Tội phạm ở pháp luật phong kiến Việt Nam

Cùng với xu thế hội nhập của đất nước trên trường quốc tế, việc nghiên cứu pháp luật Việt Nam hiện thời là vấn đề hết sức quan trọng, các quan niệm về tội phạm luôn là một trong những điểm mấu chốt, quan trọng nhất trong pháp luật hình sự, một trong những ngành luật giữ vai trò cốt yếu trong việc đảm bảo an ninh trật tự, an toàn xã hội và bình yên quốc gia. Đất nước ta đang trên bước đường hòa nhập toàn cầu hóa, xã hội biến đổi ngày càng nhanh chóng khiến cho tầm quan trọng và yêu cầu đối với pháp luật ngày càng nâng cao. Chính vì thế mà nhu cầu cần thiết đặt ra là phải nghiên cứu, sửa đổi luật pháp cho phù hợp với tình hình và hoàn cảnh đất nước đang phát triển theo xu hướng tích cực. Một trong những cách thức nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung hữu hiệu nhất đối với pháp luật Việt Nam hiện nay chính là nghiên cứu các quy định của pháp luật cổ xưa, từ đó rút ra những kinh nghiệm, những nét đặc sắc, độc đáo riêng để áp dụng đối với pháp luật hiện hành. Chính vì lẽ đó mà chúng ta cần thiết phải nghiên cứu kĩ vấn đề tội phạm và các nhóm tội phạm cụ thể trong pháp luật phong kiến Việt Nam để có thênm những nhìn nhận sâu sắc và mới mẻ, đánh giá đúng và trúng vấn đề. Đặc biệt quan trong hơn là chúng ta cần nhìn nhận vấn đề trên nhiều khía cạnh và đưa ra những nhận xét đúng đắn nhất về nó. Hãy cùng đi tìm hiểu nhóm tội thập ác của pháp luật phong kiến Việt Nam.

doc5 trang | Chia sẻ: hongden | Lượt xem: 1496 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tội phạm ở pháp luật phong kiến Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
I, MỞ ĐẦU VẤN ĐỀ Cùng với xu thế hội nhập của đất nước trên trường quốc tế, việc nghiên cứu pháp luật Việt Nam hiện thời là vấn đề hết sức quan trọng, các quan niệm về tội phạm luôn là một trong những điểm mấu chốt, quan trọng nhất trong pháp luật hình sự, một trong những ngành luật giữ vai trò cốt yếu trong việc đảm bảo an ninh trật tự, an toàn xã hội và bình yên quốc gia. Đất nước ta đang trên bước đường hòa nhập toàn cầu hóa, xã hội biến đổi ngày càng nhanh chóng khiến cho tầm quan trọng và yêu cầu đối với pháp luật ngày càng nâng cao. Chính vì thế mà nhu cầu cần thiết đặt ra là phải nghiên cứu, sửa đổi luật pháp cho phù hợp với tình hình và hoàn cảnh đất nước đang phát triển theo xu hướng tích cực. Một trong những cách thức nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung hữu hiệu nhất đối với pháp luật Việt Nam hiện nay chính là nghiên cứu các quy định của pháp luật cổ xưa, từ đó rút ra những kinh nghiệm, những nét đặc sắc, độc đáo riêng để áp dụng đối với pháp luật hiện hành. Chính vì lẽ đó mà chúng ta cần thiết phải nghiên cứu kĩ vấn đề tội phạm và các nhóm tội phạm cụ thể trong pháp luật phong kiến Việt Nam để có thênm những nhìn nhận sâu sắc và mới mẻ, đánh giá đúng và trúng vấn đề. Đặc biệt quan trong hơn là chúng ta cần nhìn nhận vấn đề trên nhiều khía cạnh và đưa ra những nhận xét đúng đắn nhất về nó. Hãy cùng đi tìm hiểu nhóm tội thập ác của pháp luật phong kiến Việt Nam. II, PHÂN TÍCH VẤN ĐỀ 1,Tội phạm ở pháp luật phong kiến Việt Nam Quan niệm về tội phạm : Tại luật hình sự Việt Nam hiện hành có quy định rằng: tội phạm là những hành vi của con người gây nên mức độ nguy hiểm cho xã hội. Trái lại, đối với xã hội phong kiến trước đây, quan niệm về tội phạm được hiểu theo nghĩa rất rộng. Tuy không có những định nghĩa cụ thể về tội phạm là gì nhưng trong Bộ Quốc Triều Hình Luật (QTHL) thời Lê đã có những quan niệm về tội phạm là việc xâm hại đến sự an toàn, bất khả xâm phạm của chế độ quân chủ triều Lê, mà trước hết là sự an toàn của nhà vua và hoàng cung (nhóm tội Thập ác), xâm phạm trật tự kỷ cương, đạo đức xã hội theo quan điểm Nho giáo, xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, tài sản của con người. Đến thời nhà Nguyễn, trong bộ Hoàng Việt Luật Lệ cũng không có những định nghĩa chung về tôi phạm mà chỉ đi thẳng vào các qui định cụ thể đối với từng loại tội. Nhìn chung pháp luật Phong kiến chưa có những qui định, định nghĩa về tòng phạm nhưng ta cũng có thể hiểu được quan niệm tội phạm của pháp luật phong kiến là tất cả những hành vi vi phạm không chỉ trong lĩnh vực hình sự mà trong cả các lĩnh vực dân sự, hành chính, thuế khóa, ruộng đất và kể cả trong quan hệ đạo đức. 2, Các phương pháp phân loại tội phạm thời phong kiến: Nếu như việc không đưa ra các định nghĩa rõ ràng về tội phạm là một hạn chế đối với cổ luật thì các nhà làm luật phong kiến lại rất tiến bộ trong việc đặt ra các phương pháp phân loại tội phạm. Pháp luật phong kiến đã đưa ra rất nhiều quan điểm phân loại tội phạm và có nhiều quan điểm phân loại tội phạm đó còn được lưu giữ và áp dụng đến ngày nay: Phân loại tội phạm dựa theo ý chí người phạm tội; Phân loại tội phạm theo nhóm tội thập ác và ngoài thập ác; Phân loại tội phạm dựa theo loại hình phạt; Phân loại tội phạm dựa vào khách thể của tội phạm; Phân loại tội phạm theo giai đoạn thực hiện tội phạm; Phân loại tội phạm đồng phạm. Vậy chúng ta hãy cùng đi tìm hiểu và đưa ra những nhận xét thông qua hình thức phân loại tội phạm tiêu biểu nhất của pháp luật phong kiến. Đó là hình thức phân loại theo nhóm tội thập ác và ngoài thập ác 3, Nhóm tội thập ác và ngoài thập ác a, Khái quát về 2 nhóm tội: thập ác và ngoài thập ác     Do ảnh hưởng từ luật pháp Trung Hoa, nên tất cả các triều đại phong kiến việt Nam đều tiến hành phân chia tội phạm thành hai nhóm tội là: nhóm tội thập ác và nhóm tội ngoài thập ác. Đây thực ra không phải là cách phân loại trực tiếp tội phạm mà chỉ là kết quả gián tiếp của việc liệt kê 10 loại tội được xem là nguy hiểm nhất đối với chế độ quân chủ cũng như đối với trật tự, kỉ cương, đạo đức xã hội được thừa nhận trong xã hội phong kiến thời bấy giờ. Mười loại tội phạm này đều được quy định tại Điều 2 của Quốc Triều hình luật và Hoàng Việt luật lệ với tên gọi là mười tội ác (thập ác tội). Với việc quy định này, tội phạm đã được phân thành hai loại tội: Loại tội thập ác và loại tội thường.  Loại tội thập ác (là loại tội điển hình, thể hiện quan điểm Nho giáo) bao gồm 10 nhóm tội khác nhau – những tội đặc biệt nguy hại đối với vương quyền và trật tự xã hội gia đình phong kiến. Đó là: Tội mưu phản, tội mưu đại nghịch, tội mưu chống đối, tội ác nghịch, tội bất đạo, tội đại bất kính, tội bất hiếu, tội bất mục, tội bất nghĩa, tội nội loạn. Trong đó có bốn tội bảo vệ vương quyền (mưu phản, mưu đại nghịch, mưu chống đối, đại bất kính), 5 tội bảo vệ quan hệ hôn nhân gia đình phong kiến (ác nghịch, bất hiếu, bất mục, bất nghĩa, nội loạn) và một tội trừng trị những hành vi phạm tội vô cùng dã man, tàn ác xâm hại nghiêm trọng một trong những tiêu chí đạo đức hàng đầu của đạo Nho (tội bất đạo). Có thể thấy rằng, thập ác tội là chế định thể hiện rõ nhất bản chất giai cấp của pháp luật phong kiến, trật tự xã hội gia đình phong kiến. Loại tội thường rất đa dạng và phong phú tùy theo khách thể bị hành vi tội phạm tác động. Đó có thể là: các tội xâm hại an toàn thân thể của vua, xâm phạm sự an toàn, yên tĩnh, nghi lễ của cung phủ, các tội xâm phạm trật tự công cộng, trật tự quản lí hành chính, thể thức lễ nghi triều đình, các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe của con người hoặc các tội xâm phạm an ninh quốc gia, trật tự an toàn chế độ xã hội phong kiến, các tội phạm quân sự, các tội xâm phạm chế độ hôn nhân-gia đình phong kiến và các tội tình dục và các tội xâm phạm hoạt động tư pháp (theo Quốc Triều hình luật). Nhưng theo Hoàng Việt luật lệ, các nhóm tội phạm được phân loại mang tính khái quát hơn trong Quốc Triều hình luật, gồm 7 nhóm tội bình thường khác: nhóm tội vi phạm chế độ quan chức quản lí hành chính, các vi phạm về dân sự, các vi phạm về tế tự, các tội phạm về quân sự lưu thông, các vi phạm về tư pháp xét xử, các vi phạm về xây dựng, đê điều. b, Nhận xét về nhóm tôi thập ác Tội thập ác là những tội xâm hại đến vương quyền của nhà vua, đến trật tự xã hội của Nho giáo. Bởi vậy, dưới cái nhìn của nhà làm luật phong kiến, thập ác là những trọng tội nguy hiểm nhất, và luôn đi kèm với đó là những hình phạt nghiêm khắc và tàn bạo nhất: " Những kẻ mưu làm phản, mưu làm việc đại nghịch thì xử tội chém bêu đầu, kẻ tòng phạm và thân đảng biết việc ấy đều phải tội chém, vợ con điền sản đều bị tịch thu làm của công... " ( Điều 411 Quốc triều hình luật ). Thập ác tội bao gồm:  1. Mưu phản: lật đổ nền cai trị, thống trị của nhà vua, làm sụp đổ giang sơn, xã tắc. 2. Mưu đại nghịch: phá đền đài, lăng tẩm, cung điện của nhà vua.  3. Mưu bạn: phản bội, bán đứng Tổ quốc, đi theo giặc.  4. Ác nghịch: mưu giết hại hay đánh đập ông bà, cha mẹ, tôn thuộc.  5. Bất đạo: vô cớ giết hại nhiều người, cắt tay chân người sống, chế thuốc độc bùa mê, tàn ác, hung bạo...  6. Đại bất kính: lấy trộm các đồ tế trong lăng tẩm, các vật dụng của vua, làm giả ấn vua...  7. Bất hiếu: cáo giác hay chửi rủa ông bà, bố mẹ hay ông bà, bố mẹ chồng. Không phụng dưỡng bố mẹ, tự ý bỏ nhà, tự ý phân chia tài sản, cưới xin khi có tang cha mẹ, vui chơi trong khi tang chế, được tin bố mẹ, ông bà chết không chịu tang hoặc phát tang giả dối.  8. Bất mục: mưu giết hay bán các thân thuộc (cho đến ngũ đại), đánh hoặc cáo giác chồng hay các tôn thuộc (cho đến tam đại).  9. Bất nghĩa: dân giết quan lại sở tại, lính tốt giết quan chỉ huy, học trò giết thầy dạy, vợ không để tang chồng, ăn chơi và tái giá.  10. Nội loạn: tức là tội loạn luân (thông dâm với thân thuộc hay với các thiếp của bố hay của ông).     Cách phân loại tội phạm theo tính chất nghiêm trọng của quan hệ xã hội bị tội phạm xâm hại trong các bộ luật phong kiến việt Nam có ý nghĩa rất quan trọng lúc bấy giờ. Bởi: Nó là căn cứ để các bộ luật quy định việc áp dụng các nguyên tắc chung. Với nhóm tội thập ác thì không được áp dụng: Nguyên tắc chiếu cố, Nguyên tắc chuộc tội bằng tiền Nguyên tắc miễn giảm trách nhiệm hình sự Do tính chất nguy hiểm đặc biệt cho xã hội của nhóm tội thập ác nên các quy định trong các bộ luật phong kiến thể hiện chính sách, thái độ trừng trị rất nghiêm khắc của Nhà nước với người phạm tội trong các tội này: như ngoài các hình phạt rất nghiêm khắc quy định cho từng loại tội ác, người phạm tội còn phải chịu một loạt các hạn chế bất lợi khác như không được hưởng chế độ bát nghị (Điều 3 – Hoàng Việt luật lệ), không được chuộc tội, không được miễn chịu hình phạt khi có ân xá như khi phạm các tội thường khác. Ví dụ: Điều 15 – Hoàng Việt luật lệ quy định: “ phàm phạm thập ác dù gặp dịp ân xá cũng không được tha”. Hay Điều 4 – Quốc Triều hình luật đã quy định việc miễn giảm trách nhiệm hình sự cho người thuộc diện bát nghị (tám loại người được giảm tội) nhưng đã loại trừ không cho người phạm tội thập ác được hưởng các chế độ miễn giảm trách nhiệm hình sự như khi phạm các tội thường: “Nếu phạm tội thập ác thì không theo luật này”, hoặc Điều 11, Điều 14, Điều 18 – Quốc Triều hình luật. Phân loại tội phạm theo tầm quan trọng của quan hệ xã hội bị tội phạm xâm hại, có ý nghĩa vô cùng lớn trong việc bảo vệ những chẩn mực phong kiến, những quan hệ xã hội cơ bản như: quan hệ Vua – tôi, quan hệ trong gia đình, dòng họ. Và với việc phân loại nhóm tội thập ác và nhóm tội thường, đặc biệt đối với những hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, bất nghĩa với ông bà, cha mẹ, thầy côcó giá trị tham khảo và cần được tiếp tục nghiên cứu, kế thừa nhất là trong điều kiện đạo đức xã hội đã và đang xuống cấp nghiêm trọng hiện nay. Vì thế, nó góp phần xây dựng và hoàn thiện pháp luật Hình sự hiện nay của Nhà nước ta. III, TỔNG KẾT Xuyên suốt quá trình hình thành, phát triển và suy vong của các triều đại phong kiến Việt Nam, các nhà làm luật phong kiến Việt Nam đã gây dựng nên rất nhiều bộ luật nổi tiếng như Quốc triều hình luật, Hoàng việt luật lệ... Hầu hết các bộ luật này đều tổng hợp về nhiều ngành luật và được trình bày dưới hình thức các qui phạm pháp luật hình sự. Các bộ luật này đã có nhiều quan điểm tiến bộ trong việc phân loại các tội phạm ra từng loại tội phạm cụ thể , với các mức độ hình phạt khác nhau nhưng các bộ luật này đều còn những thiếu sót trong việc đưa ra khái niệm về các loại tội phạm đó. Khái niệm tội phạm được sử dụng rộng rãi hơn rất nhiều so với pháp luật hiện hành, mọi vi phạm đều bị coi là tội phạm và đều phải bị áp dụng những chế tài hình sự: dân sự, hành chính, thuế khoá, ruộng đất..., thậm chí có khi đó chỉ là những vi phạm trên lĩnh vực đạo đức đơn thuần. Sự khác biệt này có lẽ xuất phát từ sự chênh lệch về trình độ kỹ thuật lập pháp, từ sự khác nhau về nền tảng kinh tế - xã hội đương thời: Vì đối với xã hội phong kiến Nho giáo là nền tảng cho trật tự xã hội nên vấn đề bảo vệ đạo đức Nho giáo luôn là nhiệm vụ hàng đầu của pháp luật. Và đặc biệt quan trọng hơn là pháp luật phong kiến đã đánh dấu và tạo ra nét đặc trưng rất riêng trong hệ thống pháp luật đương thời của mình đó là xác định rõ nhóm tội thập ác và cách xử lí cũng như điều chỉnh những hành vi sai lệch của mỗi cá nhân trong xã hội cũ. Chính những điều này đã tạo cho pháp luật Việt Nam hiện hành những nền tảng, nền móng vững chắc để xây dựng một hệ thông pháp luật vững bền song song với nhiều sự thay đổi và biến động của đất nước.
Tài liệu liên quan