Xây dựng đề thi trắc nghiệm môn du lịch Việt Nam trong đào tạo cử nhân Việt Nam học cho học viên quân sự nước ngoài tại Học viện Khoa học Quân sự

Môn Du lịch Việt Nam (Các vùng, tuyến điểm) trong đào tạo Cử nhân Việt Nam học tại Học viện Khoa học Quân sự là một môn học có dung lượng kiến thức rộng, đối tượng dạy học là học viên quân sự nước ngoài. Môn học này sẽ cung cấp cho người học những kiến thức cơ bản về non nước Việt Nam ở các vùng miền. Bởi vậy, để góp phần đánh giá đúng chất lượng học tập của môn học Du lịch Việt Nam, bài viết sẽ tập trung nghiên cứu việc xây dựng chất lượng đề thi trắc nghiệm trong thi kết thúc học phần môn học Du lịch Việt Nam.

pdf7 trang | Chia sẻ: hadohap | Lượt xem: 366 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Xây dựng đề thi trắc nghiệm môn du lịch Việt Nam trong đào tạo cử nhân Việt Nam học cho học viên quân sự nước ngoài tại Học viện Khoa học Quân sự, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
95KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 18 (3/2019) TRAO ĐỔI v 1. MỞ ĐẦU Bất kỳ quá trình giáo dục nào mà một con người tham gia cũng nhằm tạo ra những biến đổi nhất định trong con người đó. “Muốn biết những biến đổi đó xảy ra ở mức độ nào thì phải đánh giá hành vi của người đó trong một tình huống nhất định. Điều đó cho phép chúng ta xác định, một là mục tiêu giáo dục được đặt ra có phù hợp và có đạt được hay không, hai là việc giảng dạy có thành công, học viên có tiến bộ hay không?” (Lâm Quang Thiệp, 2008, tr.14). Những năm gần đây, nhằm nâng cao chất lượng đào tạo ở các trường đại học, Bộ Giáo dục TRẦN THỊ HUYỀN NGA* *Học viện Khoa học Quân sự,  tranthihuyennga76@gmail.com Ngày nhận bài: 31/10/2018; ngày sửa chữa: 03/01/2019; ngày duyệt đăng: 25/02/2019 XÂY DỰNG ĐỀ THI TRẮC NGHIỆM MÔN DU LỊCH VIỆT NAM TRONG ĐÀO TẠO CỬ NHÂN VIỆT NAM HỌC CHO HỌC VIÊN QUÂN SỰ NƯỚC NGOÀI TẠI HỌC VIỆN KHOA HỌC QUÂN SỰ TÓM TẮT Môn Du lịch Việt Nam (Các vùng, tuyến điểm) trong đào tạo Cử nhân Việt Nam học tại Học viện Khoa học Quân sự là một môn học có dung lượng kiến thức rộng, đối tượng dạy học là học viên quân sự nước ngoài. Môn học này sẽ cung cấp cho người học những kiến thức cơ bản về non nước Việt Nam ở các vùng miền. Bởi vậy, để góp phần đánh giá đúng chất lượng học tập của môn học Du lịch Việt Nam, bài viết sẽ tập trung nghiên cứu việc xây dựng chất lượng đề thi trắc nghiệm trong thi kết thúc học phần môn học Du lịch Việt Nam. Từ khóa: dung lượng kiến thức, nâng cao chất lượng, trắc nghiệm và Đào tạo cùng các trường đại học đã tổ chức các cuộc hội thảo, trao đổi về việc cải tiến hệ thống các phương pháp kiểm tra, đánh giá của sinh viên trong nước và trên thế giới, các khoá huấn luyện và cung cấp những hiểu biết cơ bản về chất lượng giáo dục và các phương pháp trắc nghiệm khách quan. Ở Việt Nam, thí điểm thi tuyển sinh đại học bằng phương pháp trắc nghiệm khách quan đã được tổ chức đầu tiên tại trường Đại học Đà Lạt tháng 7/1996 và đã thành công. Hiện nay, hình thức thi trắc nghiệm được áp dụng cho các môn thi tốt nghiệp và đại học, riêng môn Văn thi tự luận. 96 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 18 (3/2019) v TRAO ĐỔI Với các học viên quân sự nước ngoài đang theo học chuyên ngành Việt Nam học tại Học viện Khoa học Quân sự thì môn học Du lịch Việt Nam (Các vùng, tuyến điểm) nằm trong khối kiến thức chuyên ngành. Bởi vậy, kiến thức của môn học này góp một phần quan trọng trong quá trình đào tạo Cử nhân Việt Nam học tại Học viện Khoa học Quân sự, cung cấp cho người học những kiến thức cơ bản về vẻ đẹp của đất nước và con người Việt Nam. Từ đó, người học có thể chủ động nâng cao sự hiểu biết của mình trên lĩnh vực này. 2. VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 2.1. Thực trạng của đề thi tự luận và trắc nghiệm Về bản chất, thi tự luận (trắc nghiệm tự luận) hay thi trắc nghiệm (trắc nghiệm khách quan) đều là trắc nghiệm (test), và đều là những phương tiện đánh giá kết quả giáo dục của người dạy đối với người học, kiểm tra trình độ kiến thức hiện tại của người học có đáp ứng được mục tiêu giáo dục đã đề ra hay không, có khả năng học tiếp lên cao hay không, Sự phân biệt giữa thi tự luận và thi trắc nghiệm khách quan là sự phân biệt có tính hình thức, chứ không có nghĩa là cứ trắc nghiệm khách quan là đảm bảo được tính “khách quan”. Xét ở một khía cạnh nào đó, cả thi tự luận lẫn thi trắc nghiệm khách quan ít nhiều vẫn có tính chủ quan. “Thi tự luận là bài thi truyền thống mà ở đó người ta đưa ra những yêu cầu xác định buộc người học phải trả lời các yêu cầu đó bằng chính kiến thức và sự diễn giải của mình” (Lâm Quang Thiệp, 2008, tr.28). Vì thế, thi tự luận có điểm mạnh là: đánh giá được quá trình tư duy đi đến kết quả; phát huy được tối đa kỹ năng, kiến thức của người học; giúp người học có được kỹ năng trình bày vấn đề,; nhưng “điểm yếu của trắc nghiệm tự luận lại là: mất nhiều thời gian làm bài thi; kiến thức thi không bao quát hết được nội dung dạy học; có tính chủ quan trong việc đánh giá; dễ đưa đến học lệch, học tủ,” (Lâm Quang Thiệp, 2008, tr.28). Trong khi đó, thi trắc nghiệm là cách mà người ta đưa ra các yêu cầu với những phương án trả lời khác nhau và đòi hỏi người học phải chọn một đáp án đúng. Vì vậy mà thi trắc nghiệm có những điểm mạnh quan trọng là: không gây áp lực thi cử đến người học – một vấn đề đang bị xã hội lên án gay gắt; kiến thức kiểm tra bao quát được nội dung học, có cơ sở và đảm bảo được tính hệ thống từ thấp đến cao; khách quan hóa được quá trình đánh giá; dễ áp dụng và có tính thống nhất cao; có tính phân hoá trình độ mạnh; tiết kiệm và gọn nhẹ;... Tuy vậy, thi trắc nghiệm cũng có hạn chế là: chỉ đánh giá được kết quả chứ không đánh giá được quá trình tư duy đi đến kết quả; tính chất lựa chọn ngẫu nhiên hay phỏng đoán ít nhiều vẫn có thể xảy ra trong quá trình làm bài. Nếu thi tự luận đòi hỏi người học phải tư duy rồi viết ra kết quả, phải tự tìm kiếm câu trả lời và trình bày câu trả lời đó sao cho đủ ý. Còn thi trắc nghiệm đòi hỏi người học đọc, suy nghĩ rồi lựa chọn đáp án ngắn gọn sao cho phù hợp. “Chất lượng và điểm bài thi tự luận phụ thuộc khá nhiều vào ý kiến chủ quan người chấm, còn chất lượng và điểm bài trắc nghiệm phụ thuộc vào chính người học” (Lâm Quang Thiệp, 2008, tr.34). Tất cả những điểm mạnh và yếu này của thi trắc nghiệm khách quan đúng với các môn học, mặc dù ở mỗi môn học có thể khác nhau chút ít. Chính vì những ưu điểm như vậy mà hiện nay hình thức thi trắc nghiệm đã và đang trở thành một xu hướng phổ biến, có mặt ở nhiều nước vốn có nền giáo dục phát triển như Mỹ, Thuỵ Điển, Hàn Quốc và cả Việt Nam, dù rằng sự tranh cãi giữa hai hình thức thi tự luận và trắc nghiệm vẫn còn tồn tại. Nhiều bài thi trắc nghiệm vẫn đang được sử dụng rộng rãi và đem lại hiệu quả tốt. 2.2. Cơ sở thực tiễn Môn Du lịch Việt Nam (Các vùng, tuyến điểm) trong đào tạo Cử nhân Việt Nam học tại Học viện Khoa học Quân sự là một môn học có dung lượng kiến thức rộng, đối tượng dạy học là học viên quân sự nước ngoài. Môn học này sẽ cung cấp cho người học những kiến thức cơ bản về non nước Việt Nam ở các vùng miền như tài nguyên du lịch tự nhiên, tài nguyên du lịch nhân văn của các vùng, cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất – kỹ thuật phục vụ du lịch, các loại hình du lịch đặc trưng và các địa bàn hoạt động du lịch chủ yếu, các tuyến du lịch chính của vùng. Bên cạnh đó, môn học còn giới thiệu cho 97KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 18 (3/2019) TRAO ĐỔI v người học về những danh lam thắng cảnh của các tỉnh, thành phố từng vùng, miền, cả nước,... Với những đặc điểm trên, để đánh giá đúng chất lượng học tập của môn học Du lịch Việt Nam, việc biên soạn hệ thống câu hỏi trắc nghiệm trong thi kết thúc học phần là rất cần thiết. Hình thức thi trắc nghiệm sẽ giúp đánh giá học viên trên diện rộng, chính xác, đảm bảo khách quan, công bằng cho học viên, Có thể nhận thấy, những ưu điểm nổi bật của hình thức thi trắc nghiệm này như sau: Thứ nhất, học viên sẽ phải cố gắng học tập tốt hơn. Với ngân hàng 50 câu hỏi, trải đều từ đầu cho đến cuối chương trình, nếu không chăm chỉ cần cù thì khó vượt qua được kỳ thi kết thúc học phần Du lịch Việt Nam. Trong điều kiện hạn chế về thời gian, học viên không thể trông chờ vào việc sử dụng tài liệu hoặc sự giúp đỡ của người khác. Chỉ có chăm chỉ, cần cù mới đạt kết quả cao. Thứ hai, với hình thức thi trắc nghiệm, vấn đề tiêu cực trong thi cử sẽ phần nào được hạn chế, bởi bài thi sẽ được chấm khách quan và công bằng. Thứ ba, trọng tâm bây giờ của giảng viên chỉ còn tập trung vào vấn đề làm thế nào để nâng cao chất lượng giảng dạy. Khâu chấm thi, đánh giá khách quan và công bằng. Nếu áp dụng hình thức thi trắc nghiệm thì khối lượng và áp lực công việc giảm đi nhiều. Thứ tư, việc áp dụng hình thức thi trắc nghiệm là một yêu cầu cấp bách trong quá trình đổi mới phương pháp giảng dạy và học tập. Việc thi trắc nghiệm là một khâu của quá trình đổi mới phương pháp giảng dạy và đánh giá kết quả học tập của học viên. Điều này làm cho các môn học từ chỗ là các môn học có tính hàn lâm, cao xa, diệu vợi, nay đã trở thành những môn học thân quen, gần gũi, thân thiết với người học. Thứ năm, hình thức thi trắc nghiệm tiết kiệm được rất nhiều thời gian và kinh phí. Khi thiết kế một đề thi trắc nghiệm, cần chú ý sử dụng ngôn ngữ phù hợp, chính xác, rõ ràng. Cụ thể: Một là, sử dụng ngôn ngữ phù hợp với học viên. Câu hỏi diễn đạt rõ ràng, từ ngữ chính xác, tránh câu thừa, từ thừa. Ví dụ: - Cột cờ Lũng Cú nằm trên đỉnh núi Lũng Cú có độ cao bao nhiêu mét so với mặt nước biển? a. 1000m b. 1250m c. 1470m d. 1560m Với câu hỏi này sẽ gây ra sự lúng túng cho học viên khi không biết là hỏi về “cột cờ” hay “đỉnh núi”, hơn nữa không thể hỏi là “cột cờ cao bao nhiêu mét so với mặt nước biển?” được. Bởi vậy, cần diễn đạt rõ ràng hơn về vấn đề cần được hỏi như sau: - Đỉnh núi Lũng Cú có độ cao bao nhiêu mét so với mặt nước biển? a. 1000 m b. 1250 m c. 1470 m d. 1560 m Hai là, câu hỏi không nhằm nêu lên quan điểm riêng của học viên, mà chỉ hỏi sự kiện, kiến thức. Không cố gắng tăng mức độ khó của câu hỏi bằng cách diễn đạt nó theo cách phức tạp hơn, trừ khi người soạn muốn kiểm tra về phần đọc hiểu. Ví dụ không thể đặt câu hỏi là: - Theo em, đình làng Việt Nam có chức năng tôn giáo hay không? a. Có b. Không Câu hỏi này liên quan đến việc kiểm tra kiến thức đã học, bởi vậy không hỏi theo quan điểm của học viên được, mà cần hỏi là: - Đình làng Việt Nam có chức năng tôn giáo hay không? a. Có b. Không Ba là, tránh cung cấp những đầu mối dẫn tới câu trả lời. Thói quen xây dựng câu trả lời đúng dài hơn câu nhiễu sẽ sớm bị phát hiện. Câu dẫn 98 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 18 (3/2019) v TRAO ĐỔI của câu hỏi có thể chứa thông tin cần thiết để trả lời một câu hỏi khác. Ví dụ: - Lễ hội bà chúa xứ ở An Giang được tổ chức vào tháng âm lịch nào trong năm? a. tháng 3 b. vào tháng 4 âm lịch hàng năm c. tháng 5 d. tháng 6 Với câu hỏi này, đáp án đúng là (b), nhưng câu trả lời đúng lại dài hơn câu nhiễu nên dễ phát hiện. Bởi vậy, cần thống nhất cách đưa đáp án, có thể sửa lại là: - Lễ hội bà chúa xứ ở An Giang được tổ chức vào tháng âm lịch nào trong năm? a. tháng 3 b. tháng 4 c. tháng 5 d. tháng 6 Bốn là, tránh nêu nhiều hơn một ý tưởng độc lập trong câu dẫn. Tránh những từ đoán ra câu trả lời. Ví dụ câu hỏi là: - Lễ hội Đền Hùng được tổ chức vào ngày âm lịch nào của mùa xuân trong năm? a. 10/3 b. 16/4 c. 16/5 d. 19/6 Câu dẫn đã để lộ ra đáp án đúng sẽ là vào mùa xuân, nếu học viên không nắm chắc kiến thức sẽ có thể đoán mò là ngày 10/3. Cần sửa lại là: - Lễ hội Đền Hùng được tổ chức vào ngày âm lịch nào trong năm? a. 10/3 b. 16/4 c. 16/5 d. 19/6 Năm là, trong một câu hỏi, sắp xếp các câu trả lời đúng theo một cách ngẫu nhiên. Ví dụ: - Nối các câu ở cột A với cột B cho phù hợp: A (Điểm du lịch) B (Thuộc tỉnh, thành phố) 1. Hồ Thác Bà 2. Hồ thủy điện Na Hang 3. Núi Mẫu Sơn a. Yên Bái b. Tuyên Quang c. Lạng Sơn d. Bắc Kạn Hai cột của câu hỏi này đều nối ngang theo thứ tự đúng: 1 – a, 2 – b, 3 – c. Bởi vậy, dễ đoán được câu trả lời. Cần sắp xếp các câu trả lời đúng một cách ngẫu nhiên như sau: - Nối các câu ở cột A với cột B cho phù hợp: A (Điểm du lịch) B (Thuộc tỉnh, thành phố) 1. Hồ Thác Bà 2. Hồ thủy điện Na Hang 3. Núi Mẫu Sơn a. Lạng Sơn b. Lào Cai c. Yên Bái d. Tuyên Quang Để soạn tốt các câu hỏi trắc nghiệm cần phải nắm vững các nguyên tắc dạy học, nhiệm vụ môn học, nội dung chương trình và đối tượng người học để soạn thảo hệ thống câu hỏi vừa đảm bảo nội dung kiến thức vừa phù hợp với học viên. Có nhiều hệ thống câu hỏi trắc nghiệm, nhưng với môn Du lịch Việt Nam, chúng tôi lựa chọn hệ thống câu hỏi trắc nghiệm sau: Với dạng câu trắc nghiệm có nhiều lựa chọn Ở dạng câu hỏi này thường có một phần gọi là câu dẫn hay câu hỏi, và câu chọn gồm bốn, năm phương án trả lời sẵn để học viên tìm ra câu trả lời đúng nhất. Ngoài câu đúng, các câu trả lời khác đều có vẻ hợp lý (hay còn gọi là các câu nhiễu). Yêu cầu đối với dạng câu hỏi này là: - Tránh dùng câu phủ định, đặc biệt là phủ định hai lần - Tránh lạm dụng kiểu khẳng định “Không phương án nào trên đây đúng” hoặc “Mọi phương án trên đây đều đúng” 99KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 18 (3/2019) TRAO ĐỔI v - Tránh việc làm cho phương án đúng khác biệt so với các phương án nhiễu (dài hơn hoặc ngắn hơn, mô tả tỉ mỉ hơn...) - Phải sắp xếp phương án đúng và các phương án nhiễu theo thứ tự ngẫu nhiên - Chỉ một lựa chọn là đúng Ví dụ: 1. Địa hình đồi núi ở Việt Nam chiếm bao nhiêu phần diện tích đất liền? a. 1/2 b. 2/3 c. 3/4 d. 1/3 2. Khu di tích Hoàng thành Thăng Long được công nhận là Di sản văn hóa thế giới năm nào? a. 2007 b. 2008 c. 2009 d. 2010 3. Đỉnh Phan Xi Păng của vùng Tây Bắc Việt Nam cao bao nhiêu mét? a. 3.143 m b. 2.413 m c. 2403 m d. 3123 m Với dạng câu hỏi trắc nghiệm “đúng - sai, có - không” Là câu trắc nghiệm yêu cầu người làm phán đoán đúng hay sai với một câu trần thuật hoặc một câu hỏi, cũng chính là để học viên tùy ý lựa chọn một trong hai đáp án đưa ra. Người ta gọi câu “đúng – sai” là cách lựa chọn liên tiếp. Đây là loại câu cung cấp một nhận định và học viên được hỏi để xác định xem điều đó là “Đúng” hay “Sai”. Hoặc có thể là câu hỏi trực tiếp để được câu trả lời là “Có” hay “Không”. Đôi khi chúng được nhóm lại dưới một câu dẫn. Các phương án trả lời là thích hợp để gợi nhớ lại kiến thức được kiểm tra một cách nhanh chóng. Yêu cầu đối với dạng câu hỏi này là: - Câu phát biểu phải hoàn toàn đúng hoặc hoàn toàn sai, hoàn toàn có hoặc hoàn toàn không, không có ngoại lệ - Soạn câu trả lời thật đơn giản - Tránh dùng câu phủ định, đặc biệt là phủ định hai lần Ví dụ: 1. Việt Nam có đường bờ biển dài 3.260km, đúng hay sai? a. Đúng b. Sai 2. Khí hậu từ Đèo Hải Vân trở ra Bắc có mùa đông lạnh hay không? a. Có b. Không 3. Vịnh Hạ Long ở tỉnh Quảng Ninh được công nhận là Di sản văn hóa thế giới, đúng hay sai? a. Đúng b. Sai Với dạng câu hỏi trắc nghiệm ghép đôi Trong loại này có hai cột gồm danh sách những câu hỏi và câu trả lời. Dựa trên một hệ thức tiêu chuẩn nào đó định trước, học viên tìm cách ghép những câu trả lời ở cột này với các câu hỏi ở cột khác sao cho phù hợp. Số câu trong hai cột có thể bằng nhau hoặc khác nhau. Mỗi câu trong cột trả lời có thể được dùng một lần hay nhiều lần để ghép với một câu hỏi. Loại câu này thường có hai dãy thông tin là câu dẫn và câu đáp, chúng thường ghép đôi với nhau theo kiểu tương ứng một – một. Hai dãy thông tin này không nên có số câu bằng nhau để cho cặp ghép cuối cùng chỉ đơn giản gắn kết của sự loại trừ liên tiếp. Nhiệm vụ của người học là ghép chúng lại một cách thích hợp. Yêu cầu đối với dạng câu hỏi này là: - Các dòng trên mỗi cột phải tương đương về nội dung, hình thức, ngữ pháp, độ dài. - Tránh các câu phủ định - Số từ trên hai cột như nhau, hoặc có thể thừa 100 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 18 (3/2019) v TRAO ĐỔI ở một cột để tạo đáp án nhiễu, thường chỉ nên từ 5 đến 10 từ. Các cột có thể đánh số và chữ cái để dễ ghép vào nhau. Ví dụ: 1. Nối các câu ở cột A với cột B cho phù hợp: A (Điểm du lịch) B (Thuộc tỉnh, thành phố) 1. Đền Hùng 2. Chùa Hương 3. Chùa Bái Đính 4. Nghĩa trang liệt sĩ đồi A1 5. Đền Kiếp Bạc a. Điện Biên b. Phú Thọ c. Hải Dương d. Ninh Bình e. Hà Nội f. Thái Bình 2. Nối các câu ở cột A với cột B cho phù hợp: A (Điểm du lịch) B (Thuộc tỉnh, thành phố, vùng) 1. Nhã nhạc cung đình 2. Âm nhạc cồng chiêng 3. Dân ca ví dặm 4. Hát quan họ 5. Đờn ca tài tử a. Nam Bộ b. Bắc Ninh c. Huế d. Hòa Bình e. Tây Nguyên f. Nghệ An 3. Nối các câu ở cột A với cột B cho phù hợp: A (Điểm du lịch) B (Thuộc tỉnh, thành phố) 1. Sa Pa 2. Tam Đảo 3. Hồ Núi Cốc 4. Mộc Châu 5. Mai Châu a. Thái Nguyên b. Hòa Bình c. Lào Cai d. Vĩnh Phúc e. Ninh Bình f. Sơn La Với dạng câu hỏi trắc nghiệm điền khuyết Đây là câu hỏi trắc nghiệm khách quan mà học viên phải điền từ hoặc cụm từ thích hợp vào các chỗ để trống. Nói chung, đây là loại trắc nghiệm khách quan có câu trả lời tự do. Yêu cầu đối với dạng câu hỏi này là: - Chỉ nên để một hoặc hai chỗ trống - Thiết kế sao cho có thể trả lời bằng một từ đơn nhất mang tính đặc trưng (người, vật, địa điểm, thời gian, khái niệm) - Cung cấp đủ thông tin để chọn từ trả lời - Học viên phải tự tìm câu trả lời đúng để viết vào chỗ trống Ví dụ: Điền từ thích hợp vào chỗ trống: 1. Văn Miếu ở Hà Nội được thành lập năm ..... 2. Thành nhà Hồ là một điểm du lịch nằm ở tỉnh ... 3. Hồ Xuân Hương là một điểm du lịch nằm ở trung tâm của thành phố ............., tỉnh ............. 3. KẾT LUẬN Quá trình hội nhập và phát triển ở Việt Nam đang đặt ra những cơ hội và thách thức, đòi hỏi phải có nhận thức sâu sắc và toàn diện về đất nước, về vị thế Việt Nam đối với khu vực và thế giới trong bối cảnh khu vực hóa và toàn cầu hóa đang diễn ra ngày càng mạnh mẽ. Nghiên cứu và đào tạo về Việt Nam đã trở thành nhu cầu cấp thiết, một mặt đối với sự phát triển và hội nhập của Việt Nam, mặt khác đối với quá trình đầu tư và hợp tác của các nước và các tổ chức quốc tế với Việt Nam. Ngành Việt Nam học đào tạo ra các chuyên gia có kiến thức rộng về đất nước, con người Việt Nam, biết làm việc trong môi trường liên ngành và sử dụng thành thạo các kỹ năng nghiên cứu đa ngành, liên ngành, tìm ra các đặc trưng của từng không gian văn hoá-xã hội cụ thể phục vụ chiến lược phát triển kinh tế, xã hội, văn hoá Việt Nam. Chuyên ngành Việt Nam học tại Học viện Khoa học Quân sự sẽ góp phần đào tạo một số lượng đáng kể các chuyên gia Việt Nam học của nhiều quốc gia trên 101KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 18 (3/2019) TRAO ĐỔI v IMPROVING THE QUALITY OF MULTIPLE-CHOICE QUESTIONS FOR THE “VIETNAM TOURISM” COURSE FOR FOREIGN MILITARY STUDENTS AT MILITARY SCIENCE ACADEMY TRAN THI HUYEN NGA Abstract: Course title Vietnam’s Tourism (Regions, Area) under the bachelor’s degree curriculum of Vietnam studies in Military Science Academy includes large volume of knowledge, and this course is prepared for foreign military students. This course provides the students with the basic knowledge about Vietnam’s regional geography. Therefore, in order to evaluate study result of Vietnam Tourism subject, the article will focus on the quality improvement of multiple choice exam questions in the final exam of Vietnam Tourism subject. Keywords: volume of knowledge, quality improvement, multiple choice exams Received: 31/10/2018; Revised: 03/01/2019; Accepted for publication: 25/02/2019 thế giới phục vụ chiến lược phát triển và hội nhập của Việt Nam. Bởi vậy, việc nâng cao chất lượng đề thi trắc nghiệm môn Du lịch Việt Nam cũng là một hình thức nâng cao chất lượng giảng dạy của giảng viên cũng như chất lượng học tập của học viên trong đào tạo cử nhân Việt Nam học tại Học viện Khoa học Quân sự./. Tài liệu tham khảo: Lâm Quang Thiệp (2008), Trắc nghiệm và ứng dụng, NXB Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội. Lâm Quang Thiệp (2012), Đo lường và đánh giá hoạt động học tập trong nhà trường, NXB Đại học Sư phạm, Hà Nội.
Tài liệu liên quan