Thay đổi sâu răng sau 1 năm và các yếu tố liên quan sâu răng ở trẻ 9-10 tuổi tại huyện Bình Chánh Thành phố Hồ Chí Minh

Mục tiêu: Đánh giá sự thay đổi sâu răng sau một năm của nhóm học sinh 9-10 tuổi có sâu răng cao (so với nhóm sâu răng thấp) và phân tích các yếu tố nguy cơ có ảnh hưởng đến sự gia tăng sâu răng sau 1 năm tại một trường tiểu học thuộc huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu theo dõi dọc 1 năm trên 149 học sinh 9-10 tuổi tại huyện Bình Chánh Tp.HCM (52 học sinh không sâu răng vĩnh viễn hay có tối đa 1 răng sữa sâu và 97 học sinh sâu răng cao). Tình trạng sâu răng được đánh giá theo tiêu chí của WHO 1997 có biến đổi (bao gồm cả sang thương chưa sâu răng chưa tạo lỗ) ở 2 thời điểm: ban đầu và sau 12 tháng bởi cùng tiêu chí và cùng các điều tra viên đã được định chuẩn. Số liệu các yếu tố lâm sàng liên quan sâu răng được thu thập ở thời điểm ban đầu. Các đặc điểm nước bọt như pH mảng bám, độ nhớt nước bọt, pH nước bọt không kích thích và có kích thích, lưu lượng, khả năng đệm của nước bọt được ghi nhận bằng bộ thử nghiệm Plaque-Check+ pH và Saliva-Check Buffer (hãng GC). Số lượng vi khuẩn Streptococcus mutans, Lactobacilli được đánh giá bằng bộ thử nghiệm CRT® Bacteria (hãng Vivadent). Vệ sinh răng miệng được đánh giá dựa vào chỉ số OHI-S. Ngoài ra, các đặc điểm kinh tế xã hội như học vấn, thu nhập của cha mẹ học sinh và các yếu tố thói quen như chế độ ăn có đường, axít, số lần chải răng và sử dụng fluor cũng được ghi nhận. Tất cả các yếu tố liên quan sâu răng này được dùng để phân tích mối liên quan với sự gia tăng sâu răng sau 1 năm. Kiểm định 2, thống kê OR, kiểm định t bắt cặp, kiểm định t cho 2 mẫu độc lập và phân tích hồi quy logistic được áp dụng trong nghiên cứu này. Kết quả: Tình trạng sâu răng vĩnh viễn sau 1 năm như sau: ở nhóm học sinh sâu răng thấp trung bình SMT-MR tăng là 1,15 ± 1,66 và có 25% học sinh có tăng từ 1-2 SMT-MR; ở nhóm sâu răng cao trung bình SMT-MR tăng 1,64 ± 1,46 và có 53,6% học sinh có tăng từ 1-2 SMT-MR. Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tỷ lệ % học sinh có tăng sâu răng cũng như trung bình độ lệch SMT-R/SMT-MR sau 1 năm giữa 2 nhóm học sinh có sâu răng cao và không có sâu răng ban đầu (p<0,001). Phân tích hồi quy logistic về yếu tố nguy cơ ban đầu ảnh hưởng đến sự thay đổi sâu răng sau một năm cho thấy những học sinh “có tiền sử sâu răng vĩnh viễn cao ban đầu” và “khả năng đệm nước bọt thấp” có nguy cơ tăng tối thiểu một SMT-MR sau một năm tương ứng là 9,52 lần (KTC 95%: 3,45-26,29; p<0,001) và 2,74 lần (KTC 95%: 1,07-6,98; p<0,05). Còn những học sinh có “tiền sử sâu răng cao ban đầu” (p<0,001) và “thu nhập của cha/mẹ thấp” có nguy cơ tăng tối thiểu hai SMT-MR sau một năm tương ứng là 11,6 lần (KTC 95%: 3,32-40,6; p<0,001) và 3,78 lần (KTC 95%: 1,14-12,51; p<0,05). Kết luận: Các yếu tố “có tiền sử sâu răng vĩnh viễn cao ban đầu”, “khả năng đệm nước bọt thấp” và “thu nhập của cha/mẹ thấp” là những yếu tố nguy cơ làm gia tăng 1 hoặc 2 mặt răng sâu sau 1 năm ở nhóm trẻ 9-10 tuổi trong nghiên cứu tại huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh, trong đó yếu tố “có tiền sử sâu răng vĩnh viễn cao ban đầu” là yếu tố nguy cơ thật sự có liên quan rất mạnh với sự gia tăng sâu răng (p<0,001).

pdf9 trang | Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 13/06/2022 | Lượt xem: 185 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thay đổi sâu răng sau 1 năm và các yếu tố liên quan sâu răng ở trẻ 9-10 tuổi tại huyện Bình Chánh Thành phố Hồ Chí Minh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012 Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 78 THAY ĐỔI SÂU RĂNG SAU 1 NĂM VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN SÂU RĂNG Ở TRẺ 9-10 TUỔI TẠI HUYỆN BÌNH CHÁNH THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Bùi Huỳnh Anh*, Ngô Thị Quỳnh Lan* TÓM TẮT Mục tiêu: Đánh giá sự thay đổi sâu răng sau một năm của nhóm học sinh 9-10 tuổi có sâu răng cao (so với nhóm sâu răng thấp) và phân tích các yếu tố nguy cơ có ảnh hưởng đến sự gia tăng sâu răng sau 1 năm tại một trường tiểu học thuộc huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu theo dõi dọc 1 năm trên 149 học sinh 9-10 tuổi tại huyện Bình Chánh Tp.HCM (52 học sinh không sâu răng vĩnh viễn hay có tối đa 1 răng sữa sâu và 97 học sinh sâu răng cao). Tình trạng sâu răng được đánh giá theo tiêu chí của WHO 1997 có biến đổi (bao gồm cả sang thương chưa sâu răng chưa tạo lỗ) ở 2 thời điểm: ban đầu và sau 12 tháng bởi cùng tiêu chí và cùng các điều tra viên đã được định chuẩn. Số liệu các yếu tố lâm sàng liên quan sâu răng được thu thập ở thời điểm ban đầu. Các đặc điểm nước bọt như pH mảng bám, độ nhớt nước bọt, pH nước bọt không kích thích và có kích thích, lưu lượng, khả năng đệm của nước bọt được ghi nhận bằng bộ thử nghiệm Plaque-Check+ pH và Saliva-Check Buffer (hãng GC). Số lượng vi khuẩn Streptococcus mutans, Lactobacilli được đánh giá bằng bộ thử nghiệm CRT® Bacteria (hãng Vivadent). Vệ sinh răng miệng được đánh giá dựa vào chỉ số OHI-S. Ngoài ra, các đặc điểm kinh tế xã hội như học vấn, thu nhập của cha mẹ học sinh và các yếu tố thói quen như chế độ ăn có đường, axít, số lần chải răng và sử dụng fluor cũng được ghi nhận. Tất cả các yếu tố liên quan sâu răng này được dùng để phân tích mối liên quan với sự gia tăng sâu răng sau 1 năm. Kiểm định 2, thống kê OR, kiểm định t bắt cặp, kiểm định t cho 2 mẫu độc lập và phân tích hồi quy logistic được áp dụng trong nghiên cứu này. Kết quả: Tình trạng sâu răng vĩnh viễn sau 1 năm như sau: ở nhóm học sinh sâu răng thấp trung bình SMT-MR tăng là 1,15 ± 1,66 và có 25% học sinh có tăng từ 1-2 SMT-MR; ở nhóm sâu răng cao trung bình SMT-MR tăng 1,64 ± 1,46 và có 53,6% học sinh có tăng từ 1-2 SMT-MR. Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tỷ lệ % học sinh có tăng sâu răng cũng như trung bình độ lệch SMT-R/SMT-MR sau 1 năm giữa 2 nhóm học sinh có sâu răng cao và không có sâu răng ban đầu (p<0,001). Phân tích hồi quy logistic về yếu tố nguy cơ ban đầu ảnh hưởng đến sự thay đổi sâu răng sau một năm cho thấy những học sinh “có tiền sử sâu răng vĩnh viễn cao ban đầu” và “khả năng đệm nước bọt thấp” có nguy cơ tăng tối thiểu một SMT-MR sau một năm tương ứng là 9,52 lần (KTC 95%: 3,45-26,29; p<0,001) và 2,74 lần (KTC 95%: 1,07-6,98; p<0,05). Còn những học sinh có “tiền sử sâu răng cao ban đầu” (p<0,001) và “thu nhập của cha/mẹ thấp” có nguy cơ tăng tối thiểu hai SMT-MR sau một năm tương ứng là 11,6 lần (KTC 95%: 3,32-40,6; p<0,001) và 3,78 lần (KTC 95%: 1,14-12,51; p<0,05). Kết luận: Các yếu tố “có tiền sử sâu răng vĩnh viễn cao ban đầu”, “khả năng đệm nước bọt thấp” và “thu nhập của cha/mẹ thấp” là những yếu tố nguy cơ làm gia tăng 1 hoặc 2 mặt răng sâu sau 1 năm ở nhóm trẻ 9-10 tuổi trong nghiên cứu tại huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh, trong đó yếu tố “có tiền sử sâu răng vĩnh viễn cao ban đầu” là yếu tố nguy cơ thật sự có liên quan rất mạnh với sự gia tăng sâu răng (p<0,001). Từ khóa: pH mảng bám, độ nhớt nước bọt, pH nước bọt, lưu lượng nước bọt, khả năng đệm nước bọt, Streptococcus mutans. ABSTRACT * Khoa Răng Hàm Mặt, Đại học Y Dược Tp.HCM. Tác giả liên lạc: BS Bùi Huỳnh Anh ĐT: 0909094950 Email: buihuynhanh@yahoo.fr Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 79 CHANGING DENTAL CARIES AFTER ONE YEAR FOLLOW-UP AND RELATED FACTORS IN 9-10 YEAR-OLD CHILDREN IN BINH CHANH, HO CHI MINH CITY, VIETNAM Bui Huynh Anh, Ngo Thi Quynh Lan * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 - Supplement of No 2 - 2012: 78 - 86 Objectives: The purposes of this study were to assess and follow-up within one year the changes of dental caries among 9 to 10-year-old school children with high caries in a primary school in Binh Chanh, HoChiMinh city and to analyze caries-related factors affected in caries increment after a year. Materials and methods: An one-year follow up study in 149 children (52 caries free children and 97 high caries children). The caries status was recorded using the WHO Criteria 1997 (with non-cavitated lesions) and it was reevaluated after one year using the same criteria and same calibrated examiners. At baseline, clinical factors related to caries such as plaque pH, salivary viscosity, non-stimulated salivary pH, stimulated salivary flow, salivary buffering capability were measured by Plaque-check + pH test and Saliva-Check Buffer test. The amounts of Streptococcus mutans and Lactobacilli were assessed using CRT® Bacteria. Oral hygiene status was defined according to OHI-S index. Socioeconomic characteristics such as parents’ education level, parents’ income and behavioral characteristics in regard to sugar and acid consumption, brushing habit and fluoride use were also recorded. All these caries related factors were used for analyzing the correlation with the caries increments after one year. Chi Square test, Odd ratios, t test and Logistic Regression Model were applied in the study. Results: The caries status in permanent teeth after the one-year follow-up period was as follows: in caries free group, DMFS increment was 1.15 ± 1.66; 25% children showed an increase of 1-2 caries surfaces; in high caries group, DMFS increment was 1.64 ± 1.46; 53.6% children showed an increase of 1-2 caries surfaces. There were significant differences not only in the percentage increases of children with caries but also in the DMFS increment between the 2 groups (caries free and high caries children) (p<0.001). Multivariate logistic regression analysis revealed that “stimulated salivary pH 5.0-6.6” (p=0.037) and “amounts of Lactobacilli ≥ 105 CFU/ml” (p<0.001) were risk factors associated with high caries-level individuals. After one year, all related factors were analyzed with caries increment in multivariate logistic regression analysis: (1) “caries experience in permanent teeth” (OR 9.52; CI 95%: 3.45-26.29; p<0.001) and “poor salivary buffering capability” (OR 2.74; CI 95%: 1.07- 6.98; p<0.05) were significantly correlated with the increment of at least 1 DMFS; (2) “caries experience in permanent teeth” (OR 11.6; CI 95%: 3.32- 40.6; p<0.001) and “parents’ low income” (OR 3.78; CI 95%: 1.14- 12.51; p<0.05) were significantly correlated with the increment of at least 2 DMFS. Conclusion: “Caries experience in permanent teeth”, “poor salivary buffering capability” and “parents’ low income” were factors associated significantly with the increment of at least 1-2 DMFS after 1 year; and “caries experience in permanent teeth” had a very strong correlation with the caries increment among 9-10-year-old school children in Binh Chanh, Hochiminh city, Viet Nam (p<0.001). Keywords: Plaque pH, salivary viscosity, salivary pH, salivary flow, salivary buffering capability, Streptococcus mutans. ĐẶT VẤN ĐỀ Hiện nay, ở Việt Nam tuy đã có nhiều cải thiện đáng kể trong tình hình sâu răng nhờ các chương trình chăm sóc răng miệng cộng đồng và phát triển hệ thống chăm sóc răng miệng cá nhân nhưng Liên đoàn Nha khoa quốc tế (FDI) vẫn cảnh báo nước ta về tỷ lệ trẻ em mắc bệnh sâu răng cao. Theo kết quả điều tra sức khỏe răng miệng toàn quốc năm 1999-2001, ở trẻ em 9-11 tuổi tỉ lệ sâu răng là 56,3%, ở đồng bằng sông Cửu Long (bao gồm TP.HCM) có tỉ lệ sâu răng cao nhất: 93,7%. Thực tế hiện nay trên thế giới có sự phân bố lệch của bệnh sâu răng, mặc dù cùng hưởng lợi ích từ những chương trình Nha Học Đường nhưng vẫn có một nhóm đối Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012 Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 80 tượng có tỷ lệ sâu răng rất cao và tiến triển rất nhanh(6,21). Vì vậy, việc xác định nhóm đối tượng có nguy cơ sâu răng cao và các yếu tố tác động đến tình trạng này có thể giúp hướng đến việc xây dựng thêm những chương trình chăm sóc răng miệng đặc biệt cho nhóm nguy cơ bên cạnh các chương trình nha khoa cộng đồng. Ngoài ra, sâu răng tuy là một bệnh nhiễm khuẩn nhưng lại chịu ảnh hưởng phức tạp bởi nhiều yếu tố. Ở trẻ từ 9-11 tuổi, chỉ số SMT-MR, đặc biệt là sâu ở răng cối lớn vĩnh viễn thứ nhất là yếu tố lâm sàng cho giá trị tiên đoán sâu răng tương lai có ý nghĩa rất mạnh (Sanchez-Perez, 2009(22)). Bên cạnh đó, các yếu tố sinh học như chỉ số mảng bám (Disney, 1992(6)), pH nước bọt, số lượng Streptococcus mutans (Tamaki, 2009(25)), Lactobacilli(8), vệ sinh răng miệng kém (Mascarenhas, 1998(15)), hoặc yếu tố thói quen chải răng và chế độ dinh dưỡng có đường (Vanobbergen, 2001(29)) cũng có liên hệ với nguy cơ sâu răng. Nhiều nghiên cứu khi đánh giá các yếu tố môi trường sống như khu vực không thêm fluor vào nước (Batchelor, 2006 (3)), nơi cư trú (Jeppersen, 2006 (11)) hay yếu tố kinh tế-xã hội như trình độ học vấn của cha mẹ kém (Beighton, 1996 (4)), hoàn cảnh gia đình thu nhập thấp (Jeppersen và Foldspang, 2006 (11)) cũng phát hiện đây là những yếu tố làm tăng nguy cơ sâu răng cao ở độ tuổi 6-12. Tuy nhiên, bệnh sâu răng là một quá trình động luôn biến đổi một cách phức tạp trong đó các yếu tố trực tiếp và gián tiếp gây bệnh tạo ra những ảnh hưởng lẫn nhau, dẫn đến một yếu tố có thể không ảnh hưởng đến sâu răng ở người này nhưng lại là yếu tố nguy cơ ở người khác(8). Đồng thời tác động riêng của từng yếu tố và hiệu quả phối hợp chung của tất cả yếu tố có thể khác nhau ở những cá thể hay nhóm dân số khác nhau, vì vậy các yếu tố ảnh hưởng đến nguy cơ sâu răng cũng rất thay đổi ở các nghiên cứu khác nhau. Mục tiêu nghiên cứu Mô tả sự thay đổi về tình trạng sâu răng sau một năm ở hai nhóm học sinh 9-10 tuổi tại Trường Tiểu Học Nguyễn Văn Trân, Xã Đa Phước, Huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh có sâu răng thấp và sâu răng cao. Đánh giá mối liên quan giữa các yếu tố ảnh hưởng trên đến sự thay đổi sâu răng sau một năm của học sinh trong nghiên cứu. ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Mẫu nghiên cứu 149 học sinh 9-10 tuổi (lớp 3 và lớp 4) trường Tiểu Học Nguyễn Văn Trân, xã Đa Phước, huyện Bình Chánh, TP.HCM tham gia nghiên cứu được chia 2 nhóm: nhóm 1 (sâu răng thấp hay không sâu răng: không có xoang sâu răng vĩnh viễn và có từ 1 xoang sâu răng sữa trở xuống) có 52 học sinh và nhóm 2 (nhóm sâu răng cao: có từ 2 xoang sâu răng vĩnh viễn trở lên và từ 3 xoang sâu răng sữa trở lên) có 97 học sinh. Các biến số nghiên cứu và cách đánh giá Khám lâm sàng đánh giá tình trạng răng miệng và khám tái đánh giá sau 1 năm. Khám sâu răng: ghi nhận sâu răng sớm ở men (đốm đục, màu trắng hoặc nâu, lỗ rỗ) và xoang sâu có lỗ (theo WHO, 1997). Khảo sát tình trạng vệ sinh răng miệng theo chỉ số vệ sinh răng miệng đơn giản (OHI-S). Khám tái đánh giá sau 1 năm với cùng tiêu chí và cùng nhóm 3 điều tra viên. Đánh giá cận lâm sàng các yếu tố ảnh hưởng sâu răng ở thời điểm đầu tiên. Mảng bám: dùng bộ thử nghiệm Plaque-Check + pH (hãng GC) ghi nhận pH của mảng bám. Nước bọt: dùng bộ thử nghiệm Saliva-Check Buffer (hãng GC) ghi nhận độ nhớt và độ pH của nước bọt không kích thích và lưu lượng, độ pH, khả năng đệm của nước bọt kích thích. Vi khuẩn: dùng bộ thử nghiệm CRT® Bacteria (hãng Vivadent) ghi nhận số lượng khúm Mutans streptococci và Lactobacilli. Thu thập thông tin về các yếu tố khác ảnh hưởng sâu răng qua bảng câu hỏi: số lần sử dụng thức ăn có đường và axít trong ngày; có hay không sử dụng kem đánh răng có fluor; số Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 81 lần chải răng trong ngày; trình độ học vấn và thu thập của cha và của mẹ học sinh. Xử lý và phân tích số liệu Thống kê mô tả: tính tỷ lệ % sâu răng, tỷ lệ % học sinh theo từng yếu tố ảnh hưởng, trung bình SMT-R và SMT-MR. Thống kê suy lý: kiểm định 2 để phân tích riêng phần từng yếu tố và phân tích hồi quy logic để đánh giá liên quan của tất cả yếu tố đối với sự thay đổi sâu răng sau một năm. KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN Tình trạng sâu răng vĩnh viễn sau 1 năm ở 2 nhóm học sinh sâu răng thấp và cao Nghiên cứu chỉ tập trung mô tả và phân tích sự thay đổi sâu răng ở hệ răng vĩnh viễn của trẻ 9-10 tuổi ở hai thời điểm năm 2010 và năm 2011. Ở hai thời điểm này, chúng tôi ghi nhận trung bình SMT-R của 149 học sinh trong nghiên cứu lần lượt là 0,85 và 1,58; SMT-MR là 1,07 và 2,54. Riêng nhóm sâu răng cao, ở hai thời điểm trung bình SMT-R là 1,31 và 2,13; SMT-MR là 1,65 và 3,29 (Bảng 1). Sự khác biệt về SMT-R và SMT- MR sau một năm giữa hai thời điểm nghiên cứu là có ý nghĩa về mặt thống kê (p<0,001). Bảng 1: Trung bình SMT-R và SMT-MR của học sinh trong nghiên cứu năm 2010 và năm 2011. Năm 2010 (TB±ĐLC) Năm 2011 (TB±ĐLC) p Nhóm 2 SMT-R 1,31 ±1,36 2,13 ± 1,68 < 0,001 SMT-MR 1,65 ± 1,72 3,29 ± 2,38 < 0,001 Mẫu NC SMT-R 0,85 ± 1,26 1,58 ± 1,65 < 0,001 SMT-MR 1,07 ± 1,59 2,54 ± 2,38 < 0,001 Kiểm định t bắt cặp Sự thay đổi SMT-R và SMT-MR của học sinh sau một năm Ở nhóm sâu răng thấp, trung bình SMT-R và SMT-MR lần lượt tăng sau một năm là 0,56 và 1,15. Ở nhóm sâu răng cao, trung bình SMT-R và SMT-MR lần lượt tăng sau một năm là 0,82 và 1,64 (Bảng 2). Không có sự khác biệt về mức độ gia tăng sâu mất trám giữa hai nhóm (p>0,05). Bảng 2: Sự gia tăng SMT-R và SMT-MR sau một năm giữa hai nhóm 1 và 2. NHÓM 1 (TB±ĐLC) NHÓM 2 (TB±ĐLC) p SMT-R 0,56 ± 0,978 0,82 ± 0,924 0,885 SMT-MR 1,15 ± 1,661 1,64 ± 1,459 0,378 Kiểm định t cho 2 mẫu độc lập Sau một năm, có 25% học sinh có tăng từ 1-2 SMT-MR ở nhóm sâu răng thấp và 53,6% học sinh có tăng từ 1-2 SMT-MR ở nhóm sâu răng cao (Bảng 3). Tỷ lệ tăng sâu răng ở nhóm 1 so với nhóm 2 có khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05). Bảng 3: Đặc điểm các mức độ tăng SMT-MR (SMT-MR) sau một năm ở hai nhóm 1 và 2. SMT-MR NHÓM 1 n (%) NHÓM 2 n (%) Tổng N (%) p Không tăng (SMT-MR=0) 28 (53,8) 24 (24,7) 52 (34,9) Tăng trung bình (1 SMT-MR  2) 13 (25) 52 (53,6) 65 (43,6) Tăng cao (SMT-MR ≥ 3) 11 (21,2) 21 (21,7) 32 (21,5) 0,01 Kiểm định Học sinh ở nhóm sâu răng cao ban đầu có nguy cơ tăng một và hai mặt răng sâu mới sau một năm gấp 3,55 lần (KTC 95%: 1,74-7,25) và 3,66 lần (KTC 95%: 1,65-8,11) so với nhóm học sinh có sâu răng thấp ban đầu (Bảng 4). Bảng 4: Sự thay đổi SMT-MR (tăng tối thiểu 1 SMT-MR và tăng tối thiểu 2 mặt răng SMT-MR) sau một năm ở hai nhóm 1 và 2. NHÓM 1 n (%) NHÓM 2 n (%) OR (KTC 95%) p Không tăng SMT- MR 28 (53,8) 24 (46,2) 3,55 (1,74- 7,25) <0,001 Tăng ≥1 SMT-MR 24 (24,7) 73 (75,3) Không tăng SMT- MR 28 (53,8) 24 (46,2) 3,66 (1,65- 8,11) 0,001 Tăng ≥2 SMT-MR 15 (24,2) 47 (75,8) Kiểm định Mức độ thay đổi SMT của nghiên cứu gần tương đồng với các trẻ cùng độ tuổi sống trong vùng không thêm fluor vào nước ở Hoa Kỳ(6), Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012 Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 82 nhưng cao hơn ở Mexico(28) và thấp hơn ở Braxin, Na Uy(5), Phần Lan(21) và ở quận Bình Tân(26). Nguy cơ tăng SMT-MR sau 1 năm ở học sinh 9-10 tuổi trong nghiên cứu Nhiều tác giả đồng ý rằng một trong những yếu tố tiên đoán sâu răng tương lai tốt nhất chính là sự hiện diện của sâu răng hiện tại hoặc những bằng chứng của sâu răng trong quá khứ dưới dạng miếng trám (Powell, 1998(19); Vallejos- Sanchez, 2006(28)). Kết quả nghiên cứu ở Bảng 5 và 6 cho thấy yếu tố này có liên quan rất mạnh với nhóm học sinh có tăng thêm tối thiểu một và hai mặt răng sâu mất trám mới sau một năm trong cả phân tích riêng từng yếu tố cũng như trong phân tích hồi quy (OR: 9,52 và OR: 11,6). Giá trị này cao hơn so với nghiên cứu của Kassawara (2010) khi theo dõi sâu răng hai năm ở trẻ cùng tuổi tại Braxin (OR: 2,96)(12); nhưng thấp hơn so với nghiên cứu của Trần Thị Bích Vân (2006) ở trẻ 12 tuổi tại TPHCM (OR: 98)(26). Trong các yếu tố nước bọt, nghiên cứu ghi nhận chỉ có yếu tố khả năng đệm của nước bọt là yếu tố duy nhất có nguy cơ thật sự làm trẻ tăng tối thiểu một sang thương sâu răng mới sau 1 năm (OR: 2,74) (Bảng 5). Gần đây, có những nghiên cứu đánh giá nguy cơ sâu răng cho thấy những yếu tố nước bọt này có khả năng dự đoán sâu răng khá yếu (Preethi, 2010(20); Raitio, 2002(21)). Tuy vậy, nghiên cứu lại tìm thấy giá trị của khả năng đệm nước bọt trong nguy cơ tăng sâu răng, rất tương đồng quan điểm khả năng đệm của nước bọt có tương quan nghịch với sự trầm trọng sâu răng của Erissson (1959) hay Trần Thị Bích Vân (2006)(26). Về đánh giá vi khuẩn, số lượng Mutans streptococci và Lactobacilli không cho thấy giá trị tiên đoán nguy cơ trong diễn tiến bệnh sâu răng tương lai tương tự trong nghiên cứu của Sanchez-Perez (2009)(22). Tác giả Marsh (2009) cho rằng do vai trò của vi khuẩn đặc hiệu gây sâu răng có thể mờ nhạt hơn khi bệnh đã trầm trọng và có sự hiện diện của các loại vi khuẩn khác(14). Tuy nhiên, nhiều nghiên cứu dọc tiên đoán sâu răng trong tương lai khi kết hợp số lượng Streptococcus mutans, Lactobacilli và một số yếu tố khác trong mô thức tiên đoán sâu răng thì giá trị tiên đoán đạt khá tốt(13). Đồng thời số lượng vi khuẩn tăng theo độ tuổi(9), nên cũng cần theo dõi định kỳ yếu tố này nhằm phát hiện sớm và có biện pháp dự phòng sâu răng kịp thời. Hai yếu tố thuộc mảng bám được ghi nhận là tình trạng vệ sinh răng miệng và pH mảng bám đều không thể hiện là yếu tố nguy cơ làm cho trẻ tăng sâu răng sau một năm. Dù không thể phủ nhận rằng mảng bám răng là một nguyên nhân tại chỗ trực tiếp gây bệnh sâu răng, nhưng không phải tất cả các nghiên cứu dọc đều chứng minh được vệ sinh răng miệng kém làm tăng sâu răng, hoặc ngược lại kiểm soát mảng bám tốt làm giảm sâu răng(15,2). Tuy nhiên cần chú ý mối tương quan giữa sự gia tăng sâu răng và số lần chải răng có thể còn chịu các ảnh hưởng khác như tiếp xúc với kem đánh răng có fluor, khả năng chải sạch mảng bám của từng người... Trong những năm gần đây, nhiều nghiên cứu cho thấy không có hay ít có mối liên hệ giữa sự gia tăng sâu răng và lượng đường tiêu thụ ở các nước công nghiệp. Kleemola-Kuijala (1982)(26) đã chứng minh rằng khi lượng đường tiêu thụ gia tăng, sâu răng sẽ gia tăng có ý nghĩa chỉ đồng thời khi vệ sinh răng miệng kém. Với tỷ lệ học sinh có vệ sinh răng miệng kém chiếm khoảng 23% trong nghiên cứu, yếu tố “chế độ ăn có đường ≥ 3 lần/ngày” không là yếu tố nguy cơ thật sự trong các phân tích tổng hợp đa yếu tố. Các yếu tố kinh tế- xã hội như trình độ học vấn của phụ huynh, thu nhập bình quân/ đầu người trong gia đình phản ánh phần nào môi trường giáo dục và điều kiện sống xung quanh trẻ về tinh thần cũng như vật chất. Trong nghiên cứu, yếu tố “thu nhập của cha/mẹ thấp” là một yếu tố lượng giá nguy cơ có ý nghĩa (OR: 3,78 ; p<0,05) thứ hai sau yếu tố “tiền sử sâu răng cao” Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 83 ở nhóm trẻ có tăng hai mặt răng sâu sau một năm (Bảng 6). Aleksejuniene (2009) tổng kết các tài liệu nghiên cứu cũng đưa ra nhận xét rằng các yếu tố xã hội và tình trạng sâu răng quá khứ là yếu tố tiên đoán mạnh nhất của nhóm nguy cơ sâu cao trong khi các yếu tố khác chỉ góp phần thứ yếu(1). Ngoài ra, Petersen (2008) ghi nhận học vấn và thu nhập cao của cha mẹ là yếu tố
Tài liệu liên quan