Ơ sở lý luận về vai trò của tiết kiệm đối với nền kinh tế nông nghiệp và doanh nghiệp

Đại diện của trường phái cổ điển là ADAMSMITH trong tác phẩm: “của cải của các dân tộc” xuất bản năm 1776. A.Smith đã cho rằng: “tiết kiệm là nguyên nhân trực tiệp gia tăng vốn. Lao động tạo ra sản phẩm để tích luỹ cho quá trình tiết kiệm. Nhưng dù có tạo ra bao nhiêu chăng nữa nhưng không có tiết kiệm thì vốn sẽ không bao giờ tăng lên”.

doc34 trang | Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1454 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Ơ sở lý luận về vai trò của tiết kiệm đối với nền kinh tế nông nghiệp và doanh nghiệp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chương I Cơ sở lý luận về vai trò của tiết kiệm đối với nền kinh tế nông nghiệp Và doanh nghiệp 1. Quan điểm của trường phái cổ điển. Đại diện của trường phái cổ điển là ADAMSMITH trong tác phẩm: “của cải của các dân tộc” xuất bản năm 1776. A.Smith đã cho rằng: “tiết kiệm là nguyên nhân trực tiệp gia tăng vốn. Lao động tạo ra sản phẩm để tích luỹ cho quá trình tiết kiệm. Nhưng dù có tạo ra bao nhiêu chăng nữa nhưng không có tiết kiệm thì vốn sẽ không bao giờ tăng lên”. ở quan điểm trên, A.Smith đã chỉ ra rằng, trong quá trình lao động sản xuất. Ngoài việc sản xuất ra số sản phẩm dùng để tiêu dùng, quá trình này còn tạo ra được một phần sản phẩm dư thừa dùng để tích luỹ. Nhưng ông cũng nhấn mạnh dù có sản xuất ra nhiều sản phẩm như thế nào đi nữa nhưng nếu không có tiết kiệm thì vốn sẽ không bao giờ tăng lên vì thế chúng ta sẽ không bao giờ có vốn để thực hiện tái sản xuất mở rộng. Điều này đã không khẳng định lao động là điều kiện cần cho thành nguồn vốn để đầu tư mở rộng sản xuất. 2. Quan điểm của trường phái tân cổ điển. Theo trường phái tân cổ điển thì khi nền kinh tế ở mức sản lượng tiềm năng đầu tư bằng tiết kiệm. Mặt khác tiết kiệm lại là hàm của sản lượng: d = dy (0<d<1) (*) d: mức tiết kiệm từ một đơn vị sản lượng y: sản lượng Mặt khác, sản lượng được tính dựa trên mô hình hàm Cobb douglas: Y = Aest.K.N(1-a) Trong đó: A: K: N: Từ hàm sản xuất này, ta có thể tính tỷ lệ tăng trưởng: g = r + ak + (1 - a)n Với: g: tỷ lệ tăng trưởng sản lượng. k : tỷ lệ tăng trưởng vốn. n : tỷ lệ tăng trưởng lao động. Qua đó chúng ta thấy tốc độ tăng trưởng phụ thuộc vào tỷ lệ tiến bộ công nghệ, vốn và lao động. Mặt khác, vốn đầu tư tính theo công thức (*) lại băng tiết kiệm. Vì vậy có thể khẳng định khi tiết kiệm tăng sẽ làm cho đầu tư tăng, từ đó đầu tư sẽ tác động trở lại làm cho sản lượng tăng. Mặt khác, theo mô hình này tiết kiệm là là hàm cả sản lượng. Vì vậy để tăng tiết kiệm có 2 cách đó là tăng hệ số tiết kiệm/ 1 đơn vị sản lượng hoặc tăng sản lượng. Vì vậy ở đây chính phủ có thể dùng chính sách tài khoá mở rộng để tăng tiết kiệm. Vì khi sử dụng chính sách tài khoá mở rộng sẽ làm sản lượng y tăng. Từ đó sẽ làm tăng tiết kiệm. 3. Quan điểm của Cac Mac về tiết kiệm. Khi nghiên cứu về cân đối kinh tế về các mối quan hệ giữa các khu vực của nền sản xuất xã hội và các vấn đề trực tiếp liên quan đến tích luỹ. Cac Mac cho rằng: trong một nền kinh tế có thể chia thành hai khu vực, khu vực 1 sản xuất tư liệu sản xuất, khu vực 2 sản xuất tư liệu tiêu dùng. Cơ cấu tổng giá trị của từng khu vực đều bao gồm. (c + v + m). Trong đó: c: phần tiêu hao vật chất. (m +v): phần giá trị mới sáng tạo. Khi đó điều kiện để đảm bảo tái sản xuất không ngừng thì nên sản xuất xã hội phải đảm bảo (v + m) của khu vực I phải lớn hơn tiêu hao vật chất (cII) của khu vực II nghĩa là: (v + m)I >cII Hay nói cách khác: (c + v + m)I >cI + cII Điều này có nghĩa là tư liệu sản xuất được tạo ra ở khu vực I không chỉ bồi hoàn tiêu hao vật chất của toàn bộ nền kinh tế mà còn phải dư thừa đề đầu tư làm tăng thêm quy mô tư liêụ sản xuất trong quá trình sản xuất tiếp theo. Còn đối với khu vực II, phải đảm bảo: (c + v + m)II < (v + m)I + (v + m)II Có nghĩa là toàn bộ giá trị mới của cả nền kinh tế tạo ra phải lớn hơn giá trị sản phẩm sản xuất ra của khu vực sản xuất tư liệu tiêu dùng. Chỉ khi điều kiện này thoả mãn nền kinh tế mới có thể dành một phần thu nhập để tái sản xuất mở rộng. Từ đó quy mô vốn đầu tư cũng sẽ tăng lên. Như vậy, để tái sản xuất mở rộng, điều kiện đầu tiên là chúng ta phải tăng cường sản xuất ở cả hai khu vực cùng với đó là phải thực hiện tiết kiệm ở cả hai khu vực này. Vì vậy tiết kiệm là nhân tố quyết định tới việc đảm bảo gia tăng nguồn lực cho sản xuất và gia tăng quy mô đầu tư. 4. Quan điểm của J.M.Keynes. Trong tác phẩm: “lý thuyết tổng quát về việc làm, lãi suất và tiền tệ”, J.M.Keynes đã chứng minh rằng đầu tư chính bằng phần thu nhập mà không chuyển vào tiêu dùng. ông chỉ ra tiết kiệm chính là phần dôi ra của thu nhập so với tiêu dùng. Tức là: Thu nhập = tiêu dùng + đầu tư Tiết kiệm = thu nhập – tiêu dùng ị Tiết kiệm = đầu tư (S = I|) (**) Tuy nhiên sự cân bằng trên chỉ đạt được trong nền kinh tế đóng. Trong đó phần tiết kiệm của nền kinh tế bao gồm tiết kiệm của khu vực tư nhân và tiết kiệm của Chính phủ. Điểm cần lưu ý, tiết kiệm và đầu tư xem xét trên góc độ toàn bộ nền kinh tế không nhất thiết được tiến hành bở cùng một cá nhân hay doanh nghiệp nào. Có thể doanh nghiệp hoặc cá nhân này tiết kiệm được một khoản tiền nhưng chưa cần dùng để đầu tư thì có thể đem tiền này cho doanh nghiệp hoặc tư nhân khác vay thông qua thị trường vốn. J.M.Keynes cho rằng trong nền kinh tế mở thì đẳng thức (**) không phải lúc nào cũng diễn ra. Mà S – I = CA Nếu CA > 0 đ thừa vốn đ đầu tư ra nước ngoài. CA < 0 đthiếu vốn đ thu hút vốn đầu tư. Nhưng suy cho đến cùng thì tiết kiệm sẽ là yếu tố tiên quyết của đầu tư. Vì tiết kiệm quyết định đến phần gia tăng năng lực sản xuất. Mà phần gia tăng năng lực sản xuất lại bằng đầu tư hiện hành trong kỳ. Vì vậy, tiết kiệm ở hiện tại sẽ quyết định đến đầu tư của doanh nghiệp và của cả nền kinh tế trong tương lai. 5. Quan điểm của trường phái hiện đại. Đại diện là ông đã đưa ra mô hình: “cái vòng luẩn cuẩn và cú huých” Năng suất thấp đ thu nhập thấp đ tích luỹ thấp Đầu tư thấp Trong mô hình này Nurkse đã chỉ ra rằng đối với một nước chậm phát triển nếu không có một chính sách hợp lý thì sẽ không thể thoát ra khỏi “vòng luẩn quẩn” Ông nhấn mạnh để thoát khỏi “vòng luẩn quẩn” này thì ngoài việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài thì bản thân nước đó cũng phải có biện pháp tiết kiệm hợp lý nhằm tăng tích luỹ đ tằng đầu tư đ giúp cho nền kinh tế phát triển. 6. Tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng về vấn đề tiết kiệm, chống tham ô, lãng phí. * Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề tiết kiệm, chống tham ô, lãng phí. Về tiết kiệm: theo Người đó là yêu cầu khách quan của sản xuất đời sống và tất cả mọi người, mọi ngành và mọi cơ quan xí nghiệp đều phải thực hiện. Theo Hồ Chí Minh : tiết kiệm trước tiên để tích luỹ vốn và có thể thực hiện trên nhiều mặt như: tiết kiệm thời gian, tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm tiền của… Một hình thức tiết kiệm mà Người rất quan tâm trong điều kiện nước ta còn nghèo và ít vốn đó là quay vòng vốn. Người nói: “ tăng năng suất lao động, tiết kiệm nguyên liệu, vật liệu quy đến cùng đều là tiết kiệm vốn. Nhưng còn một cách tiết kiệm vốn nữa là công nhân ta còn ít người nghĩ đến là làm cho vốn quay vòng nhanh” Khi vốn quay vòng nhanh sẽ giúp cho đất nước có nhiều cơ hội đầu tư và cũng giúp cho nguồn đầu tư tăng nhanh. Đây là điều kiện để giúp đất nước có thêm vốn để đầu tư phát triển. Ngoài ra Người còn nhấn mạnh nếu sản xuất nhiều mà không biết tiết kiệm thì khác nào gió vào nhà trống. Vì vậy Người đưa ra khẩu hiệu “tiết kiệm là quốc sách”. Cùng với tiết kiệm Người cho rằng phải ra sức chống tham ô, lãng phí. Theo Hồ Chí Minh tham ô là hành động xấu nhất, tội lỗi, đê tiện nhất trong xã hội, tham ô là trộm cắp của công, chiếm của công làm của tư. Nó làm hại đến sự nghiệp xây dựng nước nhà, hại đến công việc cải thiện đời sống nhân dân, hại đến đạo đức cách mạng của người cán bộ và công nhân”. Còn nói về lãng phí, Người cũng nhấn mạnh, lãng phí cũng là bệnh nguy hiểm, tổn hại to lớn đến chế độ hạch toán kinh tế. Nó cũng làm cho nền kinh tế của nước ta bị trì trệ. Người nói: “lãng phí và tham ô tuy khác nhau ở chỗ lãng phí thì không ăn cắp trực tiếp của công nhưng kết quả tai hại đến tài sản của Nhà nước, của tập thể thì lãng phí cũng có tội. Ví dụ: Tên A tham ô 1000 đồng, tên B lãng phí 1.000 đồng đ kết quả tác hại đến của công thì B cũng chẳng khác gì A”. * Quan điểm của ĐCS Việt Nam: Nhìn nhận một cách đúng đắn về tư tưởng của Bác về vấn đề tiết kiệm, chống tham ô, tham nhũng, lãng phí. Tại Đại hội Đảng IX Đảng đã tiếp tục khẳng định: “gắn với chống tham nhũng với chống lãng phí, quan liêu, buôn lậu, đặc biệt là chống các hành vi lợi dụng chức quyền để làm giàu bất chính”. Chỉ thực hiện tốt những điều này chúng ta mới đâỷ nhanh sự phát triển kinh tế đất nước, tránh được tình trạng tụt hậu ngày càng xa sơ với các nước. Qua các quan điểm của các trường phái kinh tế trên thế giới va tư tưởng của Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng chúng ta thấy rõ vai trò của tiết kiệm trong việc thúc đẩy nền kinh tế phát triển vì tiết kiệm là nền cơ bản hình thành nên vốn đầu tư. Đối với nước đang phát triển như Việt Nam, do thu nhập của các nước này còn thấp nên dẫn đến tích luỹ thấp, trong khi yêu cầu về vốn để đầu tư phát triển ở các quốc gia này rất lớn. Chính vì vậy việc thực hiện chính sách tiết kiệm ở cả trong và ngoài nước đã trở thành mục tiêu hàng đâù trong các chương trình phát triển ở các quốc gia này. 7. Mô hình Harrod – Domar. Theo mô hình này tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế phụ thuộc vào tỷ số vốn/ sản lượng và năng sút của vốn đầu tư: Từ đây chúng ta có thể xác định được vốn đầu tư cần thiết của nền kinh tế để đạt được mức tăng trưởng nào đó với hệ số ICOR. Người ta cũng có thể viết tỷ lệ tăng trưởng dự kiến (g) của nền kinh tế như sau: bởi Ví dụ như: để tốc độ tăng trưởng của Việt Nam đạt 8% năm 2004 với hệ số ICOR = 5 thì tỷ lệ tích luỹ của đất nước là: Qua mô hình trên cho ta thấy để tốc độ tăng trưởng tăng thì phải tăng tiết kiệm. 1. Khái niệm về tiết kiệm: là sử dụng nguồn lực tài chính, lao động và có nguồn lực khác ở mức thấp hơn định mức, chế độ quy định nhưng vẫn đặt được mục tiêu đã xác định hoặc sử dụng định mức, tiêu chuẩn, chế độ quy định nhưng đặt được hiệu quả cao hơn mục tiêu đã xác định. Chương II: Thực trạng của vấn đề tiết kiệm ở Việt Nam 1. Những thành tựu của nền kinh tế Việt Nam trong thời kỳ đổi mới (1986 đến nay) Từ khi Đại hội Đảng IV thực hiện chinh sách đổi mới, đất nước ta đã có những bước phát triển rõ rệt, đưa đất nước từng bước thoát ra khỏi khủng hoảng và tiến vào phát triển ổn định. Bảng số liệu Để có những thành công trên là do chúng ta thực hiện nền kinh tế mở, từ đó thu hút được nguồn vốn đầu tư. Từ đó tạo điều kiện để đầu tư phát triển. Tình hình huy động vốn được thể hiện qua bảng. Bảng 1: Năm GDP Tiêu dùng cuối cùng Tiết kiệm trong nước Tiết kiệm/GDP (%) 1986 599 592 7 1,2 1990 41.955 40.736 1.219 2,9 1995 228.892 187.233 41.659 18,2 2000 441.646 321.853 119.793 27,1 Sơ bộ 2001 484.493 344.840 139.653 28,8 Bên cạnh việc huy động vốn, tình hình tiết kiệm trong nước cũng tăng nhanh cả về tuyệt đối lẫn tương đối. Điều này được thể hiện qua một số năm như sau: Bảng 2: Năm Tổng vốn đàu tư phát triển (tỷ đồng) Tỷ lệ so với GDP (%) 1991 13.471 17,6 1992 24.737 22,4 1993 42.177 30,1 1994 54.296 30,4 1995 72.447 31,7 1996 87.394 32,1 1997 108.370 34,6 1998 117.134 32,5 1999 131.171 32,8 2000 145.333 32,9 Sơ bộ 2001 163.000 33,8 Khu vực nhà nước từ những năm 1992 trở về trước gần như không có tích luỹ vì tiêu dùng cuối cùng vượt thu nhập cuôí cùng (năm 1989 vượt gấp 2 lần, năm 1992 vượt 16,9%) nhưng từ năm 1995 trở đi, khu vực này mới bắt đầu có tiết kiệm thuần (tiết kiệm thuần là phần tiết kiệm đã trừ đi khấu hao tài sản cố định thường chiếm 6,7% - 9,5% GDP). Khu vực doanh nghiệp tiết kiệm đã chiếm trên dưới 20% thu nhập cuối cùng. Tuy vậy, quy mô tiết kiệm của khu vực này còn nhỏ do hiệu quả và sức cạnh tranh còn thấp, tỷ suất lợi nhuận thấp (có khi còn thấp hơn cả lãi suất ngân hàng). Khu vực tài chính, phần tiết kiệm tuy có tăng lên nhưng tốc độ chậm và quy mô còn thấp. Nguyên nhân chính là do nguồn vốn tự có thấp, chi phí còn cao, trong khi đầu ra mấy năm liền gặp khó khăn nên tốc độ tăng dư nợ thấp hơn nhiều so với tốc độ tăng huy đông. Khu vực hộ gia đình và các tổ chức phi lợi nhuận (cá thể, kinh tế hộ gia đình, hiệp hội…) Phần tiết kiệm đã đạt trên dưới 12% so với thu nhập cuối cùng. Tuy nhiên phần tiết kiệm của khu vực này còn nhỏ về cả tuyệt đối lẫn tương đối. Nguyên nhân là do thu nhập của chúng ta còn thấp. Cùng với tiết kiệm trong nước tăng, Chính phủ đã có các chính sách để thu hút vốn đầu tư nước ngoài. điều này đã giúp cho vốn đầu tư tăng cả về lượng tuyệt đối và cả về tỷ lệ sơ với GDP. Đây là một trong những kết quả tích cực từ của việc chuyển đổi từ kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường, mở của hội nhập, khai thác khả năng tiềm tàng, phát huy nội lực, tranh thủ ngoại giao. Đây là một trong những yếu tố quan trọng là cho tăng trưởng kinh tế và giúp đất nước thoát ra khỏi khủng hoảng ngay cả khi Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ và cuộc khủng hoảng kinh tế (1997 – 1998). Tuy nhiên chúng ta cũng không bị lệ thuộc hoàn toàn vào nguồn vốn nước ngoài. Điều này được thể hiện qua bảng 4. Bảng 3: Năm Trong nước (tỷ đồng) Tỷ trọng (%) Nước ngoài (tỷ đồng) Tỷ trọng (%) 1990 6.591 86,9 990 13,1 1991 11.545 85,7 1.926 14,3 1992 19.552 79,0 5.185 21,0 1993 27.170 64,4 15.007 35,6 1994 29.788 54,9 24.508 45,1 1995 42.340 58,4 30.107 41,6 1996 54.771 62,7 32.623 37,3 1997 66.365 61,2 38,8 1998 76.027 64,9 35,1 1999 89.581 68,3 41.690 31,7 2000 94.906 65,3 50.427 34,7 Sơ bộ 2001 107.968 66,2 55.032 33,8 Đây là những tỷ trọng thể hiện vai trò quyết định của vốn trong nước, vai trò quan trọng của vốn nước ngoài và chủ chương phát huy nội lực tranh thủ ngoại lực là đúng đắn. Nguồn vốn nước ngoài được huy động thể hiện qua bảng sau: Bảng 4: Năm FDI ODA Cộng 1990 152 152 1991 432 432 1992 478 478 1993 871 413 1284 1994 1.936 725 2.661 1995 2.363 737 3.100 1996 2.447 900 3.347 1997 2.768 1.000 3.768 1998 2.062 1.242 3.304 1999 1.758 1.350 3.108 2000 1.900 1.650 3.550 Sơ bộ 2001 2.100 1.711 3.811 Ước 8 tháng 2002 1.450 836 2.286 Tổng cộng 20.717 10.564 31.281 Đây là nguồn vốn quan trọng góp phần giải quyết việc làm, tăng trưởng công nghiệp, tăng trưởng GDP. Hiện nay nguồn vốn này chiếm 13% GDP, trên 36% giá trị sản xuất công nghiệp, 46% kim ngạch xuất khẩu…Nguồn vốn nước ngoài giúp cho chúng ta có thể xây dựng cơ sở hạ tầng và tiếp tục phát triển ổn định khi nguồn vốn trong nước chưa đủ để thực hiện điều này. 2. Những hạn chế và bất câp trong vấn đề tiết kiệm. Tuy đã đạt được những thành công nhất định nhưng bên cạnh đó chúng ta còn thể hiện nhiều hạn chế trong vấn đề tiết kiệm. Điều đó được thể hiện qua các nội dung sau: 2.1. Đối với khu vực nhà nước. Tuy đóng một vai trò lớn trong nền kinh tế như đóng góp vào xuất khẩu 40%, công nghiệp 37,8%, ngân sách 39%. Nhưng nợ của các doanh nghiệp nhà nước cũng là rất lớn chiếm 74,8% tổng số nợ quá hạn. Đây cũng là khu vực gây ra thất thoát, lãng phí lớn nhất, mà điển hình cho sự thất thoát lãng phí này là ngành xây dựng cơ bản. Đây là ngành có số vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước là lớn nhất thường chiếm hơn 20% GDP, tuy vậy tỷ lệ lãng phí thất thoát trong ngành này cũng rất cao thường hơn 20% có khi lên tới 30%. Ước tính mỗi năm thất thoát lãng phí do xây dựng cơ bản là vào khoảng 20.000 – 25.000 tỷ đồng. Với 60% vốn trong nước 40% vốn vay từ nước ngoài thì đứng trước tình trạng thất thoát lãng phí như vậy chúng ta có thể sẽ đứng trước nguy cơ nợ quốc gia mà không có cách giải quyết. Nguyên nhân của tình trạng trên là do: 2.1.1. Thiếu trách nhiệm trong việc lập kế hoạch và thẩm định dự án đầu tư. Đây được xem là nguyên nhân dâx đến thất thoát lãng phí nhiều nhất. Nguyên nhân này chủ yếu là do năng lực quản lý của các cán bộ còn kém và do các cán bộ xem vốn đầu tư nhà nước như “của chùa”. Việc thiếu trách nhiệm trong việc lập kế hoạch đã dẫn đến việc thiếu các chiến lược đầu tư cụ thể, hàng năm việc phân phối vốn thường mang tính chất “chia phần” dẫn đến bố trí kế hoạch bị phân tán, không theo tiến độ thực hiện dự án được phê duyệt. Cùng với đó là không thể hiện rõ việc bố trí vốn theo trình tự ưu tiên. Điều này dẫn đến các doanh nghiệp trong lĩnh vực xây dựng cơ bản ngày càng khó khăn về vốn vì khối lượng công việc làm ra không được thanh toán, đến lúc được thanh toán thì lãi thi công không đủ trả lãi ngân hàng. Như vậy là làm thất thoát vốn trên cả nghĩa rộng và hẹp. Còn việc thiếu trách nhiệm trong việc thẩm định dự án và trong chủ trương đầu tư đã gây ra thất thoát lơn trong đầu tư và xâu dựng. Điều đó được chứng minh qua hàng loạt các công trình như nhà máy lọc dầu Tuy Hạ sau khi đã được đầu tư 20 tỷ đồng theo giá 1989 – 1992 đã bị dừng xây dựng. Nguyên nhân là do sự lựa chọn địa điểm và công nghệ khong thích hợp. Còn một số công trình thuộc khu trung cư cao tầng ở Linh Đàm và Định Công, do trước khi tiến hành xây dựng đã không có việc khảo sát địa hình một cách kỹ càng nên sau khi xây một thời gian ngắn đã xuất hiện hiện tượng lún nhà và nghiêng. Điều này làm cho các công trình này bị xuống cấp một cách nghiêm trọng và dấn đến phải tốn kém một chi phí khá lớn nhằm sửa lại các sự cố trên. Việc phân bổ nguồn vốn chậm và thiếu trách nhiệm trong việc lập kế hoạch và thẩm định dự án đã làm cho 10% dự án bị chậm tiến độ, 28% số dự án phải điều chỉnh nội dung chỉ có 21,4% số dự án có thể kết thúc trong kỳ. Một số địa phương xảy ra tình trạng thất thoát cao là Hưng Yên: 21,2%, Lạng Sơn 31,3%, Cà Mau 70%. Có những dự án như xây dựng đường Yên Sơn (Kiên Giang) thất thoát tới 56,8%. Ngoài ra do việc đánh giá tính khả thi của dự án chưa được coi trọng dẫn đến các công trình sau khi xây dựng xong đi vào hoạt động thì hiệu quả sản xuất kém. Ví dụ như có một thời kỳ Chính phủ có chủ chương đầu tư phát triển ximăng lò đứng. Vì vậy một loạt các nhà máy ximăng được xây dựng ở các địa phương. Cũng tương tự như vậy đối với ngành mía đường, khi chính phủ có chủ chương thì cũng được xây dựng hàng loạt. tuy các nhà máy trên cũng góp phần đáp ững nhu cầu thị trường và giải quyết công ăn việc làm cho hàng nghìn người nhưng xét về hiệu quả trực tiếp thì các nhà máy này có hiệu quả rất thấp, nhiều nhà máy không đủ khả năng trả nợ khi đến hạn. Điều này cũng gây ra lãng phí rất lớn nguồn vốn đầu tư trong điều kiện chúng ta đang thiếu vốn. Hiện tượng phổ biến là nhiều cấp có thẩm quyền khi ra các quyết định liên quan đến chủ chương đầu tư lại thiếu chính xác phải điều chỉnh bổ xung, thậm trí nhiều dự án lớn vừa thiết kế vừa thi công, vừa lên dự án. Đây là kẽ hở trong quản lý dẫn đến bị các nhà thầu lợi dụng từ đó làm thất thoát vốn. Mặc dù nhà nước đã có nhiều quyết định nhằm nâng cao trách nhiệm trong việc lập và quản lý dự án đầu tư nhưng do chưa có quy định bắt buộc người có thẩm quyền phải bố trí kế hoạch đủ vốn để hòan thành theo tiến độ dự án và cũng không có chế tài sử phạt khi các dự án không hoàn thành đúng thời hạn mà mới chỉ có việc quy định khống chế dự án nhóm C phải hoàn thành không quá 2 năm và dự án nhóm B hoàn thành không quá 4 năm. Vì vậy một số công trình các nhà thầu cố tình kéo dài thời gian thi công để “ câu” vốn. Một điểm nữa khiến cho các cán bộ quản lý thiếu trách nhiệm trong việc lập và quản lý dự án là do lương, thu nhập chính đáng của họ còn thấp sơ với thu nhập của cán bộ công tác doanh nghiệp. 2.1.2. Đấu thầu cũng là nguyên nhân dẫn đến thất thoát lãng phí vốn. Vì ở nươc ta theo quy định có 3 hình thức đấu thầu đó là; đấu thầu không hạn chế, đấu thầu hạn chế, chỉ định thầu. Trong khi ở các nước khác đấu thầu rộng rãi là hình thức được sử dụng nhiều nhất thì ở nước ta hai hình thức: đấu thầu hạn chế và chỉ định thầu lại là những hình thức sử dụng phổ biến. Mặc dù nhà nước đã quy định đối với những công trình có yêu cầu cao hoặc là có giá trị nhỏ hơn 1 hoặc 2 tỷ thì mới được chỉ định thầu hoặc đấu thầu hạn chế. Nhưng lợi dụng sự quản lý không chặt chẽ của nhà nươc và các cơ quan quản lý, các gói thầu đáng lẽ phải đấu thầu rộng rãi lại trở thành chỉ định thầu bên mời thầu thực hiện điều này nhờ chia các dự án thành các gói thầu có giá trị nhỏ hơn quy định của nhà nước. Điều này vừa làm cho chúng ta không có được giải pháp tốt nhất cho dự án vừa gây ra lãng phí. Theo đánh giá của hội Xây Dựng Việt Nam thì hai hình thức đấu thầu hạn chế và chỉ định thầu chỉ tiết kiệm được 1% tổng dự toán, còn đấu thầu rộng rãi tiết