Những thách thức đặt ra đối với phát triển nguồn nhân lực ở thành phố Hồ Chí Minh

Phát triển nguồn nhân lực là yếu tố quyết định thành bại trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội bền vững ở Thành phố Hồ Chí Minh. Đây được coi là một trong bảy chương trình đột phá, góp phần phá vỡ những “điểm nghẽn” đang cản trở sự phát triển của Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay. Điều đó đòi hỏi phải có một hệ thống các giải pháp đồng bộ nhằm phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu phát triển của Thành phố Hồ Chí Minh, yếu tố quyết định thành công trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tạo lợi thế cạnh tranh của Thành phố hiện nay.

pdf9 trang | Chia sẻ: hadohap | Lượt xem: 628 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Những thách thức đặt ra đối với phát triển nguồn nhân lực ở thành phố Hồ Chí Minh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN SAIGON UNIVERSITY TẠP CHÍ KHOA HỌC SCIENTIFIC JOURNAL ĐẠI HỌC SÀI GÒN OF SAIGON UNIVERSITY Số 72 (06/2020) No. 72 (06/2020) Email: tcdhsg@sgu.edu.vn ; Website: 41 NHỮNG THÁCH THỨC ĐẶT RA ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Challenges to human resource development in Ho Chi Minh City TS. Nguyễn Minh Trí Trường Đại học Công nghệ TP.HCM TÓM TẮT Phát triển nguồn nhân lực là yếu tố quyết định thành bại trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội bền vững ở Thành phố Hồ Chí Minh. Đây được coi là một trong bảy chương trình đột phá, góp phần phá vỡ những “điểm nghẽn” đang cản trở sự phát triển của Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay. Điều đó đòi hỏi phải có một hệ thống các giải pháp đồng bộ nhằm phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu phát triển của Thành phố Hồ Chí Minh, yếu tố quyết định thành công trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tạo lợi thế cạnh tranh của Thành phố hiện nay. Từ khóa: nguồn nhân lực, phát triển nguồn nhân lực ABSTRACT Human resource development is a decisive factor in the success of sustainable socio-economic development in Ho Chi Minh City. It is considered one of the seven groundbreaking programs, contributing to breaking down the "bottlenecks" that are hindering the development of Ho Chi Minh City today. That requires a comprehensive system of solutions to develop high-quality human resources to meet the development requirements of Ho Chi Minh City, guaranteeing the success in the process of industrialization and modernization and creating a competitive advantage of the City today. Keywords: human resources, human resource development 1. Mở đầu Phát triển nguồn nhân lực về thực chất, là tăng cường, hoàn thiện cho người lao động có trình độ lành nghề về chuyên môn, kỹ thuật, ứng với mỗi ngành nghề cụ thể, theo tiêu thức phân loại lao động về trình độ chuyên môn, kỹ thuật nhất định; có kỹ năng chuyên môn giỏi và khả năng thích ứng với những thay đổi nhanh chóng của công nghệ sản xuất và kinh doanh; có sức khỏe và phẩm chất tốt; có khả năng vận dụng sáng tạo những tri thức, những kỹ năng đã được đào tạo vào trong quá trình sản xuất nhằm đem lại năng suất lao động với chất lượng và hiệu quả cao. Đó là những người làm chủ tri thức khoa học và công nghệ hiện đại, có tư duy sáng tạo, có kỹ năng thực hành giỏi, có tác phong công nghiệp, có tính tổ chức và kỷ luật; có sức khỏe, đóng góp tích cực, hiệu quả vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Họ là những “cán bộ lãnh đạo, quản lý giỏi, đội ngũ chuyên gia, quản trị doanh nghiệp giỏi, lao động lành nghề và cán bộ khoa học Email: nm.tri@hutech.edu.vn SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 72 (06/2020) 42 công nghệ đầu đàn” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2011, tr.130). Có thể nói, nguồn nhân lực chất lượng cao là nguồn lực chính quyết định quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội. Tại Đại hội XI, Đảng ta đã chỉ rõ: “Phát triển, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là một trong những yếu tố quyết định sự phát triển nhanh và bền vững” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2011, tr.41). Là đầu tàu kinh tế của cả nước, Thành phố Hồ Chí Minh (TP.HCM) tạo ra khoảng 1/4 tổng sản phẩm quốc nội, 1/3 giá trị sản lượng công nghiệp, đóng góp khoảng 28% tổng thu ngân sách quốc gia, hơn 18% tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu, thu hút 1/3 tổng số dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) của cả nước và luôn đóng vai trò quan trọng trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam. Để thực hiện tinh thần chỉ đạo của Bộ Chính trị, Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ TP.HCM lần thứ X, nhiệm kỳ 2015 - 2020, đề ra mục tiêu: “Nâng cao chất lượng tăng trưởng và năng lực cạnh tranh của kinh tế thành phố, gắn tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, xây dựng con người, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo vệ môi trường” (Ðảng bộ TP.HCM, 2015, tr.119). Thế nhưng, những năm qua, khi tiến hành triển khai thực hiện chủ trương này trong thực tiễn, Thành phố phải đối mặt với những thách thức lớn, chất lượng nguồn nhân lực hiện nay còn nhiều bất cập cả về thể lực, trình độ chuyên môn cũng như ý thức, tác phong, kỷ luật lao động, năng lực cạnh tranh đã và đang ảnh hưởng đến mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội TP.HCM, trước tác động của cuộc cách mạng 4.0 và quá trình hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay. Bài viết trình bày nghiên cứu về những thách thức trong việc phát triển nguồn nhân lực ở TP.HCM trong giai đoạn hiện nay, từ đó đưa ra những giải pháp nhằm phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội ở TP.HCM trong thời gian tới. 2. Những thách thức đối với phát triển nguồn nhân lực ở Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay TP.HCM là đô thị đặc biệt, một trung tâm lớn về kinh tế, văn hóa, giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, đầu mối giao lưu và hội nhập quốc tế, là đầu tàu, có sức thu hút và lan tỏa đối với vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, có vị trí chính trị quan trọng của cả nước. Điều đó góp phần làm cho nguồn nhân lực của Thành phố rất dồi dào đã góp phần tích trong phục vụ quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, cũng như quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở Thành phố. Một là, về số lượng lao động/tình trạng sức khỏe: Những năm gần đây, dân số TP.HCM tăng trưởng với tốc độ khá cao và liên tục, nên nguồn bổ sung vào lực lượng lao động rất lớn. Năm 2017, dân số của TP.HCM là 8.643.044 người, tăng 2,38% so với năm 2016, trong đó dân số ở thành thị chiếm 80,9%, dân số nông thôn chiếm 19,1%. Lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên đạt 4.538.195 người, chiếm 52,5% tổng dân số; lực lượng lao động trực tiếp khoảng 4.223.996 người chiếm 97,4% số lực lượng lao động và chiếm 50% so với tổng dân số (Cục Thống kê TP.HCM, 2018, tr.47). Lực lượng lao động từ 20 tuổi đến 44 tuổi chiếm 68,6% trong các nhóm tuổi tham gia lao động, nhóm tuổi 20-24 chiếm 10,0%, nhóm tuổi 25-29 chiếm 16,3%, nhóm tuổi 30-34 chiếm 15,0%, nhóm tuổi 35-39 chiếm 14,1%, nhóm tuổi NGUYỄN MINH TRÍ TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN 43 40-44 chiếm 13,2% (Cục Thống kê TP.HCM, 2018, tr.61). So với các địa phương khác trong cả nước, chỉ số về sức khỏe của nguồn nhân lực TP.HCM đã có nhiều cải thiện, cụ thể: chiều cao trung bình của các bạn trẻ từ 18 tuổi trở lên là 168,1m, vượt 4,1cm so với mức trung bình cả nước (1,64m), song nhìn chung, chỉ số ở mức trung bình so với các nước trong khu vực và thế giới. Đến nay, chiều cao trung bình của thanh niên TP.HCM thấp hơn 2cm so với chuẩn quốc tế (1,70m) (Huy Thịnh, 2017). Lực lượng lao động dồi dào, khá trẻ và có sức khỏe là điều kiện thuận lợi trong quá trình thu hút đầu tư nước ngoài, cũng như tiếp thu các thành tựu khoa học - công nghệ và linh hoạt trong việc chuyển đổi nghề nghiệp phục vụ quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, song phần lớn nguồn nhân lực ở TP.HCM chưa đáp ứng được cường độ làm việc công nghiệp cũng như sử dụng máy móc thiết bị theo chuẩn quốc tế. Hai là, về chất lượng lao động: Trình độ học vấn phổ thông của nguồn nhân lực ở TP.HCM đã có những bước phát triển vượt trước so với trình độ phát triển kinh tế. TP.HCM đã hoàn thành phổ cập giáo dục trung học cơ sở (năm 2002) và được công nhận đạt chuẩn phổ cập bậc trung học (năm 2008); hiện tỷ lệ biết chữ ở độ tuổi 15 - 35 tuổi đạt 99,98%; độ tuổi 36 trở lên đạt 99,69% (Cục Thống kê Thành phố Hồ Chí Minh, 2018, tr.420); tỷ lệ tốt nghiệp bổ túc hàng năm đều cao hơn bình quân cả nước; Thành phố đang phấn đấu nâng cao hơn nữa trình độ bình quân tốt nghiệp trung học phổ thông vào năm 2020. TP.HCM là một trong những địa phương đi đầu trong cả nước về giáo dục - đào tạo với số lượng sinh viên theo học và tốt nghiệp cao đẳng đại học năm sau cao hơn năm trước, góp phần tăng tỷ lệ lao động qua đào tạo tăng từ 40% (năm 2005) lên 77,5% (năm 2017), trong đó lao động đang làm việc chuyên môn kỹ thuật bậc sơ cấp 26,69%; lao động đang làm việc chuyên môn kỹ thuật bậc cao chiếm 18,81%; chuyên môn kỹ thuật bậc trung chiếm 5,81%; chuyên môn cao đẳng 5,38%; chuyên môn đại học trở lên chiếm 20,81% (Cục Thống kê TP.HCM, 2018, tr.420), ngày càng đáp ứng nhu cầu nhân lực theo mục tiêu tăng trưởng kinh tế ở TP.HCM và vùng kinh tế trọng điểm phía Nam. Đồng thời, Thành phố đã có nhiều chương trình đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao như: đào tạo 300 tiến sĩ, thạc sĩ quản lí nhà nước và quản trị kinh doanh; đào tạo 300 tiến sĩ, thạc sĩ ngành giáo dục đào tạo. Các chương trình này đã cung cấp cho Thành phố một lực lượng cán bộ có năng lực, có trình độ chuyên môn, đáp ứng một phần đáng kể nhu cầu nhân lực cao trong quản lí hành chính, giáo dục, đào tạo và nghiên cứu khoa học. Tuy nhiên, nguồn nhân lực chưa đáp ứng mục tiêu phát triển nhanh và bền vững của thành phố. Mặc dù lao động qua đào tạo nghề ở thành phố khá cao, song thực tế “tỷ lệ lao động bài bản (đào tạo từ 3 tháng trở lên và có chứng chỉ công nhân kết quả) chỉ đạt 22%, số còn lại đào tạo theo kiểu “cầm tay chỉ việc”, truyền nghề, đào tạo “dăm bữa, nửa tháng” đủ kỹ năng để người lao động đứng vào dây chuyền sản xuất giản đơn” (Kỷ yếu hội thảo cấp Thành phố, 2019, tr.478) và theo Trung tâm dự báo nhu cầu nhân lực và thông tin thị trường lao động TP.HCM cho rằng, tồn tại lớn nhất trong vấn đề đào tạo hiện nay là cơ cấu đại học, cơ cấu trung cấp đang có sự khập khiễng giữa đào tạo và nhu cầu: bậc đại học đào tạo số lượng SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 72 (06/2020) 44 nhiều hơn so với nhu cầu, lực lượng công nhân giỏi cần nhiều lại đào tạo ít hơn. Về lĩnh vực ngành nghề, những ngành chủ lực phát triển của thành phố như ngành cơ khí, hóa, chế biến thực phẩm, điện tử chỉ mới đáp ứng khoảng 30% nhu cầu tuyển dụng. Mặt khác, theo khảo sát của Trung tâm Dự báo nhu cầu nhân lực và thông tin thị trường lao động “chỉ có 80% sinh viên, học viên tốt nghiệp tại TP.HCM tìm được việc làm, 20% không tìm được việc. Trong số tìm được việc chỉ có 50% là có việc làm phù hợp với năng lực, sở thích” (Huyền Bình, 2013). Doanh nghiệp không tìm được người lao động như mình mong muốn và trên 50% sinh viên ra trường khó khăn trong tìm kiếm việc làm (Huyền Bình, 2013). Việc đào tạo nặng lý thuyết, ít thực hành như hiện nay khiến nhiều doanh nghiệp phải đào tạo lại, đào tạo thêm cho nhân công sau tuyển dụng. Chưa kể, với thiết bị cũ kĩ, lạc hậu ở nhiều trường như hiện nay, học viên sau tốt nghiệp cũng hoàn toàn bỡ ngỡ với những máy móc thiết bị hiện đại trong thực tế. Bên cạnh đó, những hiện tượng tiêu cực trong giáo dục - đào tạo chưa được ngăn chặn (“học giả”, “bằng thật”); học phí và các khoản liên quan đến giáo dục trên địa bàn Thành phố ngày càng gia tăng, là gánh nặng đối với các hộ gia đình, đặc biệt là gia đình nghèo (bình quân mỗi người dân ở Thành phố chi cho giáo dục hàng tháng là 166.200 ngàn đồng trên tổng mức chi tiêu). Đại hội Đảng bộ lần thứ X (2015 – 2020) đã nhìn nhận những yếu kém của ngành giáo dục, đó là: “chất lượng giáo dục - đào tạo và nguồn nhân lực chưa đáp ứng yêu cầu phát triển và hội nhập quốc tế” (Ðảng bộ TP.HCM, 2015, tr. 102). Bên cạnh đó, hệ thống thông tin thị trường lao động chưa phản ánh khách quan, kịp thời sự biến động của thị trường lao động; chưa đưa ra được các dự báo trung và ngắn hạn về thị trường lao động và tính hiệu quả chưa cao của hoạt động dịch vụ việc làm đã góp phần làm gia tăng xu hướng này. Ba là, về ý thức, tác phong, kỷ luật lao động: Người Việt Nam nói chung, TP.HCM nói riêng được các đối tác và nhà đầu tư nước ngoài đánh giá là có khả năng thích ứng nhanh, dễ hòa nhập, có kỹ năng sử dụng các công nghệ hiện đại, nhanh nhạy hơn nhiều so với các nước khác trong khu vực, song thiếu kỹ năng làm việc nhóm, kỹ năng giải quyết vấn đề; yếu kém về ngoại ngữ, tin học; tác phong trong công việc và ý thức tổ chức kỷ luật, kỷ cương; tinh thần hợp tác trong sản xuất còn thấp, một bộ phận không nhỏ người lao động vừa yếu và thiếu văn hóa nghề, được biểu hiện ở việc tùy tiện, cẩu thả, vô tổ chức, vô kỷ luật, vô trách nhiệm; thiếu trung thực, thiếu tự giác, chưa yêu nghề; tự ti, tự phụ, thiếu tính cộng đồng, tính nhân văn, tự đánh mất mình, đây chính là những rào cản cho việc đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế sang sản xuất dịch vụ, công nghệ cao, xuất khẩu lao động cũng như tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu (Nguyễn Minh Trí, 2019, tr.130). Bốn là, về năng lực sáng tạo, năng suất lao động: Thời gian qua, mặc dù lãnh đạo TP.HCM đã có nhiều nỗ lực trong công tác chỉ đạo điều hành nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế, song nhìn chung đánh giá của doanh nghiệp về môi trường đầu tư, kinh doanh chưa được cải thiện rõ nét. Theo xếp hạng chỉ số PCI 2018 được Phòng Thương mại & Công nghiệp Việt Nam (VCCI) NGUYỄN MINH TRÍ TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN 45 công bố vào tháng 3, TP.HCM đứng thứ 10 với 65,34 điểm, giảm 2 bậc so với năm 2017 và xếp sau loạt tỉnh, thành khác như Hà Nội, Quảng Ninh, Bình Dương, Đồng Tháp, Đà Nẵng.v.v. (Thanh Huyền, 2017). Năng suất lao động của TP.HCM gấp 2,7 lần bình quân của cả nước (Ủy ban Nhân dân TP.HCM, 2016, tr.281), nhưng so với các nước trong khu vực và thế giới vẫn còn thấp; trình độ tay nghề thấp, tác phong làm việc còn yếu, chưa bắt kịp yêu cầu phát triển. Tính theo sức mua tương đương (PPP), năng suất lao động của TP.HCM chỉ cao hơn cao hơn Campuchia, Myanmar và Lào nhưng chỉ bằng 6% của Singapore, 15% của Malaysia, 37% của Thái Lan, 54% của Philippines và 55% của Indonesia (Thanh Huyền, 2017). Nhìn chung, chất lượng nguồn nhân lực của TP.HCM đang bị đánh giá khá thấp và chưa đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Chất lượng nguồn nhân lực của Thành phố còn hạn chế cả về thể lực, trí lực và đạo đức để có thể bắt kịp được đòi hỏi của thị trường lao động trong thời kỳ cách mạng khoa học và công nghệ 4.0. Sở dĩ sự phát triển nguồn nhân lực ở TP.HCM còn những thách thức như trên là do: Một là, tư duy về quản lý phát triển nguồn nhân lực còn nhiều hạn chế, bất cập. Việc quy hoạch các đơn vị sự nghiệp cung cấp các dịch vụ giáo dục – đào tạo chưa sát với thực tiễn cả về số lượng, quy mô và cơ cấu ngành nghề. Chưa có sự gắn kết rõ ràng giữa quy hoạch phát triển nguồn nhân lực với các quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội khác, như quy hoạch phát triển các ngành nghề của Thành phố. Việc thực hiện các quy hoạch phát triển nguồn nhân lực trong thực tế còn mang tính hình thức, phong trào, chất lượng chưa cao. Việc kiểm định, đánh giá chất lượng của các cơ quan quản lý nhà nước đối với cơ sở đào tạo cũng còn nhiều bất cập, các tiêu chí đánh giá còn nhiều định tính và nặng về đánh giá đầu vào, chưa xây dựng và thống nhất được hệ thống chuẩn đầu ra cho các loại hình đào tạo để làm cơ cở cho việc đánh giá chất lượng đào tạo ở Thành phố. Bên cạnh đó, Trung tâm Dự báo nhu cầu nhân lực và thông tin thị trường lao động TP.HCM dù đã có nhiều cố gắng trong công tác dự báo, phân tích nhu cầu lao động của Thành phố, song còn hạn chế trong dự báo cụ thể, chính xác về số lượng ngành nghề, trình độ phân tích nhu cầu nhân lực của nhà tuyển dụng vẫn chưa đáp ứng các đòi hỏi thực tiễn, dẫn đến công tác đào tạo chưa thật sự gắn với yêu cầu của thị trường lao động. Hai là, hệ thống giáo dục từ phổ thông đến sau đại học là nòng cốt của sự nghiệp đào tạo và phát triển nguồn nhân lực vẫn còn nhiều hạn chế, ít có sự kết nối giữa các cơ sở đào tạo với hệ thống doanh nghiệp, đặc biệt là các trường công lập, từ đó dẫn đến nguồn nhân lực được đào tạo không đáp ứng yêu cầu của thị trường. Ngoài ra, quá trình hợp tác và hội nhập quốc tế trong lĩnh vực phát triển nguồn nhân lực của các cơ sở đào tạo cũng chưa theo kịp tiến trình hội nhập kinh tế, văn hóa, xã hội ngày càng sâu rộng của Thành phố. Nhìn chung, hệ thống giáo dục chưa bắt kịp mô hình giáo dục – đào tạo nguồn nhân lực tiên tiến của các nước trong khu vực và thế giới. Ba là, chất lượng cơ sở đào tạo, chương trình và phương pháp đào tạo còn lạc hậu, chậm đổi mới, chưa gắn với thực tiễn và xu thế phát triển xã hội; bên cạnh đó, cơ cấu đào tạo chưa thật hợp lý giữa các lĩnh vực và ngành nghề đào tạo; chất lượng giáo dục chưa được quan tâm đúng SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 72 (06/2020) 46 mức, chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa; phần lớn sinh viên tốt nghiệp ra trường lại chưa đủ chuyên môn, trình độ ngoại ngữ, kỹ năng mềm để tiếp cận công việc, nhất là các kỹ năng mà thị trường lao động cần (Nguyễn Minh Trí, 2019, tr.176). Đây cũng là một trong những rào cản đối với việc nâng cao chất lượng dạy học cũng như tăng cường hoạt động nghiên cứu của các cơ sở đào tạo nguồn nhân lực trên địa bàn TP.HCM. 3. Một số giải pháp nhằm phát triển nguồn nhân lực ở Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay Trong những năm tới, để phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội ở TP.HCM cần phải thực hiện đồng bộ các giải pháp sau: Một là, cần phải xác định rằng, nguồn nhân lực là tài nguyên quý nhất trong giai đoạn hiện nay ở TP.HCM. Muốn vậy, phải làm cho mọi người nhận thức một cách đầy đủ và sâu sắc hơn vai trò, tầm quan trọng trong việc đào tạo và sử dụng nhân lực là làm cho chất lượng nguồn nhân lực của Thành phố trở thành lợi thế cạnh tranh so với các nước trong khu vực và quốc tế. Đây là nhiệm vụ của toàn xã hội, là trách nhiệm của các cấp lãnh đạo, quản lý của mỗi cơ sở giáo dục - đào tạo, mỗi doanh nghiệp, mỗi gia đình cũng như bản thân người lao động. Đồng thời, gắn chiến lược phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, chiến lược phát triển giáo dục - đào tạo với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và thị trường lao động của TP.HCM. Có như vậy, nguồn cung nhân lực chất lượng cao mới đáp ứng nhu cầu nhân lực của nền kinh tế, thị trường lao động cả về trình độ học vấn, trình độ chuyên môn kỹ thuật, cơ cấu nhân lực và năng lực phẩm chất. TP.HCM cần làm tốt công tác xây dựng, kế hoạch phát triển giáo dục và đào tạo, xác định đúng đắn chiến lược phát triển nguồn nhân lực, trên cơ sở thực hiện tốt công tác dự báo nhu cầu và thị trường lao động, cùng với việc làm tốt công tác quy hoạch mạng lưới trường đại học, cao đẳng và dạy nghề, nhằm đào tạo nguồn nhân lực theo lĩnh vực và bậc đào tạo, phù hợp với nhu cầu của xã hội, phục vụ hiệu quả cho chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Thành phố. Hai là, nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ năng của nguồn nhân lực. Đây là nhiệm vụ then chốt, giải pháp trọng yếu để xây dựng, phát triển nguồn nhân lực nói chung, nguồn nhân lực chất lượng cao nói riêng đáp ứng đáp ứng yêu cầu đổi mới mô hình tăng trưởng, hội nhập kinh tế. Cần tập trung vào các biện pháp: đổi mới nội dung, chương trình, phương pháp dạy học ở các cấp học, bậc học và phương thức đánh giá chất lượng. Đối với cấp học phổ thông ở Thành phố, bảo đảm cho mọi người dân trong độ tuổi đi học được đến trường, đặc biệt là ở vùng nông thôn, vùng sâu vùng xa của Thành phố; tập trung phát triển trí tuệ, thể chất, hình thành phẩm chất, năng lực công dân, phát hiện và bồi dưỡng năng khiếu, định hướng nghề nghiệp cho học sinh phù hợp với tính đặc thù của Thành phố. Cần sử dụng một cách phổ biến và triệt để các phương pháp giáo dục tiên tiến, theo hướng kết hợp hiện đại với truyền thống, sao cho kích thích và phát huy được tốt nhất tính tích cực, chủ động, sán