Luận văn Thiết kế phân xưởng chưng cất dầu thô ở áp suất thường

Công nghệ chế biến dầu mỏ được xem như bắt đầu ra đời vào năm 1859 khi mà Edwin Drake (Mỹ) khai thác được dầu thô. Lúc này lượng dầu thô khai thác được còn rất Ýt, chỉ một vài nghỡn lớt trong 1 ngày và chỉ phục vụ cho mục đích thắp sáng. Nhưng chỉ vài năm sau đó, không chỉ riêng ở Mỹ mà cả ở các nước khác người ta cũng đã tìm thấy dầu. Từ đó sản lượng dầu khai thác ngày càng được tăng lên rất nhanh. Nghành công nghiệp chế biến dầu do tăng trưởng nhanh đã trở thành nghành công nghiệp mòi nhọn của thế kỷ 20. Đặc biệt từ sau đại chiến thế giới lần thứ II, công nghiệp dầu khí phát triển nhằm đắp ứng 2 mục tiêu chính: - Cung cấp các sản phẩm năng lượng cho nhu cầu về nhiên liệu động cơ, nhiên liệu công nghiệp và các sản phẩm về dầu mỡ bôi trơn. - Cung cấp các hoá chất cơ bản cho nghành tổng hợp hoá dầu và hoá học tạo ra sù thay đổi lớn về cơ cấu phát triển các chủng loại sản phẩm của nghành hoá chất, vật liệu. Hoá dầu đã thay thế dần hoá than đá và vượt lên công nghiệp chế biến than. Dầu đựơc coi như là nguồn nhiên liệu chính cho mọi phương tiện giao thông và nền kinh tế quốc dân. Hiện nay, dầu mỏ đã trở thành nguồn năng lượng quan trọng nhất của mọi quốc gia trên thế giới. Khoảng 65 - 70% năng lượng sử dụng đi từ dầu mỏ, chỉ còn 20 - 22% năng lượng đi từ than, 5 - 6% năng lượng đi từ nước, 8 - 12% từ năng lượng hạt nhân. và nền kinh tế quốc dân. Hiện nay, dầu mỏ đã trở thành nguồn năng lượng quan trọng nhất của mọi quốc gia trên thế giới. Khoảng 65 - 70% năng lượng sử dụng đi từ dầu mỏ, chỉ còn 20 - 22% năng lượng đi từ than, 5 - 6% năng lượng đi từ nước, 8 - 12% từ năng lượng hạt nhân. Bên cạnh đó, hướng ứng dụng mạnh mẽ và có hiệu quả nhất của dầu mỏ là làm nguyên liệu cho công nghiệp tổng hợp hoá dầu như: Sản xuất cao su, chất dẻo, tơ sợi tổng hợp, các chất hoạt động bề mặt, phân bón thậm chí cả protein.

doc142 trang | Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 2173 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Thiết kế phân xưởng chưng cất dầu thô ở áp suất thường, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA HÀ NỘI CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM ĐỘC LẬP – TÙ DO – HẠNH PHÓC NHIỆM Vễ THIẾT KẾ TỐT NGHIỆP Họ và tên sinh viên: Phùng Văn Việt Khoá: 43 Khoa: Công Nghệ Hóa Học Ngành học: Công Nghệ Hữu Cơ - Hoá Dầu 1. Đầu đề thiết kế: Thiết kế phân xưởng chưng cất dầu thô ở áp suất thường 2. Các số liệu ban đầu: - Công suất 6 triệu tấn/năm - Dầu thô: Mỏ Bạch Hổ 3. Nội dung các phần thuyết minh và tính toán - Lời nói đầu - Tổng quan lý thuyết - Tính toán - An toàn lao động - Thuyết minh xây dung - Tính toán kinh tế - Kết luận và tài liệu tham khảo 4. Các loại bản vẽ đồ thị (ghi rõ các loại bản vẽ về kích thước bản vẽ): 1 bản vẽ dây truyền công nghệ A0 1 bản vẽ thiết bị chính A1 1 bản vẽ mặt bằng xây dung A0 5. Cán bộ hướng dẫn Họ và tên cán bộ: Phần: Công nghệ TS. Lê Văn Hiếu Xõy dùng TS. Lê Văn Hiếu Kinh tế TS. Lê Văn Hiếu 6. Ngày giao nhiệm vụ thiết kế: 10/2/2003 7. Ngày hoàn thành nhiệm vụ:………………………………………………. Ngày ….. tháng ….. năm 2003. CHỦ NHIỆM KHOA (KÝ TÊN VÀ GHI RÕ HỌ TÊN) CÁN BỘ HƯỚNG DẪN (KÝ TÊN VÀ GHI RÕ HỌ TÊN) KẾT QUẢ ĐÁNH GIÁ: - Quá trình thiết kế:………………… - Điểm duyệt:………………………. - Bản vẽ thiết kế:…………………… SINH VIÊN ĐÃ HOÀN THÀNH (và nép toàn bộ bản thiết kế cho khoa) Ngày ….. tháng ….. năm 2003 Mục lục MỞ ĐẦU PHẦN I: TỔNG QUAN VỀ LÝ THUYẾT CHƯƠNG 1: NỀN CÔNG NGHIỆP DẦU KHÍ Quá trình phát triển Lĩnh vực phát triển của ngành dầu khí CHƯƠNG 2: NGUYÊN LIỆU DẦU THÔ I. Nguồn gốc của dầu thô Thành phần hoá học của dầu thô Thành phần nguyên tố của dầu thô Thành phần hydrocacbon trong dầu thô Các thành phần phi hydrocacbon trong dầu mỏ II. Các đặc tính vật lý quan trọng của dầu thô Tỷ trọng Độ nhít Thành phần chưng cất của phân đoạn Nhiệt độ sôi trung bình Hệ số đặc trưng K Đường cong điểm sôi thực Nhiệt độ đông đặc, điểm vẩn đục và điểm kết tinh CHƯƠNG 3: SẢN PHẨM CỦA QUÁ TRÌNH CHƯNG CẤT I. Khí hydrocacbon II. Phân đoạn xăng 1. Thành phần hoá học 2. Ứng dông III. Phân đoạn kerosen 1. Thành phần hoá học 2. Ứng dông IV. Phân đoạn diezel 1. Thành phần hoá học 2. Ứng dông V. Phân đoạn dầu nhờn Thành phần hoá học Ứng dông VI. Phân đoạn mazut VII. Phân đoạn Gudron CHƯƠNG 4: CƠ SỞ LÝ THUYẾT CỦA QUÁ TRÌNH CHƯNG CẤT DẦU THÔ Chưng đơn giản I.1. Chưng bay hơi dần dần I.2. Chưng cất bằng cách bay hơi một lần I.3. Chưng cất bằng cách bay hơi nhiều lần Chưng cất phức tạp II.1. Chưng cất có hồi lưu II.2. Chưng cất có tinh luyện Chưng cất chân không và chưng cất bằng hơi nước CHƯƠNG 5: CHƯNG CẤT DẦU THÔ Mục đích và ý nghĩa của quá trình chưng cất dầu thô Chuẩn bị nguyên liệu dầu khí trước khi chế biến Giới thiệu một số sơ đồ chưng cất Các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình chưng cất CHƯƠNG 6: CÁC THIẾT BỊ CHÍNH CỦA QÚA TRÌNH CHƯNG CẤT Các loại tháp chưng Lò đốt Thiết bị trao đổi nhiệt PHẦN II: TÍNH TOÁN THIẾT KẾ CÔNG NGHỆ Tính cân bằng vật chất Thiết lập đường cân bằng cho các sản phẩm Xác định các đại lượng trung bình cho sản phẩm Tính tiêu hao hơi nước Tính kích thước của tháp chưng cất PHẦN III: AN TOÀN LAO ĐỘNG An toàn lao động trong phân xưởng chưng cất khí quyển Tự động hóa PHẦN IV: THIẾT KẾ XÂY DỰNG Yêu cầu chung Yêu cầu về kỹ thuật Yêu cầu về vệ sinh công nghiệp Giải pháp thiết kế xây dựng PHẦN V: TÍNH TOÁN KINH TẾ Mục đích Chế độ công tác của phân xưởng Nhu cầu về nguyên liệu và năng lượng Xác định nhu cầu công nhân cho phân xưởng Chi phí chung cho phân xưởng Chi phí khác cho từng sản phẩm Xác định hiệu quả kinh tế Kết luận Kết luận Tài liệu tham khảo Mở đầu Công nghệ chế biến dầu mỏ được xem như bắt đầu ra đời vào năm 1859 khi mà Edwin Drake (Mỹ) khai thác được dầu thô. Lúc này lượng dầu thô khai thác được còn rất Ýt, chỉ một vài nghỡn lớt trong 1 ngày và chỉ phục vụ cho mục đích thắp sáng. Nhưng chỉ vài năm sau đó, không chỉ riêng ở Mỹ mà cả ở các nước khác người ta cũng đã tìm thấy dầu. Từ đó sản lượng dầu khai thác ngày càng được tăng lên rất nhanh. Nghành công nghiệp chế biến dầu do tăng trưởng nhanh đã trở thành nghành công nghiệp mòi nhọn của thế kỷ 20. Đặc biệt từ sau đại chiến thế giới lần thứ II, công nghiệp dầu khí phát triển nhằm đắp ứng 2 mục tiêu chính: - Cung cấp các sản phẩm năng lượng cho nhu cầu về nhiên liệu động cơ, nhiên liệu công nghiệp và các sản phẩm về dầu mỡ bôi trơn. - Cung cấp các hoá chất cơ bản cho nghành tổng hợp hoá dầu và hoá học tạo ra sù thay đổi lớn về cơ cấu phát triển các chủng loại sản phẩm của nghành hoá chất, vật liệu. Hoá dầu đã thay thế dần hoá than đá và vượt lên công nghiệp chế biến than. Dầu đựơc coi như là nguồn nhiên liệu chính cho mọi phương tiện giao thông và nền kinh tế quốc dân. Hiện nay, dầu mỏ đã trở thành nguồn năng lượng quan trọng nhất của mọi quốc gia trên thế giới. Khoảng 65 - 70% năng lượng sử dụng đi từ dầu mỏ, chỉ còn 20 - 22% năng lượng đi từ than, 5 - 6% năng lượng đi từ nước, 8 - 12% từ năng lượng hạt nhân. và nền kinh tế quốc dân. Hiện nay, dầu mỏ đã trở thành nguồn năng lượng quan trọng nhất của mọi quốc gia trên thế giới. Khoảng 65 - 70% năng lượng sử dụng đi từ dầu mỏ, chỉ còn 20 - 22% năng lượng đi từ than, 5 - 6% năng lượng đi từ nước, 8 - 12% từ năng lượng hạt nhân. Bên cạnh đó, hướng ứng dụng mạnh mẽ và có hiệu quả nhất của dầu mỏ là làm nguyên liệu cho công nghiệp tổng hợp hoá dầu như: Sản xuất cao su, chất dẻo, tơ sợi tổng hợp, các chất hoạt động bề mặt, phân bón thậm chí cả protein. Ở Việt Nam, dầu khí đã được phát hiện từ những năm 1970 và đang trên đà phát triển, ngày 26/6/1986 tấn dầu đầu tiên đã khai thác được từ dầu mỏ Bạch Hổ. Tiếp theo nhiều mỏ dầu khí ở thềm lục địa phớa Nam đã đi vào khai thác như mỏ Đại Hùng, mỏ Rồng, mỏ Rạng Đông, các mỏ khí như Lan Tây, Lan Đỏ... Năm 1994 chóng ta đã khai thác được 6,7 triệu tấn dầu, năm 1995 đã khai thác được 7,5 triệu tấn, năm 1997 chóng ta đã khai thác tới 10,1 triệu tấn dầu không kể khí. Như vậy ngành công nghiệp chế biến dầu khí nước ta đang bước vào thời kỳ mới, thời kỳ mà cả nước ta đang thực hiện mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Do vậy, việc hiểu biết để dẫn đến áp dụng khoa học, công nghệ tiên tiến trong lĩnh vực hoá dầu là rất quan trọng. TỔNG QUAN VỀ LÝ THUYẾT CHƯƠNG 1: NGUYÊN LIỆU DẦU THÔ I. NGUỒN GỐC Có khá nhiều giả thuyết mô tả sự biến hoá lâu đời của vật chất để trở thành các mỏ dầu khổng lồ trong lòng đất, trong đó có một giả thuyết mà cách lập luận của nó hầu như được nhiều người chấp nhận: nguồn gốc hữu cơ. Các chất hữu cơ nói chung, cụ thể là các động vật, thực vật lắng chìm xuống đáy biển, lâu ngày tích tụ lại và trộn lẫn cát mịn dưới đáy biển, tạo thành một khối bùn thối rữa, còn gọi là cỏc lớp trầm tích, lượng tích tụ tăng dần theo thời gian, dưới tác dụng của lực địa tầng, tác dụng của nhiệt độ và hoạt động của các vi khuẩn trong môi trường không có oxy, từng bước khối bùn nhão này chuyển hoá dễ dàng thành dầu mỏ. Trong một số mỏ dầu nhất định, người ta đã phát hiện được các vi khuẩn, thấy có cả nitơ, lưu huỳnh, đôi khi cũn cú cả photpho. Ngoài ra, cũn cú một líp nước mặn bao quanh mỏ. Đó là những điều hỗ trợ thêm cho lập luận nguồn gốc hữu cơ của dầu mỏ. Nơi hình thành dầu mỏ được gọi là “đỏ mẹ”. Tuy nhiên, dầu mỏ không bao giê chịu nằm im nơi “đỏ mẹ” sinh sản ra nó. Dưới tác dụng của nhiều áp lực như: chênh lệch khối lượng riêng với nước biển, các lực địa tầng và líp cặn biển… dầu mỏ luôn luôn di chuyển để tạo thành một thế cõn bằng mới. Cuộc di chuyển này tiến hành qua các khối đá xốp hoặc các khe nứt tồn tại trong lòng đất và thường theo xu hướng “đi lờn” hiếm khi di chuyển xuống. Cuộc di chuyển của dầu mỏ cứ tiếp tục khi chưa đạt thế cân bằng nhưng sẽ dừng lại khi khối dầu mỏ này bị rơi vào khối “đỏ bẫy”. Do cấu trúc của khối đá này có một lớp khụng thẩm thấu bao phủ phía trên nên dầu mỏ phải nằm lại đó và tạo nên “tỳi dầu”. Tói dầu thường là một khối đá xốp có dạng cái “chỏm mũ” tích tụ dầu mỏ tập trung vào đấy. Dầu mỏ nằm im trong tói dầu lâu đời nờn đó lắng phân tầng ba lớp: khớ ở trên cùng, đến dầu mỏ ở líp kế tiếp và cuối cùng là nước mặn. Các mỏ dầu khi ở dạng khí, được gọi là khí mỏ, loại này dễ dàng khai thác và được dùng làm khí đốt hoặc cung cấp cho công nghiệp hoá dầu. Các mỏ dầu nằm sâu trong lòng nờn cỏc nhà địa chất phải tiến hành khảo sát thăm dò tìm kiếm bằng các phương pháp địa vật lý hoặc viễn thám. Sau khi phát hiện được khu vực có dầu người ta tiến hành khoan sâu để lấy mẫu phân tích mới đánh giá chính xác khả năng có dầu, gọi đấy là mòi khoan thăm dò. Tuy nhiên, vì giá thành một mòi khoan sâu rất đắt tùy thuộc vào độ sâu và địa điểm khoan, do đó nếu mòi khoan thăm dò được xác định có dầu thì người ta tiến hành mở rộng thành giếng khoan khai thác luôn. Đối với những dầu mỏ nằm gần mặt đất thì có thể khai thác bằng bơm ly tâm hoặc bơm pittụng, nhưng đối với các mỏ dầu nằm sâu thì phải dùng khí nén để khai thác. Dầu má khi nằm trong lòng đất hoà tan một lượng lớn khí hydrocacbon tương ứng áp suất tại đó. Theo số liệu nghiên cứu, 1 m3 dầu mỏ có thể hoà tan 200 m3 khí (tương ứng với áp suất khí quyển). Do đó, khi đưa dầu lên khỏi mặt đất, người ta phải dẫn dầu đến thiết bị phân ly để tách bớt khí hoà tan trong dầu đồng thời cũng phải tách nước và các chất bẩn khác, sau đó đưa về bể chứa. Khí hòa tan này, còn gọi là khí đồng hành, có thể sử dụng làm khí nén để bơm trở lại vào giếng khai thác dầu mỏ hoặc đưa đi chế biến phân đoạn thành sản phẩm của khí hoặc xử lý đốt bỏ ở dạng bó đuốc lớn trước khi thải ra môi trường không khí. II. THÀNH PHẦN HOÁ HỌC CỦA DẦU MỎ Trong thiên nhiên, dầu mỏ nằm ở dạng chất lỏng nhờn dễ bắt cháy. Khi khai thác, ở nhiệt độ thường nó có thể ở dạng lỏng hoặc đông đặc, có màu từ vàng đến đen, là nguyên liệu chính cho qỳa trỡnh chưng cất dầu thô. 1. Thành phần nguyên tố của dầu mỏ Dầu mỏ là một hỗn hợp rất phức tạp, khi khảo sát thành phần dầu mỏ của nhiều mỏ dầu trên Thế Giới, đều thấy không dầu nào giống dầu nào. Có bao nhiêu mỏ dầu khớ thỡ cú bấy nhiêu loại dầu mỏ. Ngay bản thân trong một lỗ khoan, dầu mỏ lấy ở các tầng chứa dầu khác nhau cũng đều khác nhau. Về thành phần nguyên tố của dầu mỏ, ngoài C (chiếm 82-87%) và H (0,001-1,8%) cũn cú S, O (0,05-1,0%), N, một số kim loại như V, Ni, Fe,Cu, Ca, Na, As…(và trong khớ cũn cú cả He, Ar, N2, Fe, Kr, Xe, H …), các halogen (clo, i ốt). Một điều đáng chú ý là tuy dầu mỏ trên thế giới khác nhau rất nhiều về thành phần hoá học song về thành phần nguyờn tố (chủ yếu là C và H) lại rất gần với nhau, thay đổi trong phạm vi rất hẹp. Thành phần hydrocacbon trong dầu mỏ Hydrocacbon là thành phần chính và quan trọng nhất của dầu mỏ. Trong dầu thô các hợp chất này có nhiều nhất có thể đến 97 - 98% trọng lượng của dầu, Ýt nhất cũng trên 50%. Các hydrocacbon có trong dầu mỏ được chia làm 5 loại sau: - Các parafin cấu trúc thẳng (n-parafin) - Các parafin có cấu trúc nhánh (iso- parafin) - Các parafin có cấu trúc vòng (cyclo parafin hay naphaten) - Các hydrocacbon thơm - Các hydrocacbon hỗn hợp (hoặc lai hợp) nghĩa là trong phân tử có mặt nhiều loại hydrocacbon. Hầu như tất cả các loại hợp chất hydrocacbon đều có mặt trong dầu mỏ, điều đáng chú ý là các hydrocacbon không no (olefin, cyclo olefin, diolefin…) không có hầu hết trong các loại dầu mỏ. Thực ra trong dầu Pensyl vania (má Bredford) có phát hiện thấy một lượng rất nhỏ không đáng kể một số olefin và trong phân đoạn nặng của một số loại dầu khỏc cú phát hiện thấy một số cyclo olefin, nhưng những điều này vẫn không có ý nghĩa gì lớn. Số nguyờn tử cacbon của các hydrocacbon trong dầu thường từ C5 đến C 60 (còn C1- C4 nằm trong khí) tương ứng với trọng lượng phân tử khoảng 850-880. Cho đến nay với những phương pháp phân tích hiện đại cũng đã xác định được những hydrocacbon riêng lẻ trong dầu. Tổng cộng các hydrocacbon riêng lẻ có trong dầu mỏ cho đến nay đã xác định được là 425. Còn đối với các hợp chất không thuộc loại hydrocacbon trong dầu mỏ đến nay cũng đã xác định được khoảng 380 hợp chất, trong đó phần lớn là các hợp chất của lưu huỳnh (khoảng 250 hợp chất). a. Các hợp chất hydrocacbon parafin Các hydrocacbon parafin có công thức tổng quát là Cn H2n +2 trong đó n là số nguyên tử C có trong mạch. Các hydrocacbon này là loại hydrocacbon no và có tên gọi tận cùng bằng - an. Vớ dô: metan, etan, propan, butan, heptan … Về cấu trúc, hydrocacbon parafin có 2 loại: Loại cấu trúc mạch thẳng còn gọi là n-parafin và loại cấu trúc mạch nhỏnh cũn gọi là iso- parafin. Ở điều kiện bình thường (nhiệt độ là 25oC, áp suất khí quyển), các parafin mạch thẳng chứa từ 1 tới 4 nguyên tử C trong phân tử đều nằm ở thể khí. Các n-parafin mà phân tử chứa từ 5 tới 17 nguyên tử C nằm ở thể lỏng, cũn cỏc parafin chứa từ 18 nguyên tử C trở lên nằm ở dạng tinh thể rắn. Như vậy trong dầu mỏ các hydrocacbon parafin có tồn tại ở cả 3 dạng: rắn - lỏng - khớ. + Các hydrocacbon n-parafin của dầu mỏ Hydrocacbon n- parafinic là loại hydrocacbon có phổ biến nhất trong số các hydrocacbon của dầu mỏ. Dầu mỏ có độ biến chất càng cao, tỷ trọng càng nhẹ càng có nhiều hydrocacbon loại này. Mặt khác hydrocacbon n-parafinic lại là loại hydrocacbon dễ tách và dễ xác định nhất trong số các hydrocacbon của dõự mỏ, cho nên hiện nay với việc sử dụng phương pháp sắc ký kết hợp dây phân tử để tỏch cỏc n- parafin đã xác định được tất cả các n- parafin từ C1 đến C45 . Hàm lượng chung các n- parafin trong dầu mỏ thường từ 25-30% thể tích. Tuỳ theo dầu mỏ được tạo thành vào những thời kỳ địa chất nào và những độ sâu nào, mà sự phân bố các n- parafin trong dầu sẽ khác nhau. Nói chung sự phân bố này thường tuân theo 2 quy tắc. Tuổi của dầu càng cao độ sõu lỳn chỡm càng lớn, thì hàm lượng n-parafin trong phần nhẹ của dầu mỏ càng nhiều. Các hydrocacbon parafin từ C5-C10 nằm trong phần nhẹ (trong xăng) của dầu, với cấu trúc nhánh là những cấu tử tốt của nhiên liệu xăng, vì làm cho xăng có khả năng chống kích nổ cao. Trong khi đó, các n-parafin lại có tác dụng xấu cho khả năng chống kích nổ (n-C7 có trị số ốc tan bằng 0). Các hydrocacbon parafin có số nguyên tử cacbon từ C10-C16 nằm trong phần nhiên liệu phản lực, nhiên liệu diezel, khi có cấu trúc thẳng lại là các cấu tử có Ých cho nhiên liệu vỡ chỳng có khả năng tự bốc cháy tốt khi trộn với không khí bị nén trong động cơ. Trong chế biến hoá dầu, những hydrocacbon parafin chứa trong phần nhẹ của dầu hay trong khí đồng hành lại là nguyên liệu rất tốt cho quá trình sản xuất olefin thấp như etylen, propylen, butylen và butadien, đó là những nguyên liệu cơ sở cho tổng hợp hóa học để sản xuất chất dẻo, sợi hoá học, cao su nhân tạo… Những n-parafin có số nguyên tử cacbon cao từ C17 trở lên ở nhiệt độ thường ở dạng tinh thể rắn trong dầu. Nếu hàm lượng của các hydrocacbon loại này đủ lớn, chúng có thể làm cho toàn bộ dầu thô bị đông đặc, mất hẳn tính linh động, gây khó khăn cho việc khai thác, vận chuyển và bảo quản. Khi đó người ta phải áp dụng các biện pháp kỹ thuật chuyên biệt và công nghệ phức tạp xử lý nhằm mục đích loại các parafin rắn đến mức độ cần thiết, sao cho sản phẩm có đủ linh động trong điều kiện sử dông. Ví dụ: Dầu Minas (Indonờsia) có 13% parafin rắn nên ở 33oC dầu đã bị đông đặc. Dầu LiBi có 10% parafin rắn, nhiệt độ đông đặc là 18oC Dầu Bạch Hổ có nhiệt độ đông đặc là 330C Dầu Đại Hùng có nhiệt độ đông đặc là 27oC Nếu bơm và vận chuyển các loại dầu này ta phải áp dụng các biện pháp như: gia nhiệt đường ống, cho thêm phụ gia, tách bớt parafin rắn ngay tại nơi khai thác để hạ điểm đông đặc. Các biện pháp này gây tốn kém, làm giảm giá thành dầu thô. Các parafin rắn tách ra này, rất may chúng là nguyên liệu quý cho các quá trình chế biến, sản xuất các sản phẩm tiêu dùng như nến, giấy sỏp, diờm hay các vật liệu chống thấm, hay để điều chế chất tẩy rửa tổng hợp, tơ sợi, phân bón, chất dẻo… Mặt khác nếu đem oxy hoỏ chỳng, người ta nhận được các axit béo và alcol cao, đó là cỏc nguyờn liệu quý để tổng hợp các chất hoạt động bề mặt là loại chất có nhiều ứng dụng trong sinh hoạt. + Các hydrocacbon izo-parafinic của dầu mỏ Loại izo-parafinic thường chỉ nằm ở phần nhẹ và phần có nhiệt độ sôi trung bình của dầu mỏ, còn ở những phần có nhiệt độ sôi cao thì nói chung chúng rất Ýt. Về vị trí của các nhánh phụ, có 2 đặc điểm sau đây: Nói chung các izo-parafinic trong dầu mỏ đều có cấu trúc đơn giản, mạch chính dài và mạch nhánh phụ Ýt và ngắn. Các nhánh phụ thường là các gốc metyl. Đối với các iso-parafin có một nhánh phụ thì thường đính vào vị trí cacbon sè 2 hoặc số 3, chứ vào trong nữa thì rất Ýt. Đối với loại có 2,3 nhánh phụ thì xu hướng tạo nên cacbon bậc 3 nhiều hơn là tạo nên cacbon bậc 4, nghĩa là 2 nhánh phụ đính vào nhau cùng 1 cacbon trong mạch chính thường Ýt hơn. Đặc điểm thứ 2 là trong dầu có những iso-parafin với các nhánh phụ nằm cách đều nhau 3 nguyên tử cacbon (cấu tạo iso prenoid), vì trong các vật liệu hữu cơ ban đầu để tạo nên dầu mỏ, có mặt những hợp chất có cấu trúc iso prenoid, cho nên trong quá trình biến đổi, chúng sẽ để lại những di chứng với số lượng và kích thước khác nhau, tuỳ theo mức độ của quá trình biến đổi đó. Như vậy dầu có quá trình biến đổi càng Ýt, hàm lượng của chúng sẽ nhiều hơn so với dầu cú quỏ trình biến đổi sâu rộng. So với n-parafin các iso-parafin chỳng cú độ linh động cao hơn. Chúng làm tăng trị số octan của xăng. b. Các hydrocacbon naphtenic (cyclo parafin) của dầu mỏ Loại hợp chất này có công thức tổng quát là CnH2n. naphtenic cũng là một trong số các hydrocacbon phổ biến và quan trọng của dầu mỏ. Hàm lượng của chúng trong dầu mỏ có thể thay đổi từ 30-60% trọng lượng. Hydrocacbon naphtenic của dầu mỏ thường gặp dưới 3 dạng chính: loại vòng 5 cạnh, loại vòng 6 cạnh và loại nhiều vòng ngưng tụ hoặc qua cầu nối. Những loại vòng 7 cạnh trở lên thường không đáng kể. Bằng phương pháp phân tích phổ khối, có cho biết số vòng naphtenic có thể đến 10-12 trong phần có nhiệt độ sôi cao của dầu mỏ, nhưng thực tế chưa tách ra được hợp chất như vậy. Chỉ có loại naphten 5 vòng được xem là naphten có số vòng cao nhất được tách ra từ dầu mỏ. Tuy nhiên trong dầu mỏ thì loại naphten một vòng 5 cạnh và 6 cạnh cú cỏc nhánh phụ chung quanh là loại chiếm phần chủ yếu nhất, và cũng được nghiên cứu đầy đủ nhất. Vì thế người ta đã tách ra được hàng loạt các naphten 1 vũng cú 1,2,3 nhánh phụ trong nhiều loại dầu mỏ khác nhau. Ở trong những phần nhẹ của dầu mỏ, thì chủ yếu là các naphten 1 vòng với nhánh phụ rất ngắn (chủ yếu là metyl) và có thể có nhiều (1, 2, 3). Còn trong những phần có nhiệt độ sôi cao của dầu mỏ thỡ cỏc nhánh phụ lại dài hơn nhiều. Trong những trường hợp nhánh phụ quá dài, tính chất của loại hydrocacbon này không còn mang đặc tính đặc trưng của naphten nữa, mà đã chịu ảnh hưởng của mạch parafin đính ngoài. Vì vậy, những loại này thường có thể được ghép vào 1 loại riêng, là loại hydrocacbon hỗn hợp (loại lai hợp). Theo Rossini đối với những loại này (loại naphten 1 vòng có nhánh bên dài, tức là khi số nguyên tử trong phân tử của chúng cao từ C20 trở lên) thì thường có 2 - 4 nhánh phụ, trong các nhánh phụ đó, chỉ có 1 là nhánh dài (thông thường là mạch thẳng, nếu có cấu trúc nhỏnh thỡ chỉ rất Ýt nhánh) và những nhánh còn lại thì chủ yếu là nhóm etyl hay iso propyl. Gần đây Lideman dùng phương pháp phổ khối và phổ cộng hưởng từ hạt nhân đã xác định được trong dầu má California những loại có cấu trúc như sau: Những loại naphten 2 vòng cũng đã thấy có trong dầu mỏ và cũng đã xác định được naphten 2 vòng số nguyên tử cacbon đến C20 - C25. Hydrocacbon naphten 1 vòng là thành phần quan trọng trong nhiên liệu động cơ, nó có tính chống kích nổ cao cho xăng, hydrocacbon naphten 1 hay 2 vòng có mạch nhánh parafin dài là những cấu tử rất tốt cho nhiên liệu phản lực và nhiên liệu diezel, và nếu mạch nhánh parafin dài lại phân nhánh thỡ đú lại là các cấu tử tốt cho dầu bôi trơn vỡ chỳng có tính chất nhít tốt, chỉ số nhít cao. c. Các hydrocacbon thơm của dầu mỏ Hydrocacbon thơm có công thức tổng quát là CnH2n – 6, có cấu trúc vòng 6 cạnh, các hydrocacbon thơm của dầu mỏ thường gặp là loại 1 vòng thơm và loại nhiều vòng thơm có cấu trúc ngưng tụ hoặc qua cầu n