Thực hiện quyền con người những vấn đề đặt ra trong giai đoạn hiện nay

Bài viết khẳ quyền (quyền con người) là nhiệm vụ chính trị tất ng định nhân yếu của nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đồng thời phân tích một số khó khăn trong giai đoạn hiện nay. Qua đó kiến nghị những giải pháp nhằm thực hiện tốt vấn đề đảm bảo và thúc đẩy quyền con người ở Việt Nam. Từ khóa: quyền con người

pdf5 trang | Chia sẻ: hadohap | Lượt xem: 402 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thực hiện quyền con người những vấn đề đặt ra trong giai đoạn hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
KHOA HOÏC QUAÛN LYÙ40 T Ạ P C H Í K H O A H Ọ C C Ô N G N G H Ệ V À M Ô I T R Ư Ờ N G Bài viết khẳng định nhân quyền (quyền con người) là nhiệm vụ chính trị tất yếu của nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đồng thời phân tích một số khó khăn trong giai đoạn hiện nay. Qua đó kiến nghị những giải pháp nhằm thực hiện tốt vấn đề đảm bảo và thúc đẩy quyền con người ở Việt Nam. Từ khóa: quyền con người 1. Thực hiện quyền con người là nhiệm vụ chính trị tất yếu Theo định nghĩa của Văn phòng Cao ủy Liên Hợp quốc, quyền con người là “những đảm bảo pháp lý toàn cầu có tác dụng bảo vệ các cá nhân và nhóm chống lại những hành động hoặc sự bỏ mặc làm tổn hại đến nhân phẩm, những sự được phép và tự do cơ bản của con người”. Đối với hầu hết các quốc gia trên thế giới, quyền con người (nhân quyền) luôn luôn là mối quan tâm hàng đầu. Những vấn đề đặt ra trong giai đoạn hiện nay TRỊNH THỊ THU HIỀN Trường Chính trị tỉnh Gia Lai Bởi lẽ Nhà nước, suy cho cùng luôn luôn mang bản chất xã hội để thực hiện chức năng quản lý xã hội - trong đó con người là trung tâm. Nhân quyền được xem là vấn đề mang tính chất toàn cầu, buộc các quốc gia phải đánh giá và xem xét một cách nghiêm túc. Thực hiện quyền con người là bảo đảm sự tôn trọng các cam kết quốc tế Cùng với Tuyên ngôn thế giới về quyền con người năm 1948 (UDHR), Công ước về quyền dân sự, chính trị năm 1966 (ICCPR) và Công ước về các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa năm 1966 (ICESCR). Từ đó cho đến nay, Liên Hợp Quốc cùng các quốc gia thành viên luôn nỗ lực trong xây dựng và bảo đảm hơn nữa các vấn đề về nhân quyền. Việt Nam là thành viên của tổ chức Liên Hợp Quốc, đã phê chuẩn và gia nhập nhiều điều ước quốc tế về nhân quyền như: Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử chủng tộc 1965 (gia nhập ngày 9/6/1981); Công ước về ngăn ngừa và trừng trị tội diệt chủng năm 1948 (gia nhập ngày 9/6/1981); Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử chống lại phụ nữ năm 1979 (phê chuẩn ngày 18/12/1982); Công ước về cấm và hành động ngay để xóa bỏ các hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất năm 1999 (phê chuẩn ngày 19/12/2000)... Việc ký kết và gia nhập các Điều ước quốc tế về quyền con người đặt ra cho Việt Nam nghĩa vụ tất yếu trong vấn đề tận tâm thực hiện, rà soát, hoàn thiện hệ thống pháp luật để thúc đẩy và bảo vệ quyền con người. Để cụ thể hóa nội dung các Điều ước quốc tế, Đảng đã đưa ra nhiều chủ trương, đường lối và chính sách nhằm đảm bảo nhân quyền. Chẳng hạn như Chỉ thị 12/CT-TW ngày 12/7/1992 của Bộ Chính trị về “Vấn đề quyền con người và quan điểm chủ trương của Đảng ta”; “Cương lĩnh xây Thực hiện quyền con người KHOA HOÏC QUAÛN LYÙ 41 S Ố 0 4 N Ă M 2 0 18dựng đất nước trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội” (bổ sung và phát triển năm 2011)... Trên tinh thần đó, Nhà nước ban hành các đạo luật có ý nghĩa quan trọng trong vấn đề nhân quyền như: Hiến pháp 2013; Bộ luật Dân sự 2015; Bộ luật hình sự 2015; Luật Tổ chức chính quyền địa phương 2015... Thực hiện quyền con người là tất yếu trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam Điều 2 Hiến pháp 2013 khẳng định: 1. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. 2. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. Như vậy, có thể hiểu việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam luôn gắn liền với việc xây dựng nhà nước thực sự của dân, do dân, vì dân; mọi quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Ở đó, Nhà nước tôn trọng, thực hiện và bảo vệ quyền con người, tất cả vì hạnh phúc của con người. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam sẽ không thể được xác lập hoàn toàn nếu thiếu vắng việc thực hành các quyền tự do và dân chủ rộng rãi của mọi người dân1. Dân chủ và nhân quyền có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Nếu vi phạm dân chủ thì nhân quyền không bảo đảm và ngược lại. Đồng thời, dân chủ và nhân quyền đều là phương tiện và động lực của sự phát triển xã hội, cũng là động lực cuối cùng của chủ nghĩa xã hội (ở đây ta hiểu dân chủ đi đôi với kỷ cương, tức là dân chủ phải dựa vào nguyên tắc tập trung). 2. Vấn đề đặt ra Giá trị thực tiễn của Hiến pháp 2013 là lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến của Việt Nam, quyền con người được coi là quyền tự nhiên, vốn có mà Nhà nước phải ghi nhận và đảm bảo thực hiện2. So với các bản Hiến pháp trước có sự kế thừa, phát triển, đồng thời nhất quán những nội dung, tinh thần điều ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam là thành viên. Toàn bộ tinh thần của Hiến pháp 2013 là Hiến pháp của con người, vì con người, phục vụ con người. Cách tiếp cận mới về quyền con người rất mạnh mẽ và hiện đại. Hiến pháp 2013 khẳng định quyền con người là quyền đương nhiên và chỉ có thể bị hạn chế bởi 4 lý do: an ninh quốc phòng, trật tự an toàn xã hội, đạo đức, sức khỏe cộng đồng. Tất cả các vấn đề liên quan đến con người đều phải được điều chỉnh bằng luật chứ không dừng ở pháp lệnh. Nhiều luật quan trọng thể chế hóa quyền con người. Thủ tục hành chính, đặc biệt liên quan giữa cơ quan hành chính nhà nước với người dân và doanh nghiệp có bước chuyển biến rõ rệt theo hướng công khai, minh bạch, tạo điều kiện cho người dân và doanh nghiệp như: cơ chế một cửa, một cửa liên thông, cải cách thủ tục thuế, hải quan, công chứng, chứng thực... Tuy nhiên, vấn đề thực hiện nhân quyền ở Việt Nam đang gặp phải một số thách thức sau: Một là, cơ chế về bảo vệ và thúc đẩy thực hiện quyền con người còn thiếu và chưa đồng bộ3. Cơ chế quốc gia đảm bảo nhân quyền là việc các quốc gia phải có các biện pháp bao gồm cả lập pháp, hành pháp và tư pháp. Điều này đòi hỏi các quốc gia phải không ngừng xây dựng và hoàn thiện hệ thống luật pháp, cải cách tư pháp và cải cách hành chính nhằm tôn trọng và đảm bảo tốt quyền con người. Với sự nỗ lực không ngừng trong thời gian qua, vấn đề nhân quyền ở Việt Nam đã có bước phát triển đáng kể. Song, các cơ chế bảo đảm quyền con người vẫn chưa thực sự đầy đủ, đồng bộ. Cụ thể: KHOA HOÏC QUAÛN LYÙ42 T Ạ P C H Í K H O A H Ọ C C Ô N G N G H Ệ V À M Ô I T R Ư Ờ N G Hệ thống pháp luật đảm bảo nhân quyền còn nhiều bất cập. Với nguyên tắc chung “cán bộ công chức chỉ được làm những gì pháp luật cho phép - công dân được phép làm những gì pháp luật không cấm”, thì dường như quyền con người dù ai thực hiện đi chăng nữa cùng cần phải có pháp luật để làm thước đo chuẩn mực chung. Mặc dù, pháp luật chúng ta ngày càng được hoàn thiện và đầy đủ nhưng các hiện tượng phổ biến như: luật chờ nghị định, hoặc chồng chéo, trùng lắp là điều vẫn thường xảy ra. Ví dụ: lần đầu tiên trong Hiến pháp 2013 ghi nhận quyền chuyển đổi giới tính cho cá nhân (là một quyền con người), sau đó được ghi nhận tại Bộ luật Dân sự 2015, song để cá nhân thực hiện được quyền này vẫn chưa đủ cơ sở và thủ tục pháp lý vì thiếu luật chuyển đổi giới tính (hiện nay vẫn đang ở giai đoạn lấy ý kiến góp ý dự thảo). Luật Hộ tịch 2014 chính thức có hiệu lực 01/01/2016 và đưa vào sử dụng nhưng nhiều nội dung đảm bảo quyền con người nói chung, quyền công dân nói riêng cũng chưa có quy định rõ ràng. Chẳng hạn về quyền và nghĩa vụ pháp lý về hộ tịch sau khi thực hiện chuyển đổi giới tính nếu công dân thực hiện vẫn chưa có quy định cụ thể. Hoạt động tuyên truyền và phổ biến giáo dục pháp luật chưa phát huy tối đa hiệu quả nhằm đáp ứng đầy đủ nhu cầu bảo đảm nhân quyền. Đây là một trong những nội dung trọng tâm của công tác cải cách tư pháp được nêu ra tại Nghị quyết số 49/NQ-TW về cải cách tư pháp. Tuy nhiên, thực tế hoạt động phổ biến giáo dục pháp luật hiện nay vẫn còn nhiều nơi mang tính hình thức, chưa đi vào trọng tâm. Một số hình thức tuyên truyền mang tính lỗi thời, không đi kịp với xu thế chung của thời đại vừa kém hiệu quả, vừa tiêu hao ngân sách nhà nước (ví dụ: tuyên truyền pháp luật thông qua tủ sách pháp luật ở xã, phường, thị trấn; hoặc tuyên truyền thông qua hệ thống loa truyền thanh đang tỏ ra nhiều hạn chế và bất cập)... Cải cách hành chính chưa đáp ứng với tình hình mới. Những năm qua, công tác cải cách hành chính luôn được Đảng và Nhà nước ta quan tâm, đạt được nhiều thành tựu quan trọng như: bộ máy của hệ thống chính trị đã giảm đáng kể tình trạng cồng kềnh, quá tải; nhiều văn bản luật được ban hành nhằm thực hiện tốt quyền con người; nhiều thủ tục hành chính được thay đổi theo hướng tích cực, giảm thiểu thời gian cho người dân... Tuy nhiên: “Tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị vẫn còn cồng kềnh, nhiều tầng nấc, nhiều đầu mối; hiệu lực, hiệu quả hoạt động chưa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy, mối quan hệ của một số cơ quan, tổ chức chưa thật rõ, còn chồng chéo, trùng lắp... Việc phân công, phân cấp, phân quyền giữa các ngành, các cấp và trong từng cơ quan, tổ chức chưa hợp lý, mạnh mẽ và đồng bộ; còn tình trạng bao biện, làm thay hoặc bỏ sót nhiệm vụ”.4 Thực tế là chúng ta chưa có một cơ quan nhân quyền quốc gia riêng biệt nào, mà Hiến pháp 2013 chỉ trao trách nhiệm thực thi các vấn đề về nhân quyền cho các cơ quan nhà nước (Quốc hội, Tòa án, Viện kiểm sát). Bên cạnh đó, các tổ chức chính trị xã hội, các cơ quan khoa học tham gia bảo vệ và thúc đẩy nhân quyền. Chưa xây dựng được cơ cấu cán bộ, công chức trong cơ quan hành chính và chưa thực hiện tốt việc đào tạo trước khi bổ nhiệm. Mặt khác, “nhiều cán bộ, đảng viên, trong đó có người đứng đầu chưa thể hiện tính tiên phong, gương mẫu; còn biểu hiện quan liêu, cửa quyền, chưa thực sự sâu sát thực tế, cơ sở. Công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật đảng chưa đủ sức răn đe, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái”5. Để người dân thực hiện được quyền của KHOA HOÏC QUAÛN LYÙ 43 S Ố 0 4 N Ă M 2 0 18mình, cần có sự “giúp đỡ” từ phía các cán bộ, công chức - những người được nhà nước trao quyền trong việc thực thi công vụ. Tuy nhiên, tình trạng suy thoái về phẩm chất đạo đức chính trị của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên đã và đang trở thành rào cản lớn và cực kỳ nguy hiểm dẫn đến vi phạm quyền con người. Thủ tục hành chính vẫn còn nhiều hạn chế dẫn đến vi phạm nhân quyền. Chẳng hạn, nhiều cơ quan, đơn vị chủ trì soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật chưa thực hiện hoặc thực hiện còn hình thức việc lấy ý kiến đánh giá tác động đối với các văn bản. Việc tiếp nhận, xử lý phản ánh, kiến nghị của công dân vẫn chưa đáp ứng được kỳ vọng của người dân... Hai là, đấu tranh chống lại các hoạt động chống phá nhà nước do lợi dụng vấn đề nhân quyền, dân chủ ngày càng diễn ra phức tạp. Đây là một trong những mũi nhọn tấn công thường xuyên của các thế lực thù địch nhằm thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình” đối với Việt Nam. Để thực hiện âm mưu đó, các đối tượng lợi dụng vấn đề tự do tôn giáo, tín ngưỡng để chỉ trích, phê phán các chính sách, pháp luật của Nhà nước Việt Nam. Thậm chí, chúng trắng trợn xuyên tạc rằng “Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo của Việt Nam là tạo ra cở sở pháp lý để đàn áp, bóp nghẹt tôn giáo” hay “Tội phá hoại chính sách đoàn kết” trong Bộ luật Hình sự được thiết kế nhằm đàn áp người dân tộc thiểu số... Lợi dụng vấn đề về tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo, các nhóm, hội được lập ra ngày càng nhiều với những tư tưởng xuyên tác hay còn gọi là tà đạo đã và đang trở thành thách thức lớn trong công tác đấu tranh của Việt Nam. Ví dụ: Thời gian gần đây tà đạo Hội Thánh Đức Chúa Trời Mẹ đã xuất hiện ở nhiều nơi, gieo rắc nhiều nguy cơ tiềm ẩn về việc phủ nhận các giá trị văn hóa, đạo đức của dân tộc Việt Nam, đồng thời làm ảnh hưởng đến sức khỏe cũng như thiệt hại về vật chất của những người được coi là hội viên. Các học thuyết “Xã hội dân sự”, “Xã hội công giáo” được tuyên truyền công khai, trắng trợn gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến tư tưởng của người dân. Không chỉ ở trong nước, đối với quốc tế, Việt Nam trở thành “mối quan tâm đặc biệt” của một số tổ chức như “Theo dõi nhân quyền”, “Ân xá quốc tế” hay “Các nhà báo không biên giới”... Các tổ chức này luôn tiến hành các cuộc họp báo, hội thảo và đưa ra các thông điệp thể hiện Việt Nam không tôn trọng nhân quyền và tiến hành gây sức ép với nước ta. Trong tình hình này, vấn đề kiểm soát thông tin đang đặt ra nhiều thách thức cần có sự can thiệp nghiêm túc của nhà nước. Cuộc cách mạng 4.0 diễn ra hứa hẹn nhiều cơ hội cho sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước nói chung, bảo đảm quyền con người nói riêng, song, việc kiểm soát thông tin sao cho không vi phạm nhân quyền cũng là một áp lực lớn đối với mỗi quốc gia trong đó có Việt Nam6. 3. Giải pháp Thứ nhất, tăng cường công tác tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật. Đối tượng của hoạt động tuyên truyền không chỉ là công dân mà cả trong đội ngũ cán bộ, đảng viên. Chỉ khi người thực thi công vụ nắm rõ những nghĩa vụ và quyền hạn của mình thì họ mới đảm bảo trở thành “người giúp sức” cho công dân của mình thực hiện quyền con người. Nội dung tuyên truyền là các văn bản pháp luật, chủ trương đường lối chính sách của Đảng để quần chúng nhân dân hiểu trên tinh thần: hiểu đúng - hiểu đầy đủ - hiểu chính xác. Nhất quán quan điểm nhân quyền gắn liền với dân chủ, nhưng dân chủ phải đảm bảo yếu tố tập trung, nhân quyền gắn với tự do nhưng sự tự do phải trong khuôn khổ pháp luật, không lợi dụng tự do để xuyên tạc, bóp méo sự lãnh đạo của Đảng. KHOA HOÏC QUAÛN LYÙ44 T Ạ P C H Í K H O A H Ọ C C Ô N G N G H Ệ V À M Ô I T R Ư Ờ N G Thứ hai, tiếp tục thực hiện tốt chiến lược cải cách tư pháp, cải cách hành chính nhà nước. Trong đó tập trung vào vấn đề nâng cao hiệu quả của công tác xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật - là một bước đệm quan trọng tạo hành lang pháp lý cho việc đảm bảo quyền con người. Thực hiện nhất quán đường lối, chủ trương, tinh thần Nghị quyết số 18/NQ-TW “Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả”. Trong đó, chú trọng đến việc chuyên môn hóa cơ quan thực hiện nhân quyền. Trong tình hình hiện nay, việc thành lập mới một cơ quan nhân quyền quốc gia sẽ là bất hợp lý so với tinh thần Nghị quyết số 18/NQ-TW: “Kiên quyết giảm và không thành lập mới các tổ chức trung gian; giải thể hoặc sắp xếp lại các tổ chức hoạt động không hiệu quả. Việc sắp xếp lại tổ chức bộ máy không được tăng thêm đầu mối và biên chế; trường hợp đặc biệt cần tăng thêm đầu mối từ cấp vụ, cục hoặc tương đương trở lên phải có ý kiến của Bộ Chính trị”. Mặc dù vậy, cần khẳng định mục tiêu của việc thành lập cơ quan nhân quyền quốc gia là nhằm bảo đảm tốt hơn quyền con người. Vì vậy, nên thực hiện chuyên môn hóa cơ quan thực hiện nhân quyền theo hướng cơ quan này có nhiệm vụ chủ yếu là: phát hiện những vấn đề về nhân quyền; kiến nghị xây dựng các kế hoạch, chương trình nhằm bảo đảm nhân quyền; đề xuất việc tham gia các điều ước về nhân quyền hay chủ động tiến hành hợp tác quốc tế các vấn đề về nhân quyền. Thứ ba, nâng cao năng lực, trình độ, rèn luyện phẩm chất chính trị của đội ngũ cán bộ công chức theo tinh thần Nghị quyết TW 4 Khóa XII. Chỉ khi người thực thi công vụ toàn tâm, toàn ý thực hiện nhiệm vụ vì lợi ích chung thì khi đó nhân quyền mới có “cơ sở” và “động lực” để đảm bảo. Bởi lẽ, nếu trong hoạt động công vụ vẫn còn sự ích kỷ, chủ nghĩa cá nhân, tham ô, hối lộ... thì chắc chắn nhân quyền mới chỉ dừng lại ở việc “thực hiện” chứ chưa có “đảm bảo”. Mặt khác, quyền con người có được “thỏa mãn” hay không phụ thuộc rất lớn đến hiệu quả của hoạt động thực thi công vụ, nói cách khác là sự phụ thuộc vào năng lực của cán bộ công chức. Điều này đòi hỏi, đội ngũ cán bộ công chức phải thường xuyên rèn luyện, trau dồi kiến thức, kỹ năng nhằm đáp ứng nhiệm vụ trong tình hình mới. Thứ tư, thực hiện tốt chế độ kiểm soát thông tin nhằm hạn chế tối đa việc lợi dụng nhân quyền nhằm đấu tranh chống lại âm mưu “diễn biến hòa bình”. Quyền con người là thành quả phát triển lâu dài của lịch sử xã hội loài người, là một trong những giá trị tinh thần quý báu, cao cả nhất của nên văn minh nhân loại thời nay. Con người là nhân tố quan trọng nhất, nhưng những thách thức đối với việc tôn trọng và thực hiện quyền con người ở mỗi quốc gia đã và đang đòi hỏi phải có sự thành lập, đổi mới và hoàn thiện các cơ chế nhằm thúc đẩy và bảo vệ quyền con người trên cả bình diện quốc gia và khu vực quốc tế. Thực hiện tốt vấn đề nêu trên chính là cách thức và động lực đảm bảo thực hiện quyền con người ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay./. —————— 1. PGS, TS Nguyễn Tất Giáp; PGS, TS Đặng Dũng Chí; PGS, TS Hoàng Văn Nghĩa, “Đảm bảo quyền con người trong điều kiện đẩy mạnh hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay”, NXB Lý luận chính trị, Hà Nội, 2016, tr,26. 2. PGS, TS Nguyễn Tất Giáp; PGS, TS Đặng Dũng Chí; PGS, TS Hoàng Văn Nghĩa, sđd, 2016, tr.542. 3. Tất cả các quốc gia trên thế giới thực hiện việc đảm bảo nhân quyền thông qua hai cơ chế: quốc tế và quốc gia. Trong phạm vi nội dung này, tác giả chỉ đề cập tới cơ chế quốc gia. 4. Nghị quyết số 18/NQ-TW “Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả”. 5. Nghị quyết TW 4 khóa XII 6. Nghị quyết TW4 Khóa XII nhận định:“Chưa chủ động và thiếu giải pháp phù hợp để định hướng thông tin trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng và công nghệ thông tin, mạng xã hội phát triển mạnh mẽ. Việc quản lý thông tin còn lỏng lẻo, thiếu giải pháp đủ mạnh để đấu tranh có hiệu quả với các thông tin sai lệch, phản bác lại những luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch , phản động, phần tử cơ hội và bất mãn chính trị”
Tài liệu liên quan