Tiểu luận Thực trạng hệ thống thuế và các kiến nghị cải cách hệ thống thuế ở Việt Nam

Luật Thuế TNCN vừa được ban hành đã đảm bảo được nguyên tắc công bằng và khả năng nộp thuế, thể hiện ở chỗ: Người có thu nhập cao hơn thì nộp thuế nhiều hơn, người có thu nhập như nhau nhưng có hoàn cảnh khó khăn hơn thì nộp thuế ít hơn, mỗi cá nhân dù có thu nhập từ các nguồn khác nhau đều được điều chỉnh thống nhất trong một chính sách thuế; người có thu nhập thấp chưa phải nộp thuế. Ngoài ra, đối tượng nộp thuế có bổ sung thêm cá nhân có thu nhập chịu thuế từ đầu tư vốn, chuyển nhượng vốn, chuyển nhượng tài sản, thu nhập từ thừa kế, quà tặng. Thu nhập chịu thuế được mở rộng đối với các khoản như: thu nhập từ đầu tư vốn; thu nhập từ chuyển nhượng vốn, chuyển nhượng bất động sản trong đó có chuyển nhượng quyền sở hữu nhà ở hoặc quyền sử dụng đất ở; chuyển nhượng quyền thuê đất, thuế mặt nước; một số khoản thu nhập từ thừa kế, quà tặng; thu nhập từ trúng thưởng trong các hình thức cá cược, casino.

doc17 trang | Chia sẻ: maiphuong | Lượt xem: 2317 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Thực trạng hệ thống thuế và các kiến nghị cải cách hệ thống thuế ở Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
THỰC TRẠNG HỆ THỐNG THUẾ Ở VIỆT NAM Cơ cấu hệ thống thuế ở Việt Nam Các sắc thuế hiện hành ở Việt Nam Stt Sắc thuế Ngày ban hành Hiệu lực từ  ngày 1 Thuế sử dụng đất nông nghiệp 10.7.1993 1.1.1994 2 Thuế nhà, đất 19.5.1994 1.1.1995 3 Thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao 23.07.2004 01.07.2004 4 Thuế chuyển quyền sử dụng đất 22.6.1994 1.7.1994 5 Thuế tài nguyên 16.4.1998 1.6.1998 6 Thuế giá trị gia tăng 09.04.2007 04.06.2007 7 Thuế thu nhập doanh nghiệp 14.02.2007 01.01.2007 8 Thuế tiêu thụ đặc biệt 29.11.2005 01.01.2006 9 Thuế xuất khẩu, nhập khẩu 15.12.2005 01.01.2006 2000 2002 2003 2004 2005 2006 TỔNG THU 100.0 100.0 100.0 100.0 100.0 100.0 Thu trong nước (Không kể thu từ dầu thô) 50.95 51.29 51.67 54.77 52.49 52.03 Thu từ doanh nghiệp Nhà nước 21.7 20.24 18.88 16.85 17.12 16.58 Thu từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài 5.22 5.87 6.53 7.91 8.36 9.25 Thu từ khu vực công, thương nghiệp, dịch vụ ngoài quốc doanh 6.39 6.27 6.8 6.95 7.42 7.9 Thuế sử dụng đất nông nghiệp 1.96 0.62 0.1 0.07 0.06 0.04 Thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao 2.02 1.89 1.94 1.84 1.85 1.85 Lệ phí trước bạ 1.03 1.07 1.19 1.37 1.23 1.2 Thu xổ số kiến thiết 2.17 2.45 2.4 2.39 2.32 2.2 Thu phí xăng dầu 2.41 2.42 2.1 1.88 1.73 1.42 Thu phí, lệ phí 2.99 2.44 2.15 2.19 1.84 1.78 Các khoản thu về nhà đất 3.11 4.43 6.93 9.15 7.78 7.35 Các khoản thu khác 1.95 3.59 2.65 4.18 2.79 2.45 Thu từ dầu thô 25.93 21.4 24.15 25.43 29.16 29.82 Thu từ hải quan 20.89 25.49 22.23 18.29 16.7 15.32 Thuế xuất. nhập khẩu. thuế tiêu thụ đặc biệt hàng nhập khẩu; Thu chênh lệch giá hàng nhập khẩu 14.95 17.83 14.12 11.34 10.36 9.4 Thuế giá trị gia tăng hàng nhập khẩu 5.94 7.66 8.1 6.94 6.33 5.92 Thu viện trợ không hoàn lại 2.23 1.82 1.95 1.51 1.66 2.83 Nhận xét hệ thống thuế ở Việt Nam Nhận xét về chính sách thuế Ưu điểm Chính sách thuế đã bắt đầu phát huy được tác dụng quản lý, điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Hệ thống thuế được áp dụng thống nhất đã tạo ra môi trường bình đẳng về pháp luật cho sự cạnh tranh lành mạnh giữa các thành phần kinh tế, góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Chính sách thuế từng bước tạo ra sự công bằng về nghĩa vụ nộp thuế giữa các đối tượng khác nhau, góp phần thúc đẩy đầu tư vốn, cải tiến công nghệ, tăng năng suất lao động, giảm giá thành … Thuế thu nhập cá nhân Luật Thuế TNCN vừa được ban hành đã đảm bảo được nguyên tắc công bằng và khả năng nộp thuế, thể hiện ở chỗ: Người có thu nhập cao hơn thì nộp thuế nhiều hơn, người có thu nhập như nhau nhưng có hoàn cảnh khó khăn hơn thì nộp thuế ít hơn, mỗi cá nhân dù có thu nhập từ các nguồn khác nhau đều được điều chỉnh thống nhất trong một chính sách thuế; người có thu nhập thấp chưa phải nộp thuế. Ngoài ra, đối tượng nộp thuế có bổ sung thêm cá nhân có thu nhập chịu thuế từ đầu tư vốn, chuyển nhượng vốn, chuyển nhượng tài sản, thu nhập từ thừa kế, quà tặng. Thu nhập chịu thuế được mở rộng đối với các khoản như: thu nhập từ đầu tư vốn; thu nhập từ chuyển nhượng vốn, chuyển nhượng bất động sản trong đó có chuyển nhượng quyền sở hữu nhà ở hoặc quyền sử dụng đất ở; chuyển nhượng quyền thuê đất, thuế mặt nước; một số khoản thu nhập từ thừa kế, quà tặng; thu nhập từ trúng thưởng trong các hình thức cá cược, casino. Thuế xuất, nhập khẩu và thuế GTGT Chính sách thuế đã góp phần khuyến khích xuất khẩu. Hàng hóa xuất khẩu không phải chịu thuế giá trị gia tăng, đồng thời được hoàn lại toàn bộ số thuế giá trị gia tăng đã nộp ở đầu vào. Thuế sử dụng đất nông nghiệp (thuế SDĐNN) Nghị quyết của Quốc hội về miễn, giảm thuế SDĐNN từ năm 2003 đến năm 2010 là một chủ trương lớn được đa số cử tri cả nước tán thành. Thực sự, với người nông dân mức sống của họ thấp hơn nhiều so với mặt bằng chung của cả nước. Chủ trương của Đảng và Nhà nước về miễn, giảm thuế SDĐNN lần này là Nhà nước đầu tư trực tiếp phần thuế cho hộ nông dân nhằm giúp họ có điều kiện đầu tư mở rộng sản xuất, ổn định cuộc sống. Ngoài ra, việc miễn giảm thuế cho họ còn mang một ý nghĩa xã hội rất lớn, góp phần đẩy nhanh tốc độ xóa đói giảm nghèo, nâng cao phần nào đời sống nông thôn, hạn chế tốc độ phân cấp giàu nghèo giữa thành thị và nông thôn hiện nay. Mặt khác, số thuế từ SDĐNN chiếm tỷ trọng không lớn so với tổng thu ngân sách và Chính phủ cũng đã có lộ trình điều chỉnh, giảm dần từ vài năm trước, nên không ảnh hưởng gì lớn đến việc cân đối ngân sách của các địa phương. Theo nội dung của Nghị quyết, các đối tượng được miễn thuế SDĐNN bao gồm: Hộ nông dân sử dụng diện tích trong hạn mức quy định tại Luật Đất đai, kể cả hộ nông dân đó được cho, tặng, thừa kế, nhận chuyển nhượng đất để sản xuất nông nghiệp, mà tổng diện tích của hộ đó chưa vượt hạn điền. Hộ nông trường xã viên, xã viên HTXNN nhận đất giao khoán của doanh nghiệp, HTX để sản xuất nông nghiệp. Hộ nông dân đưa ruộng đất vào thành lập các HTXNN theo Luật HTX. Toàn bộ diện tích đất sản xuất nông nghiệp của hộ được xác định là hộ nghèo theo quy định chuẩn hộ nghèo của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội và tổ chức, cá nhân có đất sản xuất nông nghiệp ở các xã đặc biệt khó khăn theo Chương trình 135 của Chính phủ. Các đối tượng được giảm thuế bao gồm: Đất của các tổ chức, doanh nghiệp đang quản lý và trực tiếp sản xuất chưa thực hiện việc giao khoán cho các hộ nông trường viên. Đất của các tổ chức, tổ chức kinh tế-xã hội, các đơn vị hành chính sự nghiệp, đơn vị lực lượng vũ trang đang sử dụng đất hoặc đấu thầu giao đất cho các tổ chức, cá nhân khác sản xuất và thu lại bằng tiền hoặc hiện vật. Đất của hộ gia đình có sản xuất nông nghiệp nhưng không phải là hộ nông dân. Diện tích đất sản xuất nông nghiệp vượt hạn điền của các hộ nông dân và các hộ khác. Các hộ được giảm thuế nêu trên, nếu trong năm sản xuất gặp thiên tai gây thiệt hại mùa màng cũng sẽ được xem xét giảm thuế do thiên tai. Bất cập, hạn chế Thuế GTGT Bên cạnh những kết quả đạt được, Luật thuế GTGT hiện hành còn bộc lộ một số hạn chế cần được tiếp tục hoàn thiện để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong tình hình mới. Một là, về diện hàng hoá, dịch vụ không chịu thuế GTGT: Luật thuế GTGT hiện hành quy định 28 nhóm hàng hoá, dịch vụ không chịu thuế GTGT. Quy định này là phù hợp với điều kiện thực tiễn của nước ta thời gian qua, tuy nhiên trong quá trình thực hiện và cùng với quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, một số hàng hoá, dịch vụ nếu tiếp tục áp dụng không chịu thuế GTGT sẽ không còn  phù hợp do không đảm bảo tính liên hoàn trong việc khấu trừ thuế đầu vào, đầu ra của doanh nghiệp. Do đó, cần rà soát để chuyển sang đối tượng chịu thuế nhằm đảm bảo tính liên hoàn của thuế GTGT và tạo thuận lợi hơn cho cơ sở sản xuất, kinh doanh. Bên cạnh đó cũng cần  bổ sung cụ thể hoá các dịch vụ tài chính mới chưa được quy định trong Luật, như: dịch vụ hoán đổi lãi suất, hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng tương lai, quyền chọn mua, bán ngoại tệ,...(gọi chung là các dịch vụ tài chính phái sinh) và các giao dịch chuyển nhượng vốn để đảm bảo cơ sở pháp lý trong quá trình thực hiện và phù hợp với thông lệ quốc tế. Hai là, về thuế suất thuế GTGT Năm 1997, khi ban hành Luật thuế GTGT, ngoài thuế suất 0%, còn có 3  mức thuế suất: 5%, 10 % và 20%.  Từ ngày 1 tháng 4 năm 2004; áp dụng Luật sửa đổi bổ sung: bỏ thuế suất 20%, chỉ còn 2 thuế 5% và 10%. Trong đó 5 % là mức thuế suất ưu đãi, được áp dụng đối với hàng hoá, dịch vụ là đầu vào của sản xuất nông nghiệp hoặc phục vụ nhu cầu thiết yếu của người dân. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện, trước những khó khăn của nền kinh tế, diện áp dụng mức thuế suất 5% cũng được mở rộng và chưa theo đúng nguyên tắc nêu trên. Từ đó dẫn đến doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh một số hàng hoá, dịch vụ ở mức thuế suất này không những không phải nộp thuế mà còn được hoàn thuế từ ngân sách Nhà nước, do đó, cần thiết rà soát lại diện áp dụng mức thuế suất 5% để phù hợp với thực tiễn. Mặt khác, tiêu chí phân định ranh giới áp dụng mức thuế suất 5% và 10% chưa rõ ràng: vừa theo tên hàng hoá, dịch vụ, vừa theo công dụng hàng hoá, dịch vụ, vừa theo tính chất của hàng hoá, dịch vụ, dẫn đến việc áp dụng mức thuế suất không thống nhất, nảy sinh vướng mắc trong quá trình thực hiện. Ví dụ: sản phẩm cơ khí tiêu dùng áp dụng mức thuế suất 10%, sản phẩm cơ khí là tư liệu sản xuất áp dụng mức thuế suất 5%, trên thực tế có những sản phẩm cơ khí không thể phân định được rõ ràng là dùng cho tiêu dùng hay dùng cho sản xuất. Ba là, về điều kiện được khấu trừ, được hoàn thuế Luật thuế GTGT hiện hành quy định căn cứ khấu trừ, hoàn thuế GTGT đầu vào là hoá đơn GTGT mua hàng hoá, dịch vụ. Thực tiễn quản lý thuế thời gian qua cho thấy quy định nêu trên chưa đầy đủ, chưa chặt chẽ, dễ bị lợi dụng khấu trừ khống hoặc hoàn thuế khống thông qua việc sử dụng hoá đơn ghi chép không trung thực với thực tế giao dịch và các loại hoá đơn bất hợp pháp khác để gian lận trong khấu trừ, làm giảm số thuế GTGT phải nộp hoặc tăng số thuế GTGT được hoàn khống rút tiền ngân sách, gây bất bình đẳng về nghĩa vụ thuế giữa các đối tượng nộp thuế, ảnh hưởng đến môi trường đầu tư. Trong thời gian vừa qua đã xuất hiện một loại tội phạm kinh tế mới - tội phạm mua, bán, sử dụng hoá đơn bất hợp pháp để chiếm đoạt tiền thuế GTGT của Nhà nước như một số đối tượng đã lợi dụng sự thông thoáng của Luật Doanh nghiệp và quy định về điều kiện được khấu trừ thuế, được hoàn thuế nêu trên để thành lập doanh nghiệp nhằm mục đích mua, bán hoá đơn kiếm lời bất chính Bốn là, về hình thức văn bản. Thuế GTGT được thể hiện tại 3 văn bản Luật khác nhau là Luật thuế GTGT năm 1997, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế GTGT năm 2003, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế tiêu thụ đặc biệt và Luật thuế GTGT năm 2005. Mặt khác, năm 2006, Luật Quản lý thuế (đã được Quốc hội thông qua, có hiệu lực từ 01/7/2007) đã quy định các nội dung về quản lý thuế như đăng ký, kê khai, nộp thuế, xử lý vi phạm để thay thế cho các quy định về quản lý thuế trong các luật, pháp lệnh thuế đã được ban hành trước đây, trong đó có Luật thuế GTGT. Với nhiều văn bản Luật cùng quy định về thuế GTGT nên chưa tạo thuận lợi cho việc tra cứu, áp dụng pháp luật. Thuế xuất, nhập khẩu Cách thức áp mã số thuế tuỳ tiện, miễn, giảm thuế vô lối cho doanh nghiệp này mà không cho doanh nghiệp khác... không chỉ làm nhà nước thất thu lớn mà còn làm méo mó môi trường kinh doanh. Điều nguy hiểm là những chính sách hướng dẫn không rõ ràng, không nhất quán từ cấp bộ cho tới cấp tổng cục xuống các cục, chi cục hải quan sẽ tạo ra những kẽ hở lớn cho cán bộ, công chức ngành này nhũng nhiễu. Việc áp dụng giá tối thiểu tuy dễ thực hiện, đảm bảo chống gian lận về giá, nhưng lại không phù hợp với thông lệ quốc tế. Nhiều trường hợp không chính xác, mang tính áp đặt của Nhà nước nên có tình trạng lạm thu hoặc thất thu. Luật hiện hành chỉ quy định hình thức thu thuế theo tỷ lệ (ví dụ thu 30% giá trị/kg táo) chưa quy định hình thức thu thuế theo mức thu tuyệt đối (ví dụ thu 5.000 đ/kg táo). Hình thức thu thuế theo tỷ lệ tuy có ưu điểm là dễ áp dụng, nhưng trong trường hợp đối tượng nộp thuế khai thấp giá trị tính thuế, nhưng cơ quan hải quan không có đủ cơ sở để xác định chính xác trị giá nhập khẩu mà người mua phải thanh toán cho người bán Thuế chuyển quyền sử dụng đất Thuế chuyển quyền sử dụng đất là 4% đối với đất ở, đất xây dựng công trình và 2% đối với đất sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản, làm muối Thuế chuyển quyền sử dụng đất hiện nay quy định là quá cao, khiến người dân chấp nhận mua bán trao tay, không qua đăng ký, làm cho Nhà nước thất thu thuế và không quản lý được việc sử dụng nhà đất. Ví dụ: một hộ gia đình mua 1 ngôi nhà có diện tích đất 50 m2, với giá trung bình hiện nay ở Hà Nội khoảng 30 triệu đồng/m2, chủ nhân phải đóng thuế CQSDĐ là 60 triệu đồng. Trong thực tế hiện nay, việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa cá nhân với nhau, đa số là thông qua hợp đồng chuyển nhượng được các cơ quan có thẩm quyền xác nhận, hình thức trao tiền qua tay mà không hề sử dụng đến tờ hóa đơn, nên đã xảy ra trường hợp là giá đất chuyển nhượng thực tế ghi trên hợp đồng chuyển nhượng có thể cao hơn hoặc thấp hơn giá đất mà UBND tỉnh quy định tại thời điểm trước bạ. Do vậy, trong trường hợp này thì cơ quan thuế tính thu theo giá thực tế ghi trên hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất hay là giá UBND tỉnh quy định. Từ thực tế này dẫn đến việc gia tăng và tồn tại chủ yếu hoạt động mua bán “trao tay” hoặc lập hai hợp đồng mua bán, trong đó có một hợp đồng giả giảm giá bán để trốn thuế. Còn đối với khu vực đất nông thôn lại diễn ra tình trạng mua bán bằng giấy viết tay, không qua giao dịch để tránh nộp thuế. Chính sách ban hành hiện nay chưa nhất quán, cùng một thời điểm thu như nhau, cùng một diện tích đất, vị trí đất cũng như nhau mà căn cứ để tính thu khác nhau là không phù hợp với thực tế. Ví dụ: Người nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất có sử dụng hóa đơn, giá thực tế ghi trên hóa đơn cao hơn giá UBND tỉnh quy định, thì tính lệ phí trước bạ là giá ghi trên hóa đơn, còn người chuyển nhượng quyền sử dụng đất phải nộp thuế chuyển quyền sử dụng đất theo giá đất UBND tỉnh quy định. Thuế chuyển quyền sử dụng đất mang tính “cào bằng”, bất kỳ trường hợp sang nhượng nào, dù có thu lợi nhuận hay không cũng đều phải đóng thuế chuyển quyền sử dụng đất. Đối với doanh nghiệp kinh doanh bất động sản vừa phải nộp thuế chuyển quyền sử dụng đất, lại vừa nộp thuế thu nhập doanh nghiệp (thu nhập từ chuyển nhượng). Thuế sử dụng đất nông nghiệp Đối tượng được miễn thuế sử dụng toàn bộ diện tích đất nông nghiệp là các hộ nghèo (căn cứ quy định chuẩn của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội); và tổ chức, hộ gia đình, cá nhân có đất sản xuất nông nghiệp tại các xã đặc biệt khó khăn thuộc chương trình phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn miền núi, vùng xa. Nhưng thực tế cho thấy, lợi dụng quan điểm vì người nghèo này của Nhà nước, mà một số nơi đã trục lợi. Thực tế người dân nghèo không được miễn giảm gì cả, mà số tiền thuế miễn giảm cũng chẳng được đưa vào ngân sách mà lại chảy vào túi một số kẻ chức trách. Đây là thực tế đau lòng mà Đảng, Nhà nước ta đang ra sức loại bỏ Chúng ta vẫn phải duy trì một bộ máy thu thuế cồng kềnh, quan liêu, trong khi tiền thu được chỉ có 75 tỷ đồng/năm. Thuế nhà, đất: Công thức tính thuế nhà, đất: Thuế nhà, đất = Diện tích đất x Mức thuế sử dụng đất nông nghiệp x Bội số thuế sử dụng đất nông nghiệp x Hệ số phân bổ theo tầng Thuế nhà đất vẫn được tính dựa trên cơ sở là thuế đất nông nghiệp để nhân lên từ 1 đến 32 lần tùy theo vị trí là một điều bất hợp lý và thiếu sức thuyết phục. Điều này đã dẫn đến việc có rất nhiều cá nhân và tổ chức ở các đô thị phản đối. Họ cho rằng họ ở “trên phố” và không làm ruộng vậy thì không có lý do gì để lấy thuế đất nông nghiệp rồi nhân lên 32 lần để đánh thuế. Khi thực hiện chuyển từ đánh thuế theo hiện vật sang đánh thuế theo thị trường thì chúng ta lại không có cơ sở để xác định giá trị tài sản. Đối với nhà đất mà người bán có nhu cầu thay đổi chỗ ở và người mua có nhu cầu mua để sử dụng thì người mua và người bán thường tự thỏa thuận ghi giá trị mua bán trên hợp đồng chính thức (hợp đồng qua công chứng) thấp hơn giá trị thực để trốn thuế (mặc dù Nhà nước có quy định là giá trị hợp đồng thấp hơn giá trị quy định để tính thuế thì thu theo giá nhà nước, ngược lại thì thu theo giá trị hợp đồng). Đối với nhà, đất mà nhà đầu tư thứ cấp kinh doanh (giao dịch thứ cấp, có yếu tố đầu cơ) thường giao dịch qua tay với nhau, họ chỉ cần xác nhận giao dịch hoặc chuyển tên qua chủ đầu tư, giá trị giao dịch là do hai bên mua bán thỏa thuận, Nhà nước không quản lý được giá trị giao dịch để thu thuế. Chưa có một hệ thống chuyên sâu về định giá tài sản, do đó không định giá đúng giá trị nhà, đất dẫn đến việc thu thuế chưa đảm bảo được sự công bằng cho mọi người dân. Hạng đất và mức thuế chênh lệch giữa các hạng đất không được xác định rõ ràng dễ dẫn đến tiêu cực trong đóng thuế và thu thuế bởi đa số người dân không biết đất mình đang sử dụng thuộc hạng đất nào; chỉ biết được số thuế phải đóng theo thông báo mà “ông phường, xã” đưa tới. Hiện nay, việc thu thuế, nộp thuế nhà, đất được thực hiện căn cứ vào Pháp lệnh về thuế nhà, đất được Hội đồng Nhà nước thông qua ngày 31/7/1992 và Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh về thuế nhà, đất được Ủy ban Thường vụ Quốc hội thông qua ngày 19/5/1994. Tuy tên gọi là pháp lệnh về thuế nhà, đất nhưng thực ra chỉ qui định thuế đất, còn thuế nhà thì chưa thu. Thuế tiêu thụ đặc biệt Đối tượng không thuộc diện chịu thuế TTĐB quá rộng. Điều đáng lưu ý là qua thực tế thi hành Luật Thuế TTĐB đã phát sinh việc lợi dụng các quy định này để trốn thuế. Ví dụ: máy bay, du thuyền… Mức thuế suất thuế tiêu thụ đặc biệt còn thấp, chưa đủ tác dụng điều tiết, hạn chế tiêu dùng đối với hầu hết các mặt hàng, dịch vụ thuộc diện xa xỉ, như: rượu, bia, ô tô, mô tô phân khối lớn, máy bay, du thuyền, kinh doanh vũ trường, massage, karaoke, casino, sân golf... Thuế thu nhập cá nhân Luật thuế thu nhập cá nhân số 04/2007/QH12 ngày 21 tháng 11 năm 2007 và có hiệu lực vào ngày 01 tháng 01 năm 2009. Từ lúc ban hành đến hiệu lực hơn 1 năm nên có thể nói mức giảm trừ gia cảnh cho mỗi người nộp thuế là 4 triệu đồng/tháng là chưa hợp lý. Bởi mức lương tối thiểu đã được tăng và những ảnh hưởng của lạm phát, khủng hoảng kinh tế trong thời gian gần đây cho thấy mức giảm trừ chưa phù hợp. Trong giai đoạn chứng khoán thế giới và trong nước gặp nhiều biến động, đầu tư chứng khoán vẫn còn tương đối mới mẻ tại Việt Nam việc đánh thuế thu nhập cá nhân vào lĩnh vực này là quá sớm. Thuế tài nguyên Thuế tài nguyên vẫn chưa đạt được mục tiêu yêu cầu đặt ra là góp phần hạn chế việc khai thác tài nguyên nguyên khai quá mức, khuyến khích đầu tư chế biến quặng tinh nhằm bảo vệ nguồn tài nguyên. Có thể ngân sách nhà nước cũng đang chịu thất thoát nhiều từ các loại thuế ưu đãi khác dành cho các doanh nghiệp khai khoáng. Nghiên cứu của viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) gần đây cho biết, ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp đối với doanh nghiệp FDI thuộc lĩnh vực khai khoáng là 279,6 tỉ đồng năm 2001, 1.569 tỉ đồng năm 2004 và 700 tỉ đồng năm 2006. Điều này đồng nghĩa với việc ngân sách thất thu một khoản tương đương Nếu cộng thêm thuế và phí bảo vệ môi trường, giá bán của các loại khoáng sản sẽ bị đẩy lên mức cao hơn khá nhiều. Tuy nhiên, nếu so sánh với mức thuế tài nguyên của Trung Quốc, thì mức thuế mới này vẫn còn thấp hơn. Thuế tài nguyên của Việt Nam hiện đang thấp hơn nhiều nước trên thế giới. Thuế khai thác vàng của Việt Nam ở mức từ 2 – 6%, thấp hơn nhiều so với Úc là 2 – 15%; thuế khai thác than dao động từ 1 – 3%, thấp hơn so với mức 7,5% ở Úc, 13,5% ở Indonesia và 4% ở Nga. Thuế thu nhập doanh nghiệp Hệ thống thuế nước ta dành rất nhiều chính sách ưu đãi thuế nhằm thu hút đầu tư. Tuy nhiên, những bất cập trong miễn giảm thuế đã vô tình tạo ra những kẻ hở cho một số doanh nghiệp lợi dụng để trốn thuế, gây thất thu thuế cho Nhà nước. Chẳng hạn một số địa phương được “đặc cách” ưu đãi quá nhiều, trong khi thật sự những địa bàn đó không còn quá khó khăn. Có thể kể đến là Long An, Phú Thọ, Bình Phước, Trà Vinh …Qui định ưu đãi liên tục được duy trì suốt từ những năm 1999 đến nay. Trong khi thực sự nhiều huyện, xã ở các địa bàn này đã phát triển nhanh và thay đổi rất nhiều. Chính điều này đã gây ra tình trạng nhiều doanh nghiệp lách luật bằng cách thành lập trụ sở ở các tỉnh này để lấy ưu đãi miễn giảm thuế trong nhiều năm trong khi thực sự họ chỉ hoạt động ở các thành phố lớn Ngoài ra còn có thể kể đến những qui định ưu đãi không kín kẽ như ưu đãi đầu tư mở rộng, thành lập mới, ưu đãi về ngành nghề đã khiến cho các văn bản pháp luật ưu đãi của Việt Nam trở nên hỗn tạp, tạo ra kẽ hở cho nhiều doanh nghiệp lợi dụng Nhận xét về tổ chức bộ máy thu thuế Về hệ thống quản lý thu thuế Hiện nay hệ thống quản lý thuế của nước ta được tổ
Tài liệu liên quan