Tiểu luận Quản lý rủi ro tín dụng tại Ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu (ACB )

Hoạt động tín dụng của Ngân hàng thương mại là một trong những hoạt động truyền thống và quan trọng, hoạt động này ngoài việc mang lại lợi nhuận từ chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất huy động, các chi phí hoạt động . thì cũng là một trong những nhân tố góp phần để thu hút khách hàng sử dụng dịch vụ của ngân hàng. Tuy nhiên, hoạt động này cũng chứa đựng rất nhiều rủi ro, có thể gây tổn thất lớn cho ngân hàng nếu xảy ra việc khách hàng không trả nợ cho ngân hàng. Chỉ cần một khách hàng mất khả năng trả nợ thì bao nhiêu công sức, lợi nhuận của ngân hàng sẽ bị xóa bỏ một cách nhanh chóng, nếu đây là khoản vay lớn thì nó còn có thể ảnh hưởng xấu đến tình hình tài chính và danh tiếng của ngân hàng. Các ngân hàng thương mại Việt Nam đang trong quá trình phát triển mạnh về cả số lượng và quy mô hoạt động, sức cạnh tranh trên thị trường tài chính Việt Nam giữa các ngân hàng ngày càng mạnh mẽ tạo ra áp lực rất lớn cho các ngân hàng thương mại trong quá trình kinh doanh. Trong áp lực cạnh tranh ấy Ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu (ACB ) đã và đang có những bước chuyển mình để có thể cạnh tranh và tồn tại trong môi trường ngày càng khắc nghiệt ấy. Trong bước phát triển của mình ACB luôn coi quản lý rủi ro là một công tác cực kỳ quan trọng và quản lý rủi ro tín dụng là một thành phần cần được lưu ý nhất vì hoạt động tín dụng hàm chứa rất nhiều rủi ro, có thể gây ra tổn thất lớn cho Ngân hàng về tài chính và uy tín. Chính vì vậy, việc xây dựng một hệ thống quản lý tín dụng hiệu quả cho ngân hàng thương mại là một công tác rất thiết thực nhằm giúp cho các ngân hàng có thể có khả năng phòng chống rủi ro trong hoạt động tín dụng mà nguyên nhân của nó ngày càng trở nên đa dạng và khó lường. Thông qua đề tài:”Quản lý rủi ro tín dụng tại Ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu (ACB )” nhóm chúng em em muốn mọi người có thể thấy được cách mà ACB đã áp dụng để quản lý rủi ro tín dụng của Ngân hàng mình như thế nào.

doc21 trang | Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1554 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Quản lý rủi ro tín dụng tại Ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu (ACB ), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU 2 CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU KHÁI QUÁT VỀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN Á CHÂU3 1.1. Sự thành lập Ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu………………………...3 1.2 Kết quả hoạt động kinh doanh trong thời gian qua…………………………….3 CHƯƠNG 2 : RỦI RO TÍN DỤNG TẠI NHTM CỔ PHẦN Á CHÂU……….. …………6 2.1 Tín dụng chung 6 2.2 Rủi ro tín dụng ……………………………………………………………….....7 CHƯƠNG 3: NHỮNG NGUYÊN NHÂN RỦI RO TÍN DỤNG………………………...... 9 3.1 Nguyên nhân rủi ro thuộc về phía Ngân hàng………………………..…………9 3.2 Nguyên nhân rủi ro thuộc về phía khách hàng…………………….………….12 CHƯƠNG 4 : CHÍNH SÁCH VÀ QUY TRÌNH CHO VAY CỦA NHTM CỔ PHẦN Á CHÂU NHẮM HẠN CHẾ RỦI RO TÍN DỤNG …………………………………………16 LỜI MỞ ĐẦU Hoạt động tín dụng của Ngân hàng thương mại là một trong những hoạt động truyền thống và quan trọng, hoạt động này ngoài việc mang lại lợi nhuận từ chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất huy động, các chi phí hoạt động…. thì cũng là một trong những nhân tố góp phần để thu hút khách hàng sử dụng dịch vụ của ngân hàng. Tuy nhiên, hoạt động này cũng chứa đựng rất nhiều rủi ro, có thể gây tổn thất lớn cho ngân hàng nếu xảy ra việc khách hàng không trả nợ cho ngân hàng. Chỉ cần một khách hàng mất khả năng trả nợ thì bao nhiêu công sức, lợi nhuận của ngân hàng sẽ bị xóa bỏ một cách nhanh chóng, nếu đây là khoản vay lớn thì nó còn có thể ảnh hưởng xấu đến tình hình tài chính và danh tiếng của ngân hàng. Các ngân hàng thương mại Việt Nam đang trong quá trình phát triển mạnh về cả số lượng và quy mô hoạt động, sức cạnh tranh trên thị trường tài chính Việt Nam giữa các ngân hàng ngày càng mạnh mẽ tạo ra áp lực rất lớn cho các ngân hàng thương mại trong quá trình kinh doanh. Trong áp lực cạnh tranh ấy Ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu (ACB ) đã và đang có những bước chuyển mình để có thể cạnh tranh và tồn tại trong môi trường ngày càng khắc nghiệt ấy. Trong bước phát triển của mình ACB luôn coi quản lý rủi ro là một công tác cực kỳ quan trọng và quản lý rủi ro tín dụng là một thành phần cần được lưu ý nhất vì hoạt động tín dụng hàm chứa rất nhiều rủi ro, có thể gây ra tổn thất lớn cho Ngân hàng về tài chính và uy tín. Chính vì vậy, việc xây dựng một hệ thống quản lý tín dụng hiệu quả cho ngân hàng thương mại là một công tác rất thiết thực nhằm giúp cho các ngân hàng có thể có khả năng phòng chống rủi ro trong hoạt động tín dụng mà nguyên nhân của nó ngày càng trở nên đa dạng và khó lường. Thông qua đề tài:”Quản lý rủi ro tín dụng tại Ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu (ACB )” nhóm chúng em em muốn mọi người có thể thấy được cách mà ACB đã áp dụng để quản lý rủi ro tín dụng của Ngân hàng mình như thế nào. CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU KHÁI QUÁT VỀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN Á CHÂU 1.1. Sự thành lập Ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu Ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu (ACB) được thành lập theo Giấy phép số 0032/NH-GP do Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cấp ngày 24/4/1993, và Giấy phép số 533/GP-UB do Ủy ban Nhân dân TP.HCM cấp ngày 13/5/1993. Ngày 04/6/1993 ACB chính thức đi vào hoạt động, là một trong những ngân hàng thương mại cổ phần đầu tiên của Việt Nam được thành lập trong bối cảnh đất nước đang chuyển sang nền kinh tế thị trường và trụ sở chính được đặt tại 442 Nguyễn Thị Minh Khai, Quận 3 TP.HCM. 1.2 Kết quả hoạt động kinh doanh trong thời gian qua Sau 17 năm hoạt động, ACB luôn giữ vững sự tăng trưởng mạnh mẽ và ổn định. Và điều này được thể hiện bằng các chỉ số tài chính qua các năm như sau: (Nguồn: Báo cáo thường niên và Báo cáo tài chính hợp nhất của Ngân hàng TMCP Á Châu trong các năm 2007;2008;2009 và báo cáo giữa niên độ vào ngày 31/3/2010) Qua bảng số liệu và biểu đồ trên, chúng ta có thể nhận thấy tình hình kinh doanh khá hiệu quả và ổn định qua các năm. Một ngân hàng thương mại hoạt động hiệu quả là một ngân hàng huy động được nguồn vốn cần thiết cho hoạt động của mình. Trong tình hình cạnh tranh về lãi suất và thị trường có nhiều kênh thu hút vốn (cổ phiếu, trái phiếu,..) như hiện nay thì việc huy động vốn gặp không ít khó khăn, nhưng qua bảng số liệu trên cho thấy khả năng huy động vốn của Ngân hàng Á châu vẫn giữ tốc độ tăng dần qua các năm: Cuối năm 2007 đạt 74.943.072 tỷ đồng, tăng 89,5% so với năm 2006, vượt chỉ tiêu kế hoạch năm 2007 là 46,2% (kế hoạch 2007 là 51.261 tỷ đồng), đến năm 2008 đạt 91.173.530 tỷ đồng, tăng 21,66% so với năm 2007, trong đó huy độngtiền gửi thanh toán và tiết kiệm từ dân cư tăng đáng kể. Sang năm 2009 mặc dù tình hình kinh tế thế giới và trong nước gặp nhiều khó khăn song lượng vốn ngân hàng huy động đạt 134.502.210, tăng 47,52% so với năm 2008, còn trong quý1/2010 đã đạt 139.108.784 tăng 3,42% so với năm 2009 và đang được kỳ vọng sẽ tăng mạnh trong những quý tiếp theo Điều này đã chứng tỏ sự tin tưởng của khách hàng vào ACB ngày càng cao. Nguyên nhân là do ngân hàng đã duy trì nhiều hình thức huy động đa dạng, áp dụng chính sách lãi suất linh hoạt cho từng địa bàn và tăng cường công tác quảng bá hình ảnh. Sau khi đã huy động được nguồn vốn cần thiết, đòi hỏi các ngân hàng thương mại phải tìm được khách hàng để cấp tín dụng nhằm giải phóng nguồn vốn và tìm kiếm lợi nhuận. Trong năm 2008 đạt 34.832.700 tỷ đồng, tăng 9,5% so với năm 2007 và đến năm 2009 đạt 62.357.978tỷ đồng, tăng 79,02% so với năm 2008, sang đến cuối quý 1/2010 đạt 58.436.400 và được kỳ vọng tăng nhanh trong giai đoạn còn lại vì đây là thời gian các doanh nghiệp đang đẩy mạnh hoạt động đi vay để đầu tư phát triển sau giai đoạn khủng hoảng kinh tế . Đây là thành quả của sự năng động tìm kiếm khách hàng, chuyên nghiệp trong phong cách phục vụ và liên tục đa dạng hóa các sản phẩm tín dụng. Tổng tài sản của ACB cao hơn so với các ngân hàng đối thủ cạnh tranh cả về số tuyệt đối và tốc độ tăng trưởng. Cụ thể, tổng tài sản năm 2009 tăng 59,42% so với năm 2008, đạt 167.881.047 tỷ đồng và đến cuối Quý 1/2010 đạt 172.641.301 tỷ đồng, tăng 2,84% so với năm 2009. Quy mô tổng tài sản hiện nay đang mang lại ưu thế cạnh tranh về vốn hoạt động cho ACB so với các ngân hàng thương mại cổ phần khác.Với định hướng chiến lược tăng trưởng cao, quản lý chi phí tốt và duy trì nợ quá hạn ở mức thấp đã giúp nâng cao lợi nhuận của ACB. Lợi nhuận sau thuế năm 2007 đạt 1.760.008 tỷ đồng, và duy trì ổn định trong hai năm 2008 – 2009 (năm 2008 là 2.210.682 tỷ đồng; năm 2009 là 2.201.204 tỷ đồng) và là ngân hàng có mức lợi nhuận trước thuế đứng đầu trong toàn hệ thống ngân hàng thương mại mặc dù xét về mặt quy mô tổng tài sản, ACB chỉ xếp vị trí thứ 5 (sau 4 ngân hàng thương mại Nhà nước). CHƯƠNG 2 : RỦI RO TÍN DỤNG TẠI NHTM CỔ PHẦN Á CHÂU Trước khi đi sâu phân tích tình hình rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Á Châu, chúng ta sẽ xem xét phân tích về cơ cấu cho vay và chất lượng tín dụng trong thời gian qua. 2.1 Tín dụng chung Qua bảng số liệu 1, nhìn chung hoạt động tín dụng của Ngân hàng Á Châu trong thời gian qua tăng trưởng nhanh và khá cao. Tổng dư nợ tín dụng cuối năm 2008 tăng 9,5% so với năm 2007 và nhưng sang năm 2009 thì tỷ lệ này tăng so với năm 2008 là 79,62% một con số ấn tượng của ACB. Nếu phân tích theo thời hạn cho vay, thì tỷ trọng dư nợ tín dụng ngắn hạn cao, năm 2007 chiếm 55% và đến năm 2008 chiếm 46%, sang đến năm 2009 chiếm 57% và trong quý 1/2010 là 50,7% so với tổng dư nợ cho vay. Trong khi đó tỷ trọng dư nợ tín dụng trung và dài hạn 2007 đạt 45% và đến năm 2008 đạt 54%, sang năm 2009 chỉ đạt 43% và trong quý 1/2010 là 49,3%. Bởi vì về khía cạnh thời hạn thì những món vay có thời hạn càng dài thì càng ẩn chứa nhiều rủi ro. Cho nên ngân hàng luôn có xu hướng dịch chuyển tăng tỷ trọng nợ vay ngắn hạn để mau thu hồi, quay vòng vốn nhanh đặc biệt là trong điều kiện kinh tế phát triển nhanh, có nhiều biến động và cạnh tranh như hiện nay. Nếu phân tích theo loại tiền tệ cho vay thì hình thức cho vay bằng đồng Việt Nam chiếm tỷ trọng cao trong tổng dư nợ cho vay năm 2008 chiếm 70%, và đến năm 2009 chiếm 82,6% tổng dư nợ cho vay. Tỷ lệ giải ngân bằng ngoại tệ và vàng năm 2008 chiếm 30% và đến năm 2009 chiếm 17,42% tổng dư nợ cho vay. Cơ cấu dư nợ nếu phân loại theo thành phần kinh tế thì đến cuối năm 2009 cho thấy: chiếm tỷ lệ cao nhất là khách hàng là các công ty cổ phần;công ty trách nhiệm hữu hạn;doanh nghiệp tư nhân chiếm 55%, kế đến là các khách hàng là các cá nhân chiếm 37%, trong khi các doanh nghiệp Nhà Nước chỉ chiếm 7,06%. Danh mục cho vay theo nhóm khách hàng của Ngân hàng Á Châu tiếp tục thay đổi tích cực theo hướng giảm dần tỷ trọng cho vay các doanh nghiệp Nhà nước, tăng dần tỷ trọng cho vay đối với thành phần kinh tế phi Nhà nước nhằm hỗ trợ mạnh nhu cầu về vốn cho sự phát triển. Khách hàng của ngân hàng mở rộng và phát triển đến mọi thành phần kinh tế. Với chính sách hợp lý, Ngân hàng Á Châu đã và đang xây dựng cho mình một đội ngũ khách hàng đa dạng, đông đảo, vững mạnh và gắn bó với ngân hàng. Tình hình dư nợ nhìn chung qua các năm đều tăng cao, sự tăng trưởng này là có cơ sở và gắn liền với các yếu tố thúc đẩy như: nhu cầu vốn từ khách hàng, từ nền kinh tế nói chung và kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng. Và chất lượng tín dụng thì quan trọng hơn việc mở rộng tín dụng. Phần phân tích chỉ tiêu dư nợ tín dụng ở trên cho thấy sự tăng trưởng khá cao của chỉ tiêu này trong thời gian qua. Tuy nhiên, hoạt động tín dụng có hiệu quả hay không lại phụ thuộc rất lớn vào chất lượng tín dụng. 2.2 Rủi ro tín dụng Dù đã đạt được những kết quả đáng khích lệ trong hoạt động tín dụng, nhưng trên thực tế, vấn đề nợ quá hạn cũng là một vấn đề mà Ngân hàng Á Châu cần phải quan tâm vì đây là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng. (Nguồn: Báo cáo thường niên 2009 và Báo cáo tài chính hợp nhất giữa niên độ tại ngày 31/03/2010 của Ngân hàng TMCP Á Châu) Theo bảng số liệu trên, ta thấy tỷ lệ nợ quá hạn chiếm một tỷ lệ ngày càng tăng qua các năm 2008, năm 2009 và đặc biệt là tỷ lệ nợ quá hạn trên 360 ngày tăng đột biến trong quý 1/2010. Phần lớn, các khoản nợ quá hạn đều có khả năng thu hồi là do được đảm bảo bằng tài sản có tính khả mại cao, chủ yếu là bất động sản. Ngày 31/12/2008 dự phòng cho các khoản cho vay khách hàng đạt 227.865 triệu đồng, tăng 69,4% so với năm 2007. Ngày 31/12/2009 dự phòng cho các khoản cho vay khách hàng đạt 500.698 triệu đồng, tăng 119,73% so với cùng kỳ năm 2008. Đồng thời, tỷ lệ an toàn vốn của Ngân hàng Á Châu tính đến ngày 31/12/2009 là 9,73% cao hơn gần 1,8% so với quy định của Ngân Hàng Nhà Nước mặc dù mức độ rủi ro trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng nhìn chung đều tăng. Điều này chứng tỏ rằng Ngân hàng Á Châu đã có chính sách kiểm soát chất lượng tín dụng tốt. Trong tương lai sắp tới, để có thể xử lý nợ xấu tốt hơn thì việc tìm hiểu những nguyên nhân và đề ra những giải pháp quản lý rủi ro tín dụng hiệu quả hơn là điều rất cần thiết. CHƯƠNG 3: NHỮNG NGUYÊN NHÂN RỦI RO TÍN DỤNG 3.1 Nguyên nhân rủi ro thuộc về phía Ngân hàng Những Tổ chức tín dụng được quản lý tốt thường thực hiện phân tích các khoản cho vay đã gây ra tổn thất cho ngân hàng nhằm rút ra bài học kinh nghiệm. Để phân tích chính xác nguyên nhân gây ra tổn thất, Tổ chức tín dụng phải thu thập đầy đủ thông tin về chính sách cho vay, chứng từ cho vay, cán bộ tín dụng giải quyết hồ sơ, tình hình biến động của khách hàng, quá trình kiểm tra giám sát vốn vay,…Sau đây là những trường hợp sai sót trong quy trình cấp tín dụng: 3.1.1 Thông tin tín dụng không đầy đủ và chính xác Thông tin tín dụng đầy đủ và chính xác là yếu tố quyết định để đánh giá khả năng trả nợ và thiện chí trả nợ của người vay, đồng thời là cơ sở để mở rộng tín dụng. Trong hồ sơ tín dụng của khách hàng, Tổ chức tín dụng cần phải có các thông tin rõ ràng, đặc biệt là các báo cáo tài chính như: bảng cân đối kế toán, báo cáo thu nhập, báo cáo lưu chuyển tiền tệ,… Và thông tin tín dụng cũng cần minh chứng cụ thể mục đích, yêu cầu vay, kế hoạch dự định và nguồn chi trả, báo cáo tiến độ và giám sát. Trong quá trình cấp tín dụng, rủi ro phát sinh phần lớn là do thiếu thông tin khi thẩm định và khi ra quyết định cho vay; từ đó dẫn đến những quyết định cho vay sai lầm. Cụ thể như là: - Nhân viên A/O thiếu năng lực thẩm định, lười biếng thu thập thông tin về khách hàng và đôi khi hoàn toàn dựa trên tài liệu do khách hàng cung cấp, thiếu sự xác minh lại thông tin và thiếu sự phân tích tính hợp lý của thông tin nên tờ trình thẩm định khách hàng được trình bày rất suôn sẻ theo các khuôn mẫu có sẵn và chứa đựng các thông tin có lợi cho khách hàng. - Về phía người xét duyệt cho vay, do khối lượng hồ sơ vay cần được xét duyệt quá nhiều nên không có nhiều thời gian đọc kỹ tờ trình thẩm định, do cảm thấy an tâm khi đọc những thông tin về tài sản đảm bảo, do quá tin tưởng vào những thông tin mà nhân viên A/O đưa ra và sự kiểm tra của cấp dưới mà quyết định xét duyệt cho vay. Đồng thời, trong điều kiện nền kinh tế Việt Nam, do hoạt động kiểm toán chưa phát triển và tính minh bạch về tài chính còn nhiều hạn chế, bên cạnh đó, do công tác kế toán và báo cáo tài chính chưa thực hiện đầy đủ theo quy định của pháp luật nên các Tổ chức tín dụng thường gặp nhiều khó khăn về tính chính xác của thông tin do khách hàng cung cấp. 3.1.2 Lạm dụng tài sản thế chấp Do thiếu thông tin trung thực về khách hàng nên ngân hàng luôn xem nặng phần tài sản thế chấp như là chỗ dựa cuối cùng để phòng chống rủi ro tín dụng. Tuy nhiên, dần dần ngân hàng trở nên dựa dẫm quá nhiều vào tài sản thế chấp thay vì đánh giá tính khả thi của phương án kinh doanh nên sẽ dễ dẫn đến tâm lý ỷ lại và khi ấy sẽ dễ mắc sai lầm chủ quan. Nhiều nhân viên A/O, ngay cả những người xét duyệt cho vay quan niệm rằng có tài sản đảm bảo là an toàn cho khoản vay. Điều này rất nguy hiểm vì khoản vay cần được trả nợ bằng dòng tiền tạo ra bởi phương án sản xuất kinh doanh chứ không phải bằng tiền bán tài sản thế chấp. Tài sản thế chấp chỉ là sự đảm bảo cuối cùng khi phương án kinh doanh của khách hàng gặp rủi ro ngoài dự kiến mà thôi. Hơn nữa, nếu rủi ro xảy ra thì ngân hàng cũng sẽ gặp những khó khăn trong quá trình xử lý tài sản thế chấp để thu nợ, chẳng hạn như là: nếu không thỏa thuận được việc xử lý tài sản với chủ tài sản thì ngân hàng không thể tự xử lý được, việc bán tài sản đảm bảo cũng đòi hỏi ngân hàng thực hiện hàng loạt các thủ tục rườm rà, thực hiện chậm và thậm chí giá trị tài sản thanh lý sau cùng thu về có thể thấp hơn giá trị nợ phải thu hồi,… 3.1.3 Thiếu kiểm tra giám sát vốn vay Trong thời gian cho vay, Tổ chức tín dụng cần thực hiện đầy đủ việc kiểm tra giám sát khoản vay để có thể nắm được những thay đổi trong hoạt động kinh doanh của khách hàng, việc sử dụng vốn vay của khách hàng có đúng mục đích hay không? tài sản đảm bảo có được quản lý tốt hay không? Để bảo đảm được khả năng hoàn trả nợ vay của khách hàng. Vì vậy, đây là trách nhiệm quan trọng nhất của cán bộ tín dụng nói riêng và của ngân hàng nói chung. Tuy nhiên, trong thời gian qua, Ngân hàng Á Châu chưa thực hiện tốt công tác này, nguyên nhân là: - Do chạy theo thành tích “chỉ tiêu dư nợ” nên cán bộ tín dụng ưu tiên giải quyết các hồ sơ mới và do tâm lý ngại gây phiền hà cho khách hàng nên cán bộ tín dụng chưa quan tâm đúng mức đến công tác kiểm tra giám sát sau khi cho vay. - Mặc dù Ngân hàng Á Châu có quy định rõ về việc kiểm tra giám sát sau khi cho vay nhưng vẫn còn lỏng lẻo trong việc kiểm soát sự tuân thủ của nhân viên tín dụng, vì thế các nhân viên tín dụng đã không thực hiện đầy đủ quy định này hoặc nếu có thực hiện thì cũng chỉ mang tính hình thức, đối phó bằng cách gửi biên bản kiểm tra cho khách hàng ký mà thực tế lại không kiểm tra tại đơn vị hoặc chỉ làm biên bản kiểm tra khi có sự kiểm tra của kiểm toán nội bộ của ngân hàng và khi có sự thanh tra của Ngân hàng Nhà nước nên dễ dẫn đến tình trạng khách hàng sử dụng vốn sai mục đích hoặc gặp khó khăn về tài chính mà vẫn tiếp tục giải ngân cho khách hàng trong hạn mức tín dụng đã cấp trước đó, do vậy việc kiểm tra giám sát sẽ không hiệu quả vì thiếu thông tin về những sự cố của khách hàng vay nên những khoản vay lúc khởi đầu vẫn tốt nhưng sau đó trở thành các khoản vay có vấn đề và thua lỗ. 3.1.4 Sự lỏng lẻo trong công tác kiểm soát nội bộ ngân hàng Kiểm soát nội bộ ngân hàng là tổng thể hệ thống các văn bản và các quy định về Ngân hàng, các cơ chế kiểm soát được cài đặt trong tất cả các nghiệp vụ thuộc hệ điều hành của ngân hàng, hệ thống thông tin báo cáo để kiểm soát hoạt động quản lý, điều hành, tác nghiệp và đảm bảo tính tuân thủ nhằm hạn chế và kiểm soát rủi ro có thể phát sinh trong quy trình nghiệp vụ và hoạt động của ngân hàng. Kiểm soát nội bộ có điểm mạnh hơn thanh tra Ngân hàng Nhà nước ở tính thời gian vì nó nhanh chóng, kịp thời ngay khi vừa phát sinh vấn đề và tính sâu sát của người kiểm tra viên, do việc kiểm tra được thực hiện thường xuyên cùng với công việc kinh doanh. Kiểm soát nội bộ cần phải được xem như hệ thống “thắng” của cỗ xe tín dụng. Cỗ xe càng lao đi với vận tốc lớn thì hệ thống thắng này phải càng an toàn, hiệu quả thì mới tránh cho cỗ xe khỏi đi vào những ngã rẽ rủi ro vốn luôn luôn tồn tại thường trực trên con đường đi tới. Nếu làm tốt, công tác này sẽ trở thành lá chắn thứ nhất đảm bảo an toàn cho ngân hàng. Tuy nhiên, hoạt động kiểm soát nội bộ của ngân hàng Á Châu trong thời gian qua chưa theo kịp với tốc độ tăng trưởng tín dụng. Công tác này chưa thực hiện đúng nhiệm vụ của nó mà mang nặng tính hình thức. Các báo cáo kiểm soát nội bộ thường chỉ là tổng hợp, phân tích, thống kê các số liệu từ báo cáo của bộ phận tín dụng nên chưa thể hiện được tính độc lập, tính kiểm tra và cảnh báo của mình. Nguyên nhân là do lãnh đạo Ngân hàng Á Châu chưa thực sự chú trọng đến công tác này và do thiếu nhân sự có đủ trình độ chuyên môn để thực hiện. Nhân sự của Ban Kiểm soát nội bộ thường được tuyển dụng từ nguồn cán bộ tín dụng nhưng do tính chất va chạm và nhạy cảm của công việc này nên các cán bộ tín dụng thường từ chối thuyên chuyển công tác. Còn nguồn nhân sự từ ngành kiểm toán thì thường không am hiểu sâu về công tác tín dụng nên gặp khó khăn trong công việc. Do đó, kiểm soát nội bộ của ngân hàng khó có thể có những nhận định đúng về thực trạng tín dụng của ngân hàng. 3.1.5 Năng lực của đội ngũ cán bộ tín dụng còn hạn chế Hiện nay, hàng loạt các ngân hàng cổ phần ra đời, cạnh tranh giữa các ngân hàng ngày càng gia tăng kéo theo là cạnh tranh nguồn nhân lực. Để mở rộng mạng lưới hoạt động phục vụ cho tốc độ tăng trưởng nhanh, ngân hàng Á Châu cũng đã có chính sách thu hút lao động. Tuy nhiên, việc tuyển dụng lao động đa phần là từ nguồn cán bộ mới ra trường nên chưa đủ kinh nghiệm để thực hiện việc thẩm định cho vay, chưa nhận thức được đầy đủ về yêu cầu và tính phức tạp của công tác tín dụng trong môi trường mới. Họ chưa đáp ứng được những đòi hỏi của cơ chế thị trường, cũng như khả năng và trình độ đánh giá đúng hiệu quả và mức độ rủi ro của phương án, dự án còn yếu kém. Không nhận biết được những dấu hiệu rủi ro đôi khi xuất hiện ngay từ giai đoạn tiếp xúc khách hàng. Chưa chấp hành đầy đủ quy trình, quy chế nghiệp vụ tín dụng đã ban hành, công tác thẩm định không kỹ về các mặt. Bên cạnh đó, do khối lượng công việc ngày càng quá tải dẫn đến nguy cơ không kiểm soát được toàn diện và đầy đủ tình hình khách hàng mà mình đang phụ trách. Ngoài ra, tại Ngân hàng Á Châu, số nhân viên nghỉ việc bình quân hàng năm là 3%, mà trong đó đến hơn phân nữa là nhân viên tín dụng do đó áp lực công việc cho các nhân viên tín dụng còn lại là rất nặng nề. Ngoài nguyên nhân về năng lực chuyên môn thì vấn đề đạo đức của nhân viên tín dụng cũng là nguyên nhân gây rủi ro cho hoạt động tín dụng. Dù nhân viên tín dụng, những người liên quan đến công tác thẩm định, cho vay đã rất tận tâm nhưng cũng không thể tránh được hoàn toàn rủi ro. Vì một nguyên nhân khách quan là không phải khách hàng nào vay vốn ngân hàng cũng kinh doanh có hiệu quả. Và ở đâu chú trọng đến công tác tín dụng, luôn tuân thủ các quy trình từ xét duyệt cho vay, kiểm tra giám sát việc sử dụng tiền vay, thu hồi nợ, xử lý nợ,..luôn nêu cao phẩm chất đạo đức, tinh thần trách nhiệm của cán bộ thì ở đó, chấ
Tài liệu liên quan