư trang thiết bị của doanh nghiệp, khả năng đầu tư chiều sâu….và nhiều yếu tố khác. Thứ hai, DNVVN sử dụng những công nghệ và thiết bị lạc hậu. Đặc điểm trên cũng xuất phát từ quy mô vốn thấp của các DNVVN. Việc đầu tư công nghệ và thiết bị hiện đại cần sử dụng số vốn lớn. Việc đầu tư nâng cấp các thiết bị máy móc đã lỗi thời cũng cần có khả năng tài chính tốt, cho phép đầu tư lâu dài. Trong khi đó thì ở Việt Nam, nguồn vốn đầu tư vào công nghệ là nguồn vốn mà các DNVVN khó có khả năng tiếp cận được. Ngoài ra, để có thể thành công trong một nền kinh tế cạnh tranh cao độ như hiện nay, các doanh nghiệp phải thường xuyên thay đổi công nghệ, máy móc, thiết bị, các phương pháp, bí quyết sản xuất. Thế nhưng hầu hết công nghệ đang được sử dụng trong các doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam hiện được đánh giá là lạc hậu. Đại đa số những người chủ của các doanh nghiệp nhỏ và vừa không có kiến thức, thông tin, kinh nghiệm về những vấn đề liên quan đến lựa chọn, mua và chuyển giao công nghệ. Thứ ba, trình độ quản lý còn thấp. Các nhà quản lý DNVVN thường chưa được đào tạo bài bản về chuyên môn, nghiệp vụ, thiếu hiểu biết đầy đủ về quản trị doanh nghiệp dẫn đến nhiều giám đốc doanh nghiệp không thế lập được kế hoạch tài chính, khhông xây dựng được phương án sản xuất kinh doanh khả thi… Ngoài ra thì các DNVVN có nguồn lao động chất lượng được đánh giá là thấp và ít. Nguyên nhân là do các DNVVN không có khả năng thu hút các nhân lực chất lượng cao do điều kiện làm việc và chế độ làm việc ở các DNVVN không đáp ứng được mức lương thưởng như tại các doanh nghiệp lớn. Thứ tư, khả năng tiếp cận thông tin kém. Việc thiếu những thông tin về nhu cầu thị trường, về thiết bị, nguyên vật liệu…đã khiến cho sức cạnh tranh của các DNVVN yếu đi. Hơn nữa, hoạt động thiếu thông tin khiến cho quá trình sản xuất kinh doanh không mang tính định hướng chính xác. Thứ năm, cơ cấu tổ chức đơn giản, bộ máy tổ chức gọn nhẹ, số lượng nhân viên ít. Lợi thế mang lại của đặc điểm này đó là DNVVN linh hoạt, dễ thích ứng với sự thay đổi của thị trường. 1.1.3. Vai trò của doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế thị trường: Ở mỗi nền kinh tế quốc gia hay lãnh thổ, các doanh nghiệp nhỏ và vừa có thể giữ những vai trò với mức độ khác nhau, song nhìn chung có một số vai trò tương đồng như sau: Giữ vai trò quan trọng trong nền kinh tế: các doanh nghiệp nhỏ và vừa thường chiếm tỷ trọng lớn, thậm chí áp đảo trong tổng số doanh nghiệp (Ở Việt Nam chỉ xét các doanh nghiệp có đăng ký thì tỷ lệ này là trên 93%). Vì thế, đóng góp của họ vào tổng sản lượng và tạo việc làm là rất đáng kể. Giữ vai trò ổn định nền kinh tế: ở phần lớn các nền kinh tế, các doanh nghiệp nhỏ và vừa là những nhà thầu phụ cho các doanh nghiệp lớn. Sự điều chỉnh hợp đồng thầu phụ tại các thời điểm cho phép nền kinh tế có được sự ổn định. DNVVN cũng đóng vai trò hỗ trợ hoạt động cho các doanh nghiệp lớn. Chi phí của các doanh nghiệp lớn có thể giảm đáng kể nếu họ biết sử dụng một cách linh hoạt và hiệu quả các DNVVN trong quá trình sản xuất. Vì thế, doanh nghiệp nhỏ và vừa được ví là thanh giảm sốc cho nền kinh tế. Làm cho nền kinh tế năng động: vì doanh nghiệp nhỏ và vừa có quy mô nhỏ, nên dễ điều chỉnh (xét về mặt lý thuyết) hoạt động. Quy mô nhỏ khiến mô hình tổ chức của DNVVN gọn nhẹ, rất dễ thích nghi với thay đổi của thị trường, dễ dàng chuyển đổi khi có biến động thị trường. Tạo nên ngành công nghiệp và dịch vụ phụ trợ quan trọng: doanh nghiệp nhỏ và vừa thường chuyên môn hóa vào sản xuất một vài chi tiết được dùng để lắp ráp thành một sản phẩm hoàn chỉnh. Là trụ cột của kinh tế địa phương: nếu như doanh nghiệp lớn thường đặt cơ sở ở những trung tâm kinh tế của đất nước, thì doanh nghiệp nhỏ và vừa lại có mặt ở khắp các địa phương và là người đóng góp quan trọng vào thu ngân sách, vào sản lượng và tạo nhiều công ăn việc làm ở địa phương. DNVVN tạo điều kiện duy trì tự do cạnh tranh trên thị trường, tránh tình trạng độc quyền của các doanh nghiệp lớn do, DNVVN hoạt động với số lượng lớn, tham gia vào các ngành nghề rất đa dạng. Nhìn chung, doanh nghiệp vừa và nhỏ được thừa nhận là đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong quá trình phát triển của các nước có nền kinh tế phát triển nói chung và các nước đang phát triển nói riêng, trong đó có Việt Nam. Doanh nghiệp vừa và nhỏ là một nhân tố góp phần làm kinh tế phát triển mạnh mẽ, đặc biệt là khu vực kinh tế tư nhân. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ đã và sẽ góp phần quan trọng để xoá đói giảm nghèo, tạo sự cấu thành mới cho phát triển kinh tế Việt Nam. 1.2. Hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ: 1.2.1. Khái niệm về cho vay: 1.2.1.1. Khái niệm ngân hàng thương mại: Ngân hàng là một trong các tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền kinh tế. Ngân hàng bao gồm nhiều loại tùy thuộc vào sự phát triển của nền kinh tế nói chung và hệ thống tài chính nói riêng, trong đó ngân hàng thương mại thường chiếm tỷ trọng lớn nhất về quy mô tài sản, thị phần và số lượng các ngân hàng. Chức năng cơ bản nhất của ngân hàng thương mại cũng là đặc điểm cơ bản đó là việc nhận tiền gửi để sử dụng vào các nghiệp vụ cho vay, chiết khấu và các dịch vụ kinh doanh của ngân hàng. Theo luật các tổ chức tín dụng sửa đổi được Quốc Hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 15/06/2004: “Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan. Theo tính chất và mục tiêu hoạt động, các loại hình ngân hàng gồm ngân hàng thương mại, ngân hàng phát triển, ngân hàng đầu tư, ngân hàng chính sách, ngân hàng hợp tác và các loại hình ngân hàng khác.” “Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán khác.” Các hoạt động của cơ bản của ngân hàng thương mại bao gồm có: huy động vốn, hoạt động sử dụng vốn và các hoạt động khác. Trong đó, hoạt động sử dụng vốn rất đa dạng và phong phú là hoạt động kinh doanh tạo lợi nhuận cho ngân hàng thương mại. Hoạt động sử dụng vốn của ngân hàng thương mại có thể kể đến như: cho thuê tài chính, chiết khấu các giấy tờ có giá , bảo lãnh, bao thanh toán, tài trợ xuất nhập khẩu, cho vay....Tuy nhiên, trong các hoạt động sử dụng vốn của ngân hàng thương mại thì hoạt động cho vay là hoạt động cơ bản, thể hiện đặc trưng của ngân hàng thương mại. 1.2.1.2. Khái niệm hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại: Theo quyết định số 1627/2007/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001 của Thống đốc ngân hàng Nhà Nước về việc ban hành quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng thì: “ Cho vay là một hình thức cấp tín dụng, theo đó tổ chức tín dụng giao cho khách hàng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời hạn nhất định theo thỏa thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi. Thời hạn nhất định ở đây chính là thời hạn cho vay.” Cho vay đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) là hình thức ngân hàng cấp vốn cho các DNVVN trên cơ sở các doanh nghiệp này đáp ứng đầy đủ các yêu cầu về điều kiện tín dụng của ngân hàng như: điểm tín dụng, vốn, uy tín, tính khả thi của vốn vay... Các DNVVN với nhiều hạn chế về trình độ quản lý, vốn, năng lực tài chính đang phải cố gằng rất nhiều để tiếp cận nguồn vốn của ngân hàng. Cho vay DNVVN là phương thức tín dụng của ngân hàng theo tiêu thức đối tượng khách hàng. Đây là loại hình doanh nghiệp chiếm đa số và rất đa dạng trong các khách hàng của các ngân hàng thương mại (NHTM), do đó, các NHTM cũng tập trung khai thác, tạo nhiều điều kiện thuận lợi hơn cho đối tượng khách hàng trên hơn. 1.2.2. Các phương thức cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ: Hoạt động cho vay đối với DNVVN cũng như các loại hình doanh nghiệp khác rất đa dạng với các tiêu chí phân loại khác nhau. Sau đây là một số phương thức cho vay cơ bản: Căn cứ vào tính chất nghiệp vụ, cho vay được phân loại thành: Cho vay thấu chi: là nghiệp vụ ngân hàng cho DNVVN vay qua đó ngân hàng cho phép người vay được chi trội trên số dư tiền gửi thanh toán của mình đến một giới hạn nhất định. Hình thức vay trên đang dần được sử dụng phổ biến hơn với các DNVVN có quan hệ tín dụng thường xuyên với ngân hàng. Cho vay trực tiếp từng lần: là hình thức cho vay phổ biến nhất đối với các DNVVN. Nguồn tín dụng ngân hàng chỉ tham gia vào một số giai đoạn nhất định của chu kỳ kinh doanh. Nghiệp vụ cho vay đơn giản và doanh nghiệp có thể kiểm soát từng lần vay. Cho vay theo hạn mức: là nghiệp vụ mà theo đó ngân hàng thỏa thuận cung cấp cho khách hàng hạn mức tín dụng có thể tính cho cả kỳ hoặc cuối kỳ. Đó là số dư tối đa tại thời điểm tính. Đây cũng là phương thức cho vay mà ngân hàng thường chỉ áp dụng với các khách hàng có mối quan hệ thường xuyên với ngân hàng. Cho vay luân chuyển: là nghiệp vụ cho vay mà theo đó ngân hàng cho vay dựa trên luân chuyển của hàng hóa của doanh nghiệp. Hình thức cho vay như trên rất ít được sử dụng với các DNVVN. - Cho vay trả góp: là hình thức cho vay theo đó ngân hàng cho phép khách hàng trả gốc làm nhiều lần trong thời hạn tín dụng đã thỏa thuận. Hình thức cho vay này khá hợp lý đối với các DNVVN và thường được áp dụng kết hợp với các hình thức cho vay khác. - Cho vay gián tiếp: là hình thức cho vay thông qua các tổ chức trung gian, thường được áp dụng đối với thị trường có nhiều món vay nhỏ, người vay phân tán, cách xa ngân hàng. Hình thức vay này ít được các ngân hàng áp dụng với các DNVVN. Căn cứ vào thời hạn cho vay, ngân hàng phân loại cho vay thành cho vay ngắn hạn, cho vay trung và dài hạn. Trong đó, các DNVVN chủ yếu sử dụng cho vay ngắn hạn cho các khoản vay dưới 12 tháng và chủ yếu được sử dụng để tài trợ cho tài sản lưu động hoặc nhu cầu sử dụng vốn ngắn hạn. 1.3. Chất lượng cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ: 1.3.1. Quan điểm vể chất lượng cho vay: Hoạt động cho vay là một trong những hoạt động mang lại doanh thu chủ yếu cho các ngân hàng thương mại, do đó, chất lượng cho vay luôn là vấn đề được quan tâm hàng đầu ở các ngân hàng. Hiện nay, các vị trí khác nhau thì có những quan điểm khác nhau về chất lượng cho vay. Theo quan điểm của khách hàng, các khoản cho vay có chất lượng phải là các khoản có vốn vay phù hợp với mục đích sử dụng vốn, có lãi suất và kỳ hạn hợp lý tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, thủ tục đơn giản, thuận tiện nhưng vẫn đảm bảo các nguyên tắc tín dụng và quy chế cho vay. Theo quan điểm sự phát triển vĩ mô của nền kinh tế, chất lượng cho vay thể hiện ở hoạt động cho vay có phục vụ cho sản xuất và lưu thông hàng hóa hay không, góp phần giải quuyết công ăn việc làm, tạo được sự hài hòa giữa hoạt động cho vay với chính sách phát triển của Chính Phủ... Theo quan điểm của ngân hàng thương mại, chất lượng cho vay thể hiện trên hai mặt cơ bản: mức độ an toàn của khoản vay và hiệu quả kinh tế của khoản vay. Mức độ an toàn của khoản vay: được thể hiện qua chỉ tiêu về khả năng hoàn trả của khách hàng. Một khoản vay chứa đựng nhiều nguy cơ không trả được nợ thì được coi là khoản vay có chất lượng kém. Hiệu quả kinh tế của khoản vay: đó là khả năng sinh lời mà khoản vay mang lại để đảm bảo sự phát sự tồn tại và phát triển bền vững của ngân hàng. Thông qua hoạt động cho vay này, các doanh nghiệp nhận tiền vay sẽ được hỗ trợ về vốn để mở rộng sản xuất, tạo công ăn việc làm...đóng góp vào sự phát triển chung của toàn xã hội. Một cách khái quát, chất lượng cho vay chính là sự đáp ứng về số lượng và chất lượng đối với nhu cầu vay vốn của khách hàng và đảm bảo các yếu tố an toàn và lợi nhuận đối với ngân hàng. Khoản vay được coi là có chất lượng tốt khi nó mang lại lợi ích kinh tế cho cả khách hàng và ngân hàng và cho cả xã hội. Tức là vốn đưa vào kinh doanh tạo ra số tiền lớn đủ để trang trải chi phí, trả được gốc và lãi cho ngân hàng và có lợi nhuận đóng góp vào sự tăng trưởng của nền kinh tế. 1.3.2. Sự cần thiết của nâng cao chất lượng cho vay đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ: Việc nâng cao chất lượng cho vay đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ đóng vai trò quan trọng đối với cả bản thân doanh nghiệp, ngân hàng cũng như toản xã hội. Để thấy được sự cần thiết của nâng cao chất lượng cho vay, ta hãy xem xét ý nghĩa và vai trò của việc nâng cao chất lượng cho vay của các DNVVN. 1.3.2.1. Đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ: Đối với các doanh nghiệp nói chung và DNVVN nói riêng, chất lượng cho vay cao tức là khoản vay chính đáng của doanh nghiệp được đáp ứng một cách kịp thời, nhanh chóng, quá trình giải ngân phù hợp với yêu cầu kinh doanh, chi phí vay vốn thấp, thủ tục nhanh gọn và hiệu quả sử dụng vốn cao. Khi nhận được vốn tài trợ phù hợp của ngân hàng, DNVVN có thể đầu tư theo mục đích vay vốn nhằm cải thiện công nghệ, mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh, nâng cao năng suất....từ đó đem lại thu nhập cao hơn cho doanh nghiệp, nâng cao mức sống của công nhân. Do đó, các DNVVN luôn muốn chọn cho doanh nghiệp một ngân hàng có chất lượng cho vay tốt. 1.3.2.2. Đối với Ngân hàng thương mại: Cho vay là một trong những hoạt động sinh lời quan trọng nhất của các NHTM. Khi ngân hàng tìm cách nâng cao chất lượng cho vay tức là ngân hàng tìm cách mở rộng hoạt động cho vay một cách đảm bảo, để có thể vừa mở rộng vừa thu hồi lãi và gốc đúng hạn. Nghĩa là nâng cao chất lượng cho vay sẽ làm tằng doanh thu cho ngân hàng. Nhờ đó, ngân hàng có thể tiếp tục mở rộng tín dụng cũng như các dịch vụ khác. Nâng cao chất lượng cho vay cũng giúp tăng uy tín của ngân hàng, từ đó thu hút được khách hàng mới, tăng cường khả năng cạnh tranh của ngân hàng. Đó cũng là mục tiêu phát triển bền vững của các ngân hàng thương mại, cạnh tranh bằng cách nâng cao chất lượng dịch vụ. Do đó, nâng cao chất lượng c
Tài liệu liên quan