Luận văn Nghiên cứu khảo sát hiện trạng xử lý nước thải và quản lý bùn thải tại một số khu công nghiệp trong địa bàn thành phố Hồ Chí Minh và đề xuất biện pháp xử lý bùn thải thích hợp

Việt Nam là một nước đang phát triển. Công nghiệp hóa - hiện đại hóa được xem như chìa khóa để phát triển đất nước. Hiện nay, với hơn 800.000 cơ sở sản xuất công nghiệp và gần 70 khu chế xuất (KCX) - khu công nghiệp (KCN) tập trung đã đóng góp một phần rất lớn vào GDP của đất nước. Tuy nhiên, vấn đề bảo vệ môi trường chưa được quan tâm đúng mức. Với tốc độ phát triển kinh tế liên tục tăng trưởng từ 8-11% trong những năm gần đây, kinh tế thành phố Hồ Chí Minh (TP.HCM) luôn dẫn đầu và xứng đáng là “đầu tầu” khu vực kinh tế trọng điểm phía Nam, nhưng TP.HCM cũng đang phải gánh vác nặng nề một lượng chất thải công nghiệp sinh ra từ sự tăng trưởng đó. Tính đến đầu năm 2011, trong số 172 KCN đã đi vào hoạt động có 102 KCN đã vận hành hệ thống xử lý nước thải. Như vậy, 60% khu công nghiệp, khu chế xuất (KCN, KCX) trên cả nước có hệ thống xử lý nước thải. Tổng lượng nước thải từ các KCN ước khoảng 1 triệu m3/ngày/đêm (chiếm khoảng 35% tổng lượng nước thải của cả nước). Hiện, cả nước còn 127 KCN chưa xây dựng công trình xử lý nước thải tập trung, trong đó có gần 50 KCN đã vận hành cần phải khẩn trương xây dựng. Tổng công suất xử lý nước thải tại các KCN mới ở mức 339.500 m3/ngày/đêm, tương đương với 33,95% lượng nước thải được xử lý. Các KCN này cũng đang xây dựng thêm 32 nhà máy xử lý nước thải, với công suất 160.600m3/ngày đêm, tương ứng với 16,06%. Như vậy, nếu các nhà máy xử lý nước thải đang xây dựng đi vào hoạt động thì mới có 50% lượng nước thải ở các KCN, KCX được xử lý. Tương tự, chất thải rắn từ các KCN hiện có khoảng 2,3 triệu tấn/năm, trong đó chất thải rắn nguy hại chiếm khoảng 20%. Nhiều nơi có nhà máy xử lý nước thải nhưng thực chất không hoạt động vì thiếu kinh phí hoặc các cơ sở sản xuất xử lý nhưng không đấu nối vào hệ thống xử lý nước thải tập trung. Vì vậy, nhiều chỉ tiêu về coliform, amoniac, kim loại nặng đều vượt tiêu chuẩn cho phép. Với hơn 800 nhà máy nằm trong 15 KCN, KCX đang hoạt động (theo thống kê tháng 6/2005 của Phòng Quản Lý Chất thải rắn - Sở Tài Nguyên và Môi trường TP.HCM); gần 28.000 cơ sở vừa và nhỏ nằm phân tán khắp thành phố (theo Cục thống kê Thành Phố HCM năm 2004), mỗi ngày thành phố tiếp nhận khoảng 250 tấn bùn thải công nghiệp (BTCN), trong đó có khoảng 12-15 tấn BTCN nguy hại nhưng không được xử lý, tái chế. Hàng năm các nhà máy trong KCN – KCX trên địa bàn TP.HCM thải ra 6.726,4 tấn BTCN. Bùn thải này đã ảnh hưởng đến môi trường xung quanh, gây ô nhiễm không khí và nhất là thẩm thấu làm ô nhiễm ngưồn nuớc ngầm, nước mặt dẫn đến chất luợng nguồn nuớc bị suy giãm .Hiện nay mỗi ngày TP vẫn phải tiếp nhận khoảng gần 400.000 m3 nước thải công nghiệp.thải trực tiếp xuống kênh rạch. Do vậy phần lớn các kênh rạch của Thành phố đều bị bùn lắng rât nhanh và ô nhiễm nghiêm trọng, hầu hết đều có màu đen và hôi thối, gấy ảnh hưởng đến cuộc sống và môi trường. Tính đến nay, trong tổng số 15 KCX, KCN đang hoạt động trên địa bàn thành phố thì đã có 3 KCX (Tân Thuận, Linh Trung và Linh Trung II) và 2 KCN (Tân Bình, Lê Minh Xuân) có đầu tư trạm phân loại, trung chuyển chất thải các loại; các KCN còn lại thì phần lớn do các đơn vị có chức năng trên địa bàn thành phố thu gom trực tiếp tại các nhà máy có phát sinh. Ngoài ra các trạm xử lý nước thải (XLNT) tập trung phát sinh lượng bùn thải sẽ được Công ty Phát triển hệ tầng (PTHT) KCN thu gom giao Công ty Môi trường đô thị thành phố xử lý. Việc xử lý nước thải và quản lý BTCN phát sinh trong quá trình hoạt động sản xuất của doanh nghiệp còn nhiều khó khăn như đối với các trường hợp doanh nghiệp chỉ phát sinh một lượng BTCN khối lượng nhỏ thì khó hợp đồng với các đơn vị thu gom, xử lý dẫn đến việc bị xử lý vi phạm trong công tác quản lý BTCN. Hiện nay, việc thu gom vận chuyển, xử lý bùn thải công nghiệp hiện nay hoàn toàn tự phát, do các doanh nghiệp tư nhân đảm nhiệm. Một số KCN giao khoán hợp đồng cho các đơn vị này làm mà không có kiểm tra giám sát. Các đơn vị thu gom BTCN từ các nhà máy xí nghiệp sau đó đem về phân loại, những chất có thể tái chế thì tận dụng còn chất độc hại thì đổ ra môi trường. Nhiều doanh nghiệp hoạt động không có giấy phép, chỉ khi nào được KCN yêu cầu thì mới đến Sở Tài Nguyên và Môi trường xin giấy phép. Nhiều KCN thừa nhận, sau khi kí hợp đồng xong, các công ty thu gom, vận chuyển bùn thải đi đâu KCN hoàn toàn không nắm được. Ở nhiều KCN, nước thải chưa qua xử lý đổ trực tiếp xuống sông hồ, gây ô nhiễm ở mức độ đáng báo động. Nước thải Khu công nghiệp không được xử lý triệt để sẽ gây ảnh hưởng đến chất lượng nguồn nước sinh hoạt của dân cư lân cận, ảnh hưởng tới sức khỏe người dân và trên diện rộng sẽ ảnh hưởng chất lượng nguồn nước mà dân sử dụng. . Ngân hàng Thế giới ước tính mức thiệt hại kinh tế của Việt Nam do thiếu quản lý nước thải và chất thải lên tới 1,3% thu nhập quốc dân. Vào những thời kỳ suy thoái, mức thiệt hại này còn có thể cao hơn. Tác động của BTCN đối với môi trường, cảnh quan và muôn vật cũng như sự cần thiết và tầm quan trọng của quản lí BTCN đã đề cập đến rất nhiều trong các đạo Luật Bảo vệ môi trường của tất cả các quốc gia trên thế giới, trong tuyên bố của các tổ chức quốc tế, trong nhiều tài liệu, sách báo hội nghị, hội thảo Ở Việt Nam, các vấn đề liên quan đến BTCN cũng đã được qui định cụ thể trong Luật Bảo vệ môi trường và các văn bản pháp qui dưới Luật. Gần đây chúng đã được đề cập đến rất nhiều trong các hôi nghị, hội thảo khoa học về bảo vệ môi trường và được nhắc đến thường xuyên trong các phương tiện thông tin đại chúng. Đồng thời còn là sự quan tâm sâu sắc đối với các cơ quan chức năng, nghiên cứu và đào tạo, mà còn là đối với đại đa số các tầng lớp nhân dân kèm theo những lời chỉ trích gay gắt, đặc biệt là đối với các khu công nghiệp tập trung. Việc xử lý nước thải công nghiệp còn gặp nhiều khó khăn do các công trình hạ tầng kỹ thuật, nhất là lĩnh vực xử lý nước thải và chất thải đòi hỏi đầu tư lớn nhưng lợi nhuận dịch vụ này mang lại thấp, phí dịch vụ thấp chưa đảm bảo thu hồi chi phí cho công tác quản lý vận hành và đầu tư công trình nên chưa có nhiều nhà đầu tư tham gia. Một phần do cơ chế chính sách chưa thu hút đầu tư, mặt khác các nhà đầu tư tư nhân tiềm lực không phải là lớn và kinh nghiệm cũng chưa có nhiều cho nên họ chưa mặn mà. Quản lí bùn thải công nghiệp trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh nói chung và các KCN nói riêng có thể nói là một vấn đề hết nan giải và bất cập trong bối cảnh hiện nay. Chỉ có một phần rất nhỏ BTCN được thu hồi, tái chế và tái sử dụng ngay trong các cơ sở công nghiệp hay tái chế bên ngoài do các cơ sở tư nhân đảm nhiệm. Phần lớn BTCN, kể cả BTCN nguy hại được bỏ lẫn lộn với rác đô thị và được đổ bừa bãi xuống các kênh rạch, khu đất trống, gây nên tình trạng ô nhiễm môi trường. Mặc dù qui chế quản lí BTCN đã có hiệu lực từ hơn chục năm nay (năm 1999) nhưng việc tách riêng BTCN nguy hại ra khỏi BTCN vẫn chưa thực hiện được thực hiện tốt ở các cơ sở đăng kí quản lí BTCN. Tại nhiều nơi trên thế giới, công tác tái chế và tái sử dụng chất thải công nghiệp đã và đang được áp dụng hiệu quả thông qua một hệ thống các nhà máy tái chế chất thải cũng như thị trường trao đổi chất thải. Ngay ở nước ta, hoạt động thu hồi tái chế chất thải cũng khá nhộn nhip, các cơ sở thu gom và tái chế chất thải đã được hình thành và phát triển. Chính vì thế, có thể nói một trong những biện pháp góp phần làm giảm thiểu chất thải là việc tuần hoàn và tái sử dụng hợp lý chất thải. Hơn nữa công tác này còn giúp mang lại lợi ích kinh tế thông qua việc tiết kiệm nguyên liệu sản xuất công nghiệp, hoặc tạo ra nguồn thải mới. Các lợi ích của công tác này bao gồm :  Lợi ích kinh tế thông qua việc tiết kiệm nguyên vật liệu hay các nguồn năng lượng có giá trị, giảm chi phí để thải hay xử lý các chất thải sinh ra.  Lợi ích về môi trường là giảm thiểu bùn thải nên giảm ô nhiễm môi trường. Do đó, để giải quyết các vấn đề nêu trên, đề tài “Nghiên cứu khảo sát hiện trạng xử lý nước thải và quản lý bùn thải tại một số khu công nghiệp trong địa bàn thành phố Hồ Chí Minh và đề xuất biện pháp xử lý bùn thải thích hợp.” đã được chọn để thực hiện đồ án tốt nghiệp

docx149 trang | Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 2727 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Nghiên cứu khảo sát hiện trạng xử lý nước thải và quản lý bùn thải tại một số khu công nghiệp trong địa bàn thành phố Hồ Chí Minh và đề xuất biện pháp xử lý bùn thải thích hợp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CHƯƠNG MỞ ĐẦU ĐẶT VẤN ĐỀ : Việt Nam là một nước đang phát triển. Công nghiệp hóa - hiện đại hóa được xem như chìa khóa để phát triển đất nước. Hiện nay, với hơn 800.000 cơ sở sản xuất công nghiệp và gần 70 khu chế xuất (KCX) - khu công nghiệp (KCN) tập trung đã đóng góp một phần rất lớn vào GDP của đất nước. Tuy nhiên, vấn đề bảo vệ môi trường chưa được quan tâm đúng mức. Với tốc độ phát triển kinh tế liên tục tăng trưởng từ 8-11% trong những năm gần đây, kinh tế thành phố Hồ Chí Minh (TP.HCM) luôn dẫn đầu và xứng đáng là “đầu tầu” khu vực kinh tế trọng điểm phía Nam, nhưng TP.HCM cũng đang phải gánh vác nặng nề một lượng chất thải công nghiệp sinh ra từ sự tăng trưởng đó. Tính đến đầu năm 2011, trong số 172 KCN đã đi vào hoạt động có 102 KCN đã vận hành hệ thống xử lý nước thải. Như vậy, 60% khu công nghiệp, khu chế xuất (KCN, KCX) trên cả nước có hệ thống xử lý nước thải. Tổng lượng nước thải từ các KCN ước khoảng 1 triệu m3/ngày/đêm (chiếm khoảng 35% tổng lượng nước thải của cả nước). Hiện, cả nước còn 127 KCN chưa xây dựng công trình xử lý nước thải tập trung, trong đó có gần 50 KCN đã vận hành cần phải khẩn trương xây dựng. Tổng công suất xử lý nước thải tại các KCN mới ở mức 339.500 m3/ngày/đêm, tương đương với 33,95% lượng nước thải được xử lý. Các KCN này cũng đang xây dựng thêm 32 nhà máy xử lý nước thải, với công suất 160.600m3/ngày đêm, tương ứng với 16,06%. Như vậy, nếu các nhà máy xử lý nước thải đang xây dựng đi vào hoạt động thì mới có 50% lượng nước thải ở các KCN, KCX được xử lý. Tương tự, chất thải rắn từ các KCN hiện có khoảng 2,3 triệu tấn/năm, trong đó chất thải rắn nguy hại chiếm khoảng 20%. Nhiều nơi có nhà máy xử lý nước thải nhưng thực chất không hoạt động vì thiếu kinh phí hoặc các cơ sở sản xuất xử lý nhưng không đấu nối vào hệ thống xử lý nước thải tập trung. Vì vậy, nhiều chỉ tiêu về coliform, amoniac, kim loại nặng đều vượt tiêu chuẩn cho phép. Với hơn 800 nhà máy nằm trong 15 KCN, KCX đang hoạt động (theo thống kê tháng 6/2005 của Phòng Quản Lý Chất thải rắn - Sở Tài Nguyên và Môi trường TP.HCM); gần 28.000 cơ sở vừa và nhỏ nằm phân tán khắp thành phố (theo Cục thống kê Thành Phố HCM năm 2004), mỗi ngày thành phố tiếp nhận khoảng 250 tấn bùn thải công nghiệp (BTCN), trong đó có khoảng 12-15 tấn BTCN nguy hại nhưng không được xử lý, tái chế. Hàng năm các nhà máy trong KCN – KCX trên địa bàn TP.HCM thải ra 6.726,4 tấn BTCN. Bùn thải này đã ảnh hưởng đến môi trường xung quanh, gây ô nhiễm không khí và nhất là thẩm thấu làm ô nhiễm ngưồn nuớc ngầm, nước mặt dẫn đến chất luợng nguồn nuớc bị suy giãm .Hiện nay mỗi ngày TP vẫn phải tiếp nhận khoảng gần 400.000 m3 nước thải công nghiệp...thải trực tiếp xuống kênh rạch. Do vậy phần lớn các kênh rạch của Thành phố đều bị bùn lắng rât nhanh và ô nhiễm nghiêm trọng, hầu hết đều có màu đen và hôi thối, gấy ảnh hưởng đến cuộc sống và môi trường. Tính đến nay, trong tổng số 15 KCX, KCN đang hoạt động trên địa bàn thành phố thì đã có 3 KCX (Tân Thuận, Linh Trung và Linh Trung II) và 2 KCN (Tân Bình, Lê Minh Xuân) có đầu tư trạm phân loại, trung chuyển chất thải các loại; các KCN còn lại thì phần lớn do các đơn vị có chức năng trên địa bàn thành phố thu gom trực tiếp tại các nhà máy có phát sinh. Ngoài ra các trạm xử lý nước thải (XLNT) tập trung phát sinh lượng bùn thải sẽ được Công ty Phát triển hệ tầng (PTHT) KCN thu gom giao Công ty Môi trường đô thị thành phố xử lý. Việc xử lý nước thải và quản lý BTCN phát sinh trong quá trình hoạt động sản xuất của doanh nghiệp còn nhiều khó khăn như đối với các trường hợp doanh nghiệp chỉ phát sinh một lượng BTCN khối lượng nhỏ thì khó hợp đồng với các đơn vị thu gom, xử lý dẫn đến việc bị xử lý vi phạm trong công tác quản lý BTCN. Hiện nay, việc thu gom vận chuyển, xử lý bùn thải công nghiệp hiện nay hoàn toàn tự phát, do các doanh nghiệp tư nhân đảm nhiệm. Một số KCN giao khoán hợp đồng cho các đơn vị này làm mà không có kiểm tra giám sát. Các đơn vị thu gom BTCN từ các nhà máy xí nghiệp sau đó đem về phân loại, những chất có thể tái chế thì tận dụng còn chất độc hại thì đổ ra môi trường. Nhiều doanh nghiệp hoạt động không có giấy phép, chỉ khi nào được KCN yêu cầu thì mới đến Sở Tài Nguyên và Môi trường xin giấy phép. Nhiều KCN thừa nhận, sau khi kí hợp đồng xong, các công ty thu gom, vận chuyển bùn thải đi đâu KCN hoàn toàn không nắm được. Ở nhiều KCN, nước thải chưa qua xử lý đổ trực tiếp xuống sông hồ, gây ô nhiễm ở mức độ đáng báo động. Nước thải Khu công nghiệp không được xử lý triệt để sẽ gây ảnh hưởng đến chất lượng nguồn nước sinh hoạt của dân cư lân cận, ảnh hưởng tới sức khỏe người dân và trên diện rộng sẽ ảnh hưởng chất lượng nguồn nước mà dân sử dụng. .. Ngân hàng Thế giới ước tính mức thiệt hại kinh tế của Việt Nam do thiếu quản lý nước thải và chất thải lên tới 1,3% thu nhập quốc dân. Vào những thời kỳ suy thoái, mức thiệt hại này còn có thể cao hơn. Tác động của BTCN đối với môi trường, cảnh quan và muôn vật cũng như sự cần thiết và tầm quan trọng của quản lí BTCN đã đề cập đến rất nhiều trong các đạo Luật Bảo vệ môi trường của tất cả các quốc gia trên thế giới, trong tuyên bố của các tổ chức quốc tế, trong nhiều tài liệu, sách báo hội nghị, hội thảo… Ở Việt Nam, các vấn đề liên quan đến BTCN cũng đã được qui định cụ thể trong Luật Bảo vệ môi trường và các văn bản pháp qui dưới Luật. Gần đây chúng đã được đề cập đến rất nhiều trong các hôi nghị, hội thảo khoa học về bảo vệ môi trường và được nhắc đến thường xuyên trong các phương tiện thông tin đại chúng. Đồng thời còn là sự quan tâm sâu sắc đối với các cơ quan chức năng, nghiên cứu và đào tạo, mà còn là đối với đại đa số các tầng lớp nhân dân kèm theo những lời chỉ trích gay gắt, đặc biệt là đối với các khu công nghiệp tập trung. Việc xử lý nước thải công nghiệp còn gặp nhiều khó khăn do các công trình hạ tầng kỹ thuật, nhất là lĩnh vực xử lý nước thải và chất thải đòi hỏi đầu tư lớn nhưng lợi nhuận dịch vụ này mang lại thấp, phí dịch vụ thấp chưa đảm bảo thu hồi chi phí cho công tác quản lý vận hành và đầu tư công trình nên chưa có nhiều nhà đầu tư tham gia. Một phần do cơ chế chính sách chưa thu hút đầu tư, mặt khác các nhà đầu tư tư nhân tiềm lực không phải là lớn và kinh nghiệm cũng chưa có nhiều cho nên họ chưa mặn mà. Quản lí bùn thải công nghiệp trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh nói chung và các KCN nói riêng có thể nói là một vấn đề hết nan giải và bất cập trong bối cảnh hiện nay. Chỉ có một phần rất nhỏ BTCN được thu hồi, tái chế và tái sử dụng ngay trong các cơ sở công nghiệp hay tái chế bên ngoài do các cơ sở tư nhân đảm nhiệm. Phần lớn BTCN, kể cả BTCN nguy hại được bỏ lẫn lộn với rác đô thị và được đổ bừa bãi xuống các kênh rạch, khu đất trống, gây nên tình trạng ô nhiễm môi trường. Mặc dù qui chế quản lí BTCN đã có hiệu lực từ hơn chục năm nay (năm 1999) nhưng việc tách riêng BTCN nguy hại ra khỏi BTCN vẫn chưa thực hiện được thực hiện tốt ở các cơ sở đăng kí quản lí BTCN. Tại nhiều nơi trên thế giới, công tác tái chế và tái sử dụng chất thải công nghiệp đã và đang được áp dụng hiệu quả thông qua một hệ thống các nhà máy tái chế chất thải cũng như thị trường trao đổi chất thải. Ngay ở nước ta, hoạt động thu hồi tái chế chất thải cũng khá nhộn nhip, các cơ sở thu gom và tái chế chất thải đã được hình thành và phát triển. Chính vì thế, có thể nói một trong những biện pháp góp phần làm giảm thiểu chất thải là việc tuần hoàn và tái sử dụng hợp lý chất thải. Hơn nữa công tác này còn giúp mang lại lợi ích kinh tế thông qua việc tiết kiệm nguyên liệu sản xuất công nghiệp, hoặc tạo ra nguồn thải mới. Các lợi ích của công tác này bao gồm : Lợi ích kinh tế thông qua việc tiết kiệm nguyên vật liệu hay các nguồn năng lượng có giá trị, giảm chi phí để thải hay xử lý các chất thải sinh ra. Lợi ích về môi trường là giảm thiểu bùn thải nên giảm ô nhiễm môi trường. Do đó, để giải quyết các vấn đề nêu trên, đề tài “Nghiên cứu khảo sát hiện trạng xử lý nước thải và quản lý bùn thải tại một số khu công nghiệp trong địa bàn thành phố Hồ Chí Minh và đề xuất biện pháp xử lý bùn thải thích hợp.” đã được chọn để thực hiện đồ án tốt nghiệp. MỤC TIÊU ĐỀ TÀI : Nghiên cứu và đánh giá hiện trạng xử lý nước thải và hệ thống quản lý bùn thải của các nhà máy xử lý nước thải tập trung tại một số khu công nghiệp ở TP.HCM để đề xuất xây dựng biện pháp quản lý thích hợp, hiệu quả. PHẠM VI VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU : 3.1 Phạm vi: Đề tài giới hạn trong phạm vi nghiên cứu ở các nhà máy xử lý nước thải tập trung tại một số khu công nghiệp điển hình ở TP.HCM. Đề xuất các giải pháp xây dựng biện pháp quản lý cho các nhà máy xử lý nước thải tập trung tại một số khu công nghiệp ở TP.HCM. 3.2 Đối tượng nghiên cứu: Nước thải và bùn thải công nghiệp trong 4 khu công nghiệp cụ thể là: Khu Công Nghiệp Tân Bình Khu Công Nghiệp Tân Tạo Khu Công Nghiệp Lê Minh Xuân Khu Công Nghiệp Tây Bắc Củ Chi PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU : 4.1 Phương pháp điều tra khảo sát: Thông qua giấy giới thiệu của trường và văn phòng Khoa Kỹ thuật Môi trường Đại học Kỹ thuật Công nghệ, tiến hành quá trình đi khảo sát thực nghiệm và đánh giá chung về hiện trạng môi trường xử lý bùn thải tại nhà máy xử lý nước thải tập trung tại các khu công nghiệp trong địa bàn thành phố… Quan sát : ở đây chọn phương pháp quan sát không tham gia. Nghĩa là người quan sát sẽ là một chủ thể riêng biệt bên ngoài hệ thống được chọn quan sát và xem xét hệ thống một cách khách quan. Phỏng vấn : là phương pháp thông dụng để thu thập thông tin. 4.2 Phương pháp phân tích, đánh giá: Dựa vào dữ liệu thu thập được, tham khảo ý kiến của công nhân, kỹ sư môi trường, nhà quản lý … phân tích, đánh giá công tác thu gom, vận chuyển và xử lý bùn thải hiện tại của các khu công ngiệp trong thành phố. Phân tích, đánh giá ưu nhược điểm của các công nghệ xử lý bùn thải hiện nay. 4.3 Phương pháp tham khảo ý kiến chuyên gia: Trong suốt quá trình làm báo cáo, em thường xuyên tham khảo ý kiến của các chuyên gia có chuyên môn môi trường về công tác quản lý bùn thải công nghiệp hiện nay. Bằng những kiến thức chuyên ngành, nhiều kinh nghiệm của mình các chuyên gia sẽ đóng góp những ý kiến quý báu giúp cho bài báo cáo được tốt hơn. Thăm dò, tham khảo ý kiến cuả- cán bộ các cơ quan liên quan và được sự tư vấn cuả các nhà chuyên môn, nhà quản lý nhằm từng bước hoàn thành báo cáo nghiên cứu khả thi này. (Sở Tài Nguyên và Môi Trường, Sở Khoa học và Công nghệ, Cục Thống Kê, Công ty Công Trình Công cộng…) 4.4 Phương pháp phân tích và xử lý thông tin: Toàn bộ các số liệu được thực hiện trên bảng biểu. Số liệu được quản lý và phân tích trên máy tính với phần mềm Microsoft Excel và soạn thảo văn bản sử dụng phần mềm Microsoft Word. 4.5 Phương pháp tổng hợp số liệu: Tổng hợp tài liệu, thu thập và kế thừa có chọn lọc các thông tin, dữ liệu có liên quan đến đề tài từ các nguồn tài liệu (từ các đề tài nghiên cứu, tài liệu hội thảo, từ Internet, sách báo ...) về thuyết sinh thái công nghiệp và trung tâm trao đổi chất thải, kết quả phân tích mẫu tại các trung tâm. Sau khi đã có những số liệu thu thập được, những gì được chứng kiến trong quá trình khảo sát thực tế, phỏng vấn cán bộ quản lý các trạm xử lý nước thải tập trung trong khu công nghiệp, tham khảo ý kiến chuyên gia … và kết hợp với kiến thức chuyên ngành của mình, em đã tổng hợp và đưa ra những nhận xét, đánh giá khách quan, đề xuất biện pháp quản lý bùn thải phù hợp. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU: Thu thập tài liệu, nghiên cứu tổng quan hệ thống xử lý nước thải và quản lý bùn thải công nghiệp của các nhà máy xử lý nước thải tập trung tại một số khu công nghiệp ở TP.HCM. Khảo sát thực trạng xử lý nước thải đang được áp dụng tại KCN. Nghiên cứu, đánh giá biện pháp quản lý BTCN và lựa chọn công nghệ quản lí BTCN thích hợp. 6. Ý NGHĨA CỦA ĐỀ TÀI: 6.1 Tính thực tế: Đồ án nhằm đáp ứng nhu cầu thực tế về việc đưa ra phương hướng quản lý nước thải và bùn thải công nghiệp trong các nhà máy xử lý nước thải tập trung theo yêu cầu kế hoạch bảo vệ môi trường các KCX, KCN thành phố. 6.2 Tính mới của đề tài: Số liệu về lượng BTCN phát sinh trong KCN mới điều tra thực tế và đáng tin cậy nhất ( số liệu được điều tra năm 2011) Đề xuất phát triển các kết quả chi tiết và xây dựng biện pháp quản lý BTCN hiệu quả thông qua việc hình thành một hệ thống trao đổi chất thải hoạt động và trung tâm thông tin về trao đổi chất thải. CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN MỘT SỐ KHU CÔNG NGHIỆP, KHU CHẾ XUẤT TRONG ĐỊA BÀN TP.HCM 1.1.TỔNG QUAN VỀ KHU CÔNG NGHIỆP TÂN BÌNH: GIỚI THIỆU SƠ LƯỢC KHU CÔNG NGHIỆP: Khu công nghiệp Tân Bình có vị trí duy nhất nằm trong nội thành gần các cửa ngõ quan trọng của Thành phố Hồ Chí Minh. KCN Tân Bình thuộc phường Tây Thạnh, Quận Tân Phú, Tp Hồ Chí Minh. Khu công nghiệp là đầu mối quan trọng với các tỉnh miền Tây và Đông Nam Bộ, có vị trí rất thuận lợi; cách trung tâm thành phố 10km , cách cảng Sài Gòn 11km theo đường vận chuyển container, cách xa lộ vành đai quốc lộ 1A 600m, cách quốc lộ 22 khoảng 400m và nằm cạnh sân bay Tân Sơn Nhất. Phía Tây Bắc tiếp giáp với huyện Bình Chánh và huyện Hóc Môn. Phía Tây Nam giáp huyện Bình Chánh. Phía Đông là đường Cách Mạng Tháng 8, đường Tây Thạnh. Doanh nghiệp đầu tư vào KCN Tân Bình được chủ đầu tư hỗ trợ: thủ tục xin giấy phép đầu tư, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thuê và đất giao; tư vấn về các thủ tục đầu tư, xây dựng, lao động… và các công trình tiện ích phục vụ cho các hoạt động sản xuất kinh doanh của các nhà đầu tư trong KCN Tân Bình. Ngoài ra còn có khu phụ trợ nhà ở khu công nghiệp Tân Bình phục vụ cho nhu cầu tái định cư của người dân giải tỏa và chung cư dành cho người dân có thu nhập thấp. 1.1.1.1 Hồ sơ pháp lý: Khu công nghiệp (KCN) Tân Bình là KCN sạch duy nhất nằm trong thành phố, được thành lập theo Quyết định số 65/TTg ngày 01/02/1997 của thủ tướng chính phủ với qui mô 151.2ha và đã được điều chỉnh giảm diện tích xuống còn 123,3 ha theo quyết định số 3756/QĐ-UB ngày 30/07/2004 của UBND Thành phố Hồ Chí Minh (để chuyển sang diện tích đất bố trí khu tái bố trí cho dân). KCN Tân Bình được chia làm 4 nhóm công nghiệp I, II, III, IV; với tổng diện tích đất công nghiệp cho thuê lại là 82,47 ha. Ngoài ra, để phục vụ cho nhu cầu tái định cư của Khu công nghiệp, Thủ Tướng Chính Phủ cũng đã ban hành quyết định số 64/ TTg ngày 01/02/1997 cho phép đầu tư xây dựng và kinh doanh Khu phụ trợ nhà ở nằm cạnh Khu công nghiệp Tân Bình với quy mô 74ha. Theo quyết định 3756/QĐ-UB ngày 30/07/2004 của UBND Thành phố Hồ Chí Minh điều chỉnh tăng thêm diện tích xây dựng khu phụ trợ nhà ở để phục vụ tái định cư cho KCN Tân Bình là 22.9 ha. 1.1.1.2 Chủ đầu tư: Cả hai dự án đầu tư trên đều do Công ty Sản xuất Kinh doanh Xuất nhập khẩu Dịch vụ và Đầu tư Tân Bình ( TANIMEX) làm chủ đầu tư. Tên Công Ty: CÔNG TY CỔ PHẦN SẢN XUẤT KINH DOANH XUẤT NHẬP KHẨU VÀ DỊCH VỤ VÀ ĐẦU TƯ TÂN BÌNH Địa chỉ: 89 Lý Thường Kiệt - Phường 9 – Quận Tân Bình – Tp. HCM Điện thoại: (08) – 38641885 – (08) – 38644497 Fax: 84.8.8642060 Email: Tanimex@hcm.vnn.vn Văn phòng khu công nghiệp Tân Bình ( KCN) Đại chỉ: 108 Tây Thạnh – Phường 15 – Quận Tân Bình – Tp. HCM Điện thoại: (08) – 8150073 - (08) – 8161254 (08) – 8152435 - (08) – 8152434 Fax: 84.8.8150074 Email: kcntanbinh@hcm.fpt.vn 1.1.1.3 Thời gian hoạt động: Tiền thân của Công ty Sản xuất Kinh doanh Xuất nhập khẩu Dịch vụ và Đầu tư Tân Bình (TANIMEX) là Công ty Dịch vụ và Cung ứng Xuất khẩu, được thành lập theo Quyết định số 1920/QĐ – UB ngày 11 tháng 11 năm 1981 của Ủy ban Nhân dân Quận Tân Bình. Năm 1992, Công ty Sản xuất Kinh doanh Xuất nhập khẩu Dịch vụ và Đầu tư Tân Bình được thành lập theo Quyết định số 218/QĐ – UB ngày 11/02/1992 của Ủy ban Nhân dân Thành Phố Hồ Chí Minh. Ngày 30/12/2006, UBND Thành phố Hồ Chí Minh đã ban hành Quyết định số 6686/ QĐ-UBND về việc phê diệt phương án cổ phần hóa và chuyển Công ty Sản xuất Kinh doanh Xuất nhập khẩu Dịch vụ và Đầu tư Tân Bình thành Công ty cổ phần Sản xuất Kinh doanh Xuất nhập khẩu Dịch vụ và Đầu tư Tân Bình. Công ty chính thức đi vào hoạt độngvào ngày 18/07/2006 theo giấy CNĐKKD số 4103005032 do Sở Kế hoạch và Đầu tư Tp.HCM cấp. 1.1.1.4 Vị trí địa lý: Phía Tây Bắc giáp Quận 12. Phía Tây Nam giáp huyện Bình Chánh. Phía Đông là đường Chế Lan Viên (lộ giới 30m). KCN là đầu mối quan trọng với các tỉnh miền Tây và Đông Nam Bộ, có vị trí rất thuận lợi: Cách trung tâm Thành phố 10km. Nằm cạnh sân bay Tân Sơn Nhất. Cách cảng Sài Gòn 11 km theo đường vận chuyển container. Cách xa lộ vành đai Quốc lộ 1A 600m. Cách Quốc lộ 22 khoảng 400m (tương lai là trục Bắc Nam của TP – là đoạn đường Xuyên Á). 1.1.1.5 Đặc điểm địa hình: Độ cao trung bình khoảng 3m so với mực nước biển. Độ dốc khu vực nằm trong thế đất chung từ đầu sân bay Tân Sơn Nhất hạ thấp dần về phía hệ thống thoát nước chính KCN là kinh 19/5 và kinh Tham Lương. Thành phần nền đất chủ yếu là đất cát và sét. Sức chịu tải 1.25 kg/cm2. Ngoài vị trí rất thuận tiện nêu trên, KCN Tân Bình còn được đầu tư xây dựng các cơ sở hạ tầng hiện đại đạt tiêu chuẩn Quốc gia nhằm tạo điều kiện tốt nhất cho các nhà đầu tư và hoạt động. 1.1.1.6 Diện tích khuôn viên và các phân khu chức năng: Tổng diện tích toàn KCN: 142.35 ha, trong đó: Diện tích đất cho thuê: 84.5 ha. Khu phụ trợ - kho tàng: 13.4 ha. Hệ thống giao thông: 36.2 ha. Cây xanh: 18.2 ha. 1.1.2 HẠ TẦNG KỸ THUẬT TRONG KHU CÔNG NGHIỆP: 1.1.2.1 Nguồn cung cấp điện: Nhằm đảm bảo hoạt động của các nhà máy được liên tục, KCN có 2 nguồn cung cấp điện: Trạm TB I nằm trong KCN: 110/22 KV – 2 x 40 MVA. Đường dây dự phòng Hóc Môn và Vinatexco từ trạm 110/15 KV Bà Quẹo. 1.1.2.2 Nguồn cung cấp nước: Để đáp ứng tối đa nhu cầu về nước của các doanh nghiệp, KCN sử dụng 2 hệ thống cung cấp nước: Công ty khai thác và cung cấp nước ngầm TP: 50.000 m3/ ngày đêm. Hệ thống nước sông Sài Gòn: 300.000 m3/ ngày đêm. Hệ thống cấp nước nội bộ KCN: 6.000 m3/ ngày đêm. Hệ thống xử lý nước thải Nhà máy xứ lý nứơc thải KCN TB với công suất 2.000 m3/ ngày đêm, lưu lượng trung bình là 84 m3/h và phí xử lý nước thải trung bình 3950/ m3. Nhà máy xử lý nước thải tập trung KCN Tân Bình được áp dụng công nghệ xử lý theo mẻ thông qua các bể SBR xử lý bằng vi sinh. 1.1.2.3 Hệ thông giao thông Tổng chiều dài các tuyến đường trong KCN khoảng 13.2 km với các loại đừong lộ giới từ 16 m – 32 m được tri bê tông nhựa nóng và nối trực tiếp với xa lộ vành đai (Quốc lộ (QL) 1A), Quốc lộ 22, tải trọng H.30. 1.1.2.4 Khu phụ trợ khu công nghiệp: Có diện tích 13.42 ha dùng bố trí các công trình cung cấp năng lượng, cung cấp nước và cung cấp dịch vụ vận tải, kho bãi , kho ngoại quan. Ngoài ra, để đa dạng hóa kinh doanh cũng như ngày càng hoàn thiện các dịch vụ hỗ trợ cho các hoạt động sản xuất của các nhà đầu tư, ngay từ đầu năm 2000, KCN đã đồng loạt triển khai các dự án loại hình dịch vụ như: xây dựng Khu nhà kho xưởng cho thuê, Xửơng cung cấp khẩu phần ăn công nghiệp, Đội cây xanh – Môi trường, Xí nghiệp xây lắp và cơ khí xây dựng ( trực thuộc công ty TANIMEX), Trạm cung cấp nhiên liệu, thực hiện dịch vụ Đại lý Bảo hiểm, Phòng giao dịch ngân hàng Vietcombank chi nhánh Tp. HCM. Dự kiến sắp tới trong năm 2010 – 2020 sẽ triển khai thêm một số loại hình dịch vụ khác như: Trạm khai thác nước ngầm, bán trả góp cho các căn hộ Chung cư cho các đối tượng có thu nhập thấp, Khu vui chơi, Khu Văn hóa thể dục thể thao (VHTDTT), Văn phòng cho thuê, Kho ngoại quan, Trạm xử lý nước thải, Bưu chính viễn thông và các công trình tiện ích phục vụ dân cư như: trường học, y tế. Bên cạnh đó công tác tuyển dụng lao động để cung ứng các nhà máy trong KCN được công ty TANIMEX đặc biệt quan tâm. Đối với công tác bảo vệ trật tự công cộng cũng được KCN quan tâm và đựoc hiện chuyên trách bởi đội Bảo vệ KCN, đồng thời thường xuyên phối hợp với các cơ quan địa phương. 1.1.3. NGÀNH NGHỀ KINH DOANH CỦA KHU CÔNG NGHIỆP: Tính đến nay, Khu công nghiệp Tân Bình đã thu hút được 137 doanh nghiệp vào đầu tư với tổng diện tích thuê là 77.1 ha, lấp đầy 90% diện tích công nghiệp cho thuê lại. Với tổng vốn đầu tư đăng kí khoảng 110 triệu USD. Hiện có khoảng 103 doanh nghiệp đã đi vào h

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docx7 NOI DUNG LUAN VAN.docx
  • docx1 BIA.docx
  • docx2 BIA LOT.docx
  • docx3 NHIEM VU.docx
  • docx4 LỜI CAM ĐOAN.docx
  • docx5 CAM ON.docx
  • docx6 MỤC LỤC.docx
Tài liệu liên quan