Phân tích các biện pháp hỗ trợ và giải quyết việc làm cho người lao động

1.Phân tích các biện pháp hỗ trợ và giải quyết việc làm cho người lao động.( 4 điểm) 2. Chị H là nhân viên thu ngân của công ty quảng cáo M theo hợp đồng lao động 1 năm ( từ tháng 01/2005 đến tháng 1/2006). Hết thời hạn hợp đồng, chị H vẫn tiếp tục làm việc cho công ty, nhưng công ty chưa kí tiếp hợp đồng lao động với chị . Trong đợt kiểm tra tài chính của công ty đầu năm 2007, nhân viên phòng Tài chính – Kế toán của công ty đã phát hiện chị H gian lận số tiền 34 tr đồng bằng cách thu tiền của một số đơn vị thuê quảng cáo, có viết hóa đơn chứng từ nhưng không vào sổ thu tiền và không chuyển tiền cho phòng kế toán. Sau khi nhận được báo cáo của phòng tài chính kế toán, công ty m đã yêu cầu chị H truy nộp số tiền nói trên, nhưng chị H cố tình không trả với lý do công ty cần thành lập Tổ thanh tra nội bộ làm rõ số tiền nói trên có chính xác không và là tiền của những đơn vị nào thuê quảng cáo. Vụ việc kéo dài đến tháng 4/2009 nhung chị H vẫn không chịu trả số tiền nói trên cho công ty. Trong thời gian từ 02/2007 đến tháng 4/2009, công ty M đã ra quyết định tạm đình chỉ công việc đối với H cho đến khi giải quyết xong vụ việc, hưởng 50% lương. Đồng thời, chuyển vụ việc sang cho cơ quan điều tra khởi tố và xác định rõ hành vi vi phạm của chị H.

doc18 trang | Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1818 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phân tích các biện pháp hỗ trợ và giải quyết việc làm cho người lao động, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mục lục ĐỀ BÀI 1 BÀI LÀM 2 A, Phân tích các biện pháp hỗ trợ và giải quyết việc làm cho người lao động 2 1. Một Số Vấn Đề Chung Về Việc Làm Và Giải Quyết việc làm. 2 2. Các Biện pháp Hỗ Trợ Và Giải Quyết Việc Làm. 3 2.1 Chương trình việc làm 3 2.2 Quỹ giải quyết việc làm 5 2.3. Tổ chức giới thiệu việc làm 6 2.4. Dạy nghề gắn với việc làm 7 2.5 Đưa người lao động Việt Nam đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài. 7 2.6. Một số biện pháp khác 8 B GIẢI QUYẾT TÌNH HUỐNG 8 a/ Công ty M có thể sa thải chị H được hay không? 8 b/ Khi sa thải H, công ty cần lưu ý những vấn đề gì? 11 c/ Việc công ty M cho chị H tạm đình chỉ công việc như trên là đúng hay sai? 15 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 16 ĐỀ BÀI Bài Tập Số 14 1.Phân tích các biện pháp hỗ trợ và giải quyết việc làm cho người lao động.( 4 điểm) 2. Chị H là nhân viên thu ngân của công ty quảng cáo M theo hợp đồng lao động 1 năm ( từ tháng 01/2005 đến tháng 1/2006). Hết thời hạn hợp đồng, chị H vẫn tiếp tục làm việc cho công ty, nhưng công ty chưa kí tiếp hợp đồng lao động với chị . Trong đợt kiểm tra tài chính của công ty đầu năm 2007, nhân viên phòng Tài chính – Kế toán của công ty đã phát hiện chị H gian lận số tiền 34 tr đồng bằng cách thu tiền của một số đơn vị thuê quảng cáo, có viết hóa đơn chứng từ nhưng không vào sổ thu tiền và không chuyển tiền cho phòng kế toán. Sau khi nhận được báo cáo của phòng tài chính kế toán, công ty m đã yêu cầu chị H truy nộp số tiền nói trên, nhưng chị H cố tình không trả với lý do công ty cần thành lập Tổ thanh tra nội bộ làm rõ số tiền nói trên có chính xác không và là tiền của những đơn vị nào thuê quảng cáo. Vụ việc kéo dài đến tháng 4/2009 nhung chị H vẫn không chịu trả số tiền nói trên cho công ty. Trong thời gian từ 02/2007 đến tháng 4/2009, công ty M đã ra quyết định tạm đình chỉ công việc đối với H cho đến khi giải quyết xong vụ việc, hưởng 50% lương. Đồng thời, chuyển vụ việc sang cho cơ quan điều tra khởi tố và xác định rõ hành vi vi phạm của chị H. Đầu tháng 11/2009, sau khi có kết luận của cơ quan Công an về hành vi tham ô của chị H với số tiền 34 triệu đồng, công ty quyết định sa thải H và yêu cầu H bồi thường cho công ty số tiền 34 triệu đồng đã chiếm đoạt của công ty. Hỏi: a/ Công ty M có thể sa thải chị H được hay không? b/ khi sa thải H, công ty cần lưu ý những vấn đề gì? c/ Việc công ty M cho chị H tạm đình chỉ công việc như trên là đúng hay sai? BÀI LÀM A, Phân tích các biện pháp hỗ trợ và giải quyết việc làm cho người lao động Việc làm cho người lao động là một trong những vấn đề có tính toàn cầu và là mối quan tâm hàng đầu của mỗi quốc gia. Giải quyết tốt vấn đề việc làm ở nước ta, sẽ là một trong những nhân tố có tính chất quyết định để đất nước sớm thoát khỏi tình trạng lạc hậu so với các nước trong khu vực và trên thế giới. BLLĐ và nhiều văn bản luật đã được ban hành quy định chi tiết về việc làm, các biện pháp hỗ trợ và giải quyết việc làm, tạo khung pháp lý để giải quyết tốt vấn đề việc làm. Ta cùng đi tìm hiểu về các biện pháp hỗ trợ và giải quyết việc làm ở nước ta hiện nay: Một Số Vấn Đề Chung Về Việc Làm Và Giải Quyết việc làm. Việc làm là một khái niệm phức tạp, ta có thể hiểu trên nhiều phương diện khác nhau. Về phương diện kinh tế xã hội, có thể hiểu việc làm là các hoạt động tạo ra, đem lại lợi ích, thu nhập cho NLĐ được xã hội thừa nhận. Theo Điều 13 BLLĐ quy định “Mọi hoạt động lao động tạo ra nguồn thu nhập, không bị pháp luật cấm đều được thừa nhận là việc làm”, như vậy việc làm có nội hàm rất rộng, bao gồm nhiều công việc, nghành nghề khác nhau mang lại thu nhập hợp pháp cho người lao động. Mỗi Nhà nước – xã hội đề tạo ra chính sách việc làm riêng. Cùng với việc làm, giải quyết việc làm luôn là luôn là một chính sách xã hội lớn mà tất cả cá quốc gia đều phải quan tâm giải quyết. Giải quyết việc làm là việc một quốc gia thực hiện các chính sách, biện pháp nhằm giải quyết tình trạng thất nghiệp, đảm bảo đời sống, thu nhập của người lao động, góp phần phát triển kinh tế ổn định, vững mạnh lâu bền. Trong những năm qua cùng với chính sách phát triển kinh tế Đảng và Nhà nước ta đã ban hành một hệ thống chính sách xã hội hướng vào việc phục vụ lợi ích của con người một cách toàn diện. Trong đó nổi bật lên là các chính sách về việc làm và giải quyết việc làm. Việc làm và giải quyết việc làm có ý nghĩa to lớn cả về mặt kinh tế - xã hội và pháp lý, cả trên bình diện quốc gia cũng như đối với cá nhân người lao động. Đối với mỗi quốc gia, đảm bảo việc làm cho công dân là một trong những chỉ tiêu quan trọng dùng để đánh giá mức độ phát triển của một quốc gia, tính ưu việt của một chế độ xã hội. Đối với toàn xã hội, giải quyết tốt vấn đề việc làm, hạn chế thất nghiệp giúp cho xã hội phát triển ổn định, bền vững, đảm bảo sự hài hòa giũa tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội, ngăn ngừa hạn chế tiêu cực xã hội. Đối với mỗi cá nhân, việc làm không chỉ là nguồn sống quan trọng mà còn là một trong những điều kiện tối quan trọng để phát triển nhân cách và giữ gìn nhân phẩm con người. Vậy việc giải quyết việc làm là một vấn đề quan trọng, cần có những biện pháp tích cực và triệt để cho vấn đề này. Các Biện pháp Hỗ Trợ Và Giải Quyết Việc Làm. Để giải quyết việc làm cho NLĐ, Nhà nước có thể sử dụng nhiều biện pháp khác nhau. Có những biện pháp nhằm trực tiếp giải quyết việc làm cho NLĐ nhưng cũng có những biện pháp chỉ mang tính chất hỗ trợ cho việc giải quyết việc làm. Các biện pháp cụ thế đó là: 2.1 Chương trình việc làm Chương trình việc làm là một trong những biện pháp để Chính phủ thực hiện vấn đề bảo đảm việc làm, hạn chế thất nghiệp. Chương trình này nhằm mục tiêu về giải quyết việc làm do Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng lần thứ VII(1996) đề ra và trên tinh thần tuyên bố của chính phủ nước Cộng hòa XHCN Việt Nam tại Hội nghị thượng đỉnh thế giới về phát triển xã hội tại COPENHAGEN – Đan Mạch tháng 3/1995. Theo quy định tại điều 15 BLLĐ, hàng năm Chính phủ có trách nhiệm lập chương trình Quốc gia về việc làm và trình Quốc hội quyết định, Ủy ban nhân dân Tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương lập chương trình và quỹ giải quyết việc làm ở địa phương trình Hội đồng nhân dân cùng cấp quyết định. Việc lập chương trình việc làm nhằm bảo đảm cho mọi người lao động có khả năng lao đông, có nhu cầu làm việc tiến tới có việc làm đầy đủ, việc làm có hiệu quả, thông qua đó giải thích hợp lý mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với giải quyết việc làm cho người lao động, góp phần thực hiện công bằng và tiến bộ xã hội. Về nội dung chương trình việc làm gồm: mục tiêu, chỉ tiêu việc làm mới, các nội dung hoạt động,thời gian, các giải pháp nguồn tài chính, tổ chức thực hiện và quản lý chương trình( Điều 4 NĐ 39/2003/NĐ-CP). Bộ lao động - thương binh và xã hội chủ trì phối hợp với Bộ kế hoạch và đầu tư, Bộ tài chính trình Chính phủ chương trình quốc gia về việc làm và trình Thủ tướng Chính phủ ban hành cơ chế quản lý và điều hành cơ chế quản lý và điều hành hoạt động quỹ quốc gia về việc làm. Bộ kế hoạch và đầu tư chủ trì phối hợp với bộ tài chính, Bộ lao đông – thương binh và xã hội lập kế hoạch các nguồn tài chính hàng năm và năm cho chương trình quốc gia về việc làm. Đối với chương trình giải quyết việc làm ở địa phương sẽ do UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thực hiện và báo cáo kêt quả về Bộ lao động – thương binh và xã hội và Bộ kế hoạch và đầu tư. Mục tiêu: Chương trình việc làm đặt ra mục tiêu cụ thể là định ra chỉ tiêu tạo ra chỗ làm việc làm mới hàng năm, chỉ tiêu giảm tỉ lệ thất nghiệp ở thành thị và nâng tỉ lệ thời gian sử dụng lao động ở nông thôn. Nguồn lực dành cho chương trình là số kinh phí từ ngân sách nhà nước và các nguồn khác được dung cho mục tiêu giải quyết việc làm, được thực hiện qua cơ chế tài chính quỹ quốc gia về việc làm. Chương trình việc làm được triển khai theo hai hướng cơ bản sau: Thứ nhất, tạo việc làm mới thông qua việc thúc đẩy phát triển kinh tế, kết hợp hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế với giả quyết việc làm. Đây là hướng cơ bản và quan trọng nhất. Thứ hai, duy trì, bảo đảm việc làm cho NLĐ, chống sa thải nhân công hàng loạt, từng bước xây dựng và thực hiện chính sách bảo hiểm thất nghiệp. Nước ta vừa thực hiện thành công chương trình quốc gia về việc làm giai đoạn 2006 – 2010, theo quyết định số 101/2007/QĐ_TTg ngày 6/7/2007. Chương trình đã góp phần thực hiện mục tiêu chung của nền khinh tế về đảm bảo việc làm và giảm tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị xuống dưới 5% năm 2010 chương trình đã tọa việc làm cho số lượng lớn lao động, đưa vào sử dụng nhiều kênh việc làm đáp ứng thông tin về thị trường lao động. Các dự án đã và đang được thực hiện đó là: cho vay vốn tạo việc làm, hỗ trợ đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài, hỗ trợ phát triển thị trường lao động… thu được nhiều kết quả khả quan. Quỹ giải quyết việc làm Theo quy định taị khoản 1 Điều 45 BLLĐ, Chính phủ lập quỹ quốc gia về việc làm từ ngân sách nhà nước, nguồn kinh phí hỗ trợ của các tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài và các nguồn khác. Thủ tướng Chính phủ đã quyêt định số 15/2008/QĐ_TTg về cơ chế quản lý, điều hành vốn cho vay của quỹ quốc gia về giải quyết việc làm. Sau đó có thông tư số 14/2008/TT-LĐTBXH ngày 29/07/2008 của liên bộ Lao đông – thương binh xã hội, Tài chính, Kế hoạc và đầu tư hướng dẫn thi hành thực hiện quyết định trên của Thủ tướng Chính phủ. Ngoài ra còn có văn bản 2539/NHCS-TD này 16/09/2008 và 2812/NHCS-TD này 09/10/2010 của tổng giám đốc ngân hàng chính sách xã hội … Theo quy định của các văn bản trên vốn cho vay của quỹ quốc gia về việc làm được dùng để cho vay hỗ trợ các dự án nhỏ nhằm tạo thêm việc làm, được quản lý thống nhất từ trung ương đến địa phương. Quỹ cho vay giải quyết việc làm được đặt tại ngân hàng chính sách xã hội. Ngân hàng chính sách xã hội có nhiệm vụ quản lý và cho vay theo các quy định tại nghị định số 78/2002/NĐ-CP ngày 04/10/2002 của chính phủ về tín dụng đối với người nghèo và các đối tượng chính sách khác. Đối tượng cho vay gồm: Hộ kinh doanh cá thể, tổ hợp sản xuất, hợp tác xã hoạt động theo luật hợp tác xã, cơ sở sản xuất kinh doanh sử dụng lao động là người tàn tật, doanh nghiệp nhỏ và vừa hoạt động theo luật doanh nghiệp, chủ trang trại, trung tâm giáo dục lao động xã hội, hộ gia đình. Hiện nay, nước ta có ba loại quỹ đó là: Quỹ quốc gia về việc làm: quỹ này sử dụng vào các mục đích là cho vay vốn theo dự án nhỏ để giải quyết việc làm cho một số đối tượng, cho các doanh nghiệpvay để hạn chế lao động mất việc làm và nhận người thất nghiệp, hỗ trợ củng cố và phát triển hệ thống tổ chức giưới thiệu việc làm và các hoạt động phát triển thị trường lao động. Quỹgiải quyêt việc làm địa phương: quỹ được hình thành từ các nguồn ngân sách địa phương do hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương quyết định, các nguồn hỗ trợ của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước, các nguồn hỗ trợ khác. Quỹ được sử dụng theo đúng mục tiêu của chương trình giải quyết việc làm ở địa phương. Quỹ việc làm cho người tàn tật: quỹ được hình thành từ các nguồn: ngân sách địa phương, quỹ quốc gia về việc làm, khỏan thu từ các doanh nghiệp nộp hàng tháng do không nhận đủ số lao động tàn tật theo quy định, các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước trợ giúp và thu hút các nguồn khác. Quỹ được sử dụng vào mục đích cấp để hỗ trợ hoặc cho vay với lãi suất thấp cho một số cơ sở, doanh nghiệp, các nhân sử dụng lao động tàn tật; các hoạt động phục hồi chức năng cho người tàn tật. 2.3. Tổ chức giới thiệu việc làm Việc thành lập các tổ chức giới thiệu việc làm được coi là một trong những biện pháp hỗ trợ giả quyết việc làm cho NLĐ. Thông qua hoạt động của các tổ chức này mà các quan hệ lao động có điều kiện và khả năng được hình thành. Tổ chức giới thiệu việc làm theo Điều 12 Nghị định 39/2003/NĐ-CP bao gồm các trung tâm giới thiệu việc làm và các doanh nghiệp chuyên giới thiệu việc làm. Trung tâm giới thiệu việc làm do cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị xã hội thành lập là đơn vị sự nghiệp có thu tự đảm bảo một phần chi phí hoạt động. Đối với các doanh nghiệp chuyên đảm bảo về giới thiệu việc làm phải đảm bảo đầy đủ các điều kiện theo quy định của pháp luật và có giấy phép hoạt động giới thiệu việc làm. Nhiệm vụ của các tổ chức giới thiệu việc làm là tư vấn, giới thiệu việc làm cho NLĐ, cung ứng và giúp tuyển lao động theo yêu cầu của NSDLĐ, thu nhập và cung ứng thông tin về thị trường lao động, có quyền dạy nghề gắn với tạo việc làm. Như vậy, nước ta đã duy trì mạng lưới dịch vụ công về việc làm và cho phép mở nhiều kênh giải quyết việc làm khác. Thông qua hoạt động này, NSDLĐ cần tuyển NLĐ và NLĐ nhanh chóng gặp nhau, việc làm cho NLĐ được giải quyết. 2.4. Dạy nghề gắn với việc làm Dạy nghề và việc làm có mối quan hệ mất thiết với nhau. Có nghề nghiệp là điều kiện tiên quyết đối với NLĐ để có thể nhanh chóng được tìm việc làm và có chỗ làm ổn định. Theo luật dạy nghề(2006). Các trình độ đào tạo trong dạy nghề bao gồm: trình độ sơ cấp, trung cấp và cao đẳng. Có hai hình thức dạy nghề là chính quy và dạy nghề thường xuyên. Mục tiêu của dạy nghề là: đào tạo nhân lực kĩ thuật trong sản xuất, dịch vụ có năng lực hành nghề tương xứng với trình độ đào tạo, có đạo đức lương tâm nghề nghiệp, có sức khỏe nhằm tạo điều kiện cho người học nghề sau khi tốt nghiệp có khả năng tìm việc làm, tự tạo việc làm hoặc học lên trình độ cao hơn, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước. 2.5 Đưa người lao động Việt Nam đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài. Đưa NLĐ Việt Nam đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài được coi là một trong những hoạt động quan trọng nhằm giải quyết việc làm, tạo thu nhập và nâng cao tay nghề, tiếp cận công nghệ tiên tiến cho NLđ thông qua đó góp phần phát triển nguồn nhân lực. Nước ta đã hợp tác đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài từ những năm 1980. Nhà nước thực hiện việc quản lý việc đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài. Nhiều văn bản pháp luật được ban hành nhằm tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động này, như: Luật người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài năm 2006, Nghị định 126/2007/NĐ-Cp ngày01/08/2007 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài, Nghị định số 144/2007/NĐ-CP ngày 10/09/2007 quy định về xử phạt vi phạm hnahf chính trong hoạt động đưa NLĐ Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài… Theo quy định tại điều 5 Luật người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài năm 2006. Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi để công dân Việt Nam có đủ điều kiện đi làm việc ở nước ngoài, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của NLĐ đi làm việc ở nước ngoài và của doanh nghiệp, tổ chức sự nghiệp đưa NLĐ đi làm việc ở nước ngoài. Điều 6 Luật người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài năm 2006 quy định: Người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo một trong các hình thức là: Hợp đồng đưa NLĐ đi làm việc ở nước ngoài với doanh nghiệp hoạt động dịch vụ, với tổ chức sự nghiệp được phép hoạt động trong lĩnh vực này, hợp đông với doanh nghiệp trúng thầu, nhận thầu ở nước ngoài hoặc tổ chức cá nhân đầu tư ra nước ngoài có đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài, hợp đông theo hình thức thực tập , nâng cao tay nghề và HĐLĐ do cá nhân NLĐ trực tiếp kí với NSDLĐ nước ngoài. Theo thống kê đến tháng 6/2009 Việt Nam có hơn 96000 lao động đi làm việc ở nước ngoài, phần lớn là làm việc tại các thị trường truyền thống như Hàn quốc, Đài loan, Nga, Đức..chiếm tới 95%; số còn lao sang một số nước ở Châu Âu và Châu mỹ. 2.6. Một số biện pháp khác Ngoài các biện pháp hỗ trợ và giải quyết việc làm nói trên, Nhà nước còn có các chính sách khuyến khích NLĐ tự tạo việc làm, khuyến khích sử dụng lao động tự do và tự do hợp đồng. Cho phép các đơn vị sử dụng lao động được quyền tự do tuyển dụng lao động trên cơ sở nhu cầu sản xuất kinh doanh của đơn vị.NLĐ được quyền tự do thiết lập quan hệ lao động trên cơ sở hợp đồng lao động. Đồng thời với những biện pháp đó, Nhà nước còn thực hiện hàng loạt các biệ pháp khác để giải quyết việc làm như thực hiện chính sách dân số, phân bổ lại dân cư, cơ cấu lại lực lượng lao động, xóa đói giảm nghèo gắn với giải quyết việc làm… B GIẢI QUYẾT TÌNH HUỐNG a/ Công ty M có thể sa thải chị H được hay không? Theo nội dung mà tình huống nêu ra,dựa trên các quy định của pháp luật ta khẳng định công ty M có thể sa thải được chị H. Sa thải là hình thức kỷ luật được NSDLĐ áp dụng đối với NLĐ bằng cách đơn phương chấm dứt HĐLĐ, buộc NLĐ phải nghỉ việc không phụ thuộc vào hiệu lực của HĐLĐ khi NLĐ vi phạm một trong những trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 85 Bộ luật Lao động và đã được quy định trong nội quy của đơn vị. Điều 85 BLLĐ quy định như sau: “ 1- Hình thức kỷ luật sa thải chỉ được áp dụng trong những trường hợp sau đây: Người lao động có hành vi trộm cắp, tham ô, tiết lộ bí mật công nghệ, kinh doanh hoặc có hành vi khác gây thiệt hại nghiêm trọng về tài sản, lợi ích của doanh nghiệp…”. - Sau khi sa thải người lao động, người sử dụng lao động phải báo cho cơ quan quản lý nhà nước về lao động tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương biết.” Mặt khác, theo nghị định của chính phủ số 33/2003/NĐ – CP ngày 02 tháng 4 năm 2003 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 41/CP ngày 06 tháng 7 năm 1995 của chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của BLLĐ về kỷ luật lao động và trách nhiệm vật chất có quy định: “3. Hình thức sa thải được áp dụng đối với người lao động vi phạm một trong những trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 85 của Bộ Luật Lao động và đã cụ thể hóa trong nội quy lao động được quy định như sau: a) Người lao động vi phạm một trong các trường hợp quy định tại điểm a khoản 1 Điều 85 của Bộ Luật Lao động, nếu hành vi vi phạm đó chưa có đầy đủ hoặc khó xác định chứng cứ thì yêu cầu cơ quan có thẩm quyền điều tra, xác minh, kết luận để làm căn cứ xử lý kỷ luật…” Thứ nhất: Theo tình huống ở trên ta thấy, hành vi của chị H thuộc trường hợp điểm a khoản 1 Điều 85 BLLĐ đó là hành vi mà chị H đã tham ô 34 triệu đồng của công ty M. Chị H đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình là nhân viên thu ngân để thu tiền của 1 số đơn vị quảng cáo, có viết hóa đơn chứng từ nhưng không ghi vào sổ thu tiền và không chuyển tiền vào phòng kế toán. Đó là hành vi cụ thể, xác thực để xác định chị H đã có hành vi tham ô tài sản ( tiền) của công ty M. Thứ hai: Đồng thời theo nghị định của chính phủ số 33/2003/NĐ – CP ngày 02 tháng 4 năm 2003 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 41/CP ngày 06 tháng 7 năm 1995 của chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của BLLĐ về kỷ luật lao động và trách nhiệm vật chất thì “kết luận của Công an về hành vi tham ô của chị H với số tiền 34 triệu đồng” đó cũng chính là căn cứ để xác định xử lý kỷ luật sa thải”. Chị H đã vi phạm kỉ luật lao động, đối với vi phạm trên chị H phải chịu hình thức kỉ luật là sa thải. Trong trường hợp này thời hiệu xử lý kỷ luật chưa hết. Điều 86 Bộ luật lao động quy định “Thời hiệu để xử lý kỷ luật lao động tối đa là ba tháng,kể từ ngày xảy ra vi phạm, trường hợp đặc biệt cũng không được quá sáu tháng” Nghị định của chính phủ số 33/2003/NĐ – CP ngày 02 tháng 4 năm 2003 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 41/CP ngày 06 tháng 7 năm 1995 của chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của BLLĐ về kỷ luật lao động và trách nhiệm vật chất có quy định rõ về thời hiệu xử lý vi phạm kỷ luật lao động: "Điều 8. Thời hiệu để xử lý vi phạm kỷ luật lao động theo Điều 86 của Bộ luật Lao động được quy định như sau: 1. Thời hiệu để xử lý vi phạm kỷ luật lao động tối đa là ba tháng, kể từ ngày xảy ra hoặc phát hiện vi phạm, trường hợp có hành vi vi phạm liên quan đến tài chính, tài sản, tiết lộ bí mật công nghệ, kinh doanh của doanh nghiệp thì thời hiệu xử lý kỷ luật lao động tối đa là 6 tháng. 2… c) Chờ kết quả của cơ quan có thẩm quyền điều tra, xác minh và kết luận đối với hành vi vi phạm được quy định tại điểm a khoản 1 Điều 85 của Bộ luật Lao động. d) Người lao động nữ có thai; n
Tài liệu liên quan