22 Khảo sát sử dụng kháng sinh và chi phí điều trị bệnh viêm phế quản phổi ở trẻ em tại khoa nhi Bệnh viện TW Quân đội 108

Mục tiêu: Khảo sát thực trạng sử dụng kháng sinh ở trẻ em bị viêm phế quản phổi và đánh giá chi phí điều trị trực tiếp cho bệnh nhi viêm phế quản phổi tại khoa Nhi, bệnh viện Trung Ương Quân Đội 108. Phương pháp nghiên cứu: Hồi cứu, cắt ngang mô tả. Kết quả: Có 66 bệnh nhi bị viêm phế quản phổi (VPQP) tại khoa Nhi, Bệnh viện Trung ương Quân đội 108, được chia làm 2 nhóm: Nhóm 1 có 31 bệnh nhi bị bệnh mức độ nhẹ và trung bình, nhóm 2 gồm 35 bệnh nhi nặng. Trẻ bị viêm phế quản phổi chủ yếu gặp ở nhóm 1: Trẻ nhỏ từ 13- 24 tháng tuổi 45,1%, nhóm 2: trẻ nhỏ từ 3- 12 tháng tuổi 40%. Tiền sử dùng kháng sinh trước vào viện cả 2 nhóm đều cao (64,5% và 68,6%) và kháng sinh hay được sử dụng điều trị là cephalosporin thế hệ 3 (70,9% và 85,7%). Chi phí trực tiếp cho 1 lần điều trị ở nhóm 1 trung bình là 992436 đồng và nhóm 2 là 1484163 đồng. Trong đó, chi phí chủ yếu dùng kháng sinh chiếm tới 17,4% ở nhóm 1 và 26,4% ở nhóm 2. Kết luận: Để giảm chi phí điều trị cha mẹ nên cho trẻ đi khám bệnh sớm khi trẻ có ho, sốt, khó thở và không nên tự ý dùng kháng sinh khi chưa có chỉ định của thày thuốc.

pdf11 trang | Chia sẻ: thanhuyen291 | Ngày: 14/06/2022 | Lượt xem: 642 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu 22 Khảo sát sử dụng kháng sinh và chi phí điều trị bệnh viêm phế quản phổi ở trẻ em tại khoa nhi Bệnh viện TW Quân đội 108, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 4 * 2012 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Điều Dưỡng Nhi Khoa 157 22 KHẢO SÁT SỬ DỤNG KHÁNG SINH VÀ CHI PHÍ ĐIỀU TRỊ BỆNH VIÊM PHẾ QUẢN PHỔI Ở TRẺ EM TẠI KHOA NHI BỆNH VIỆN TW QUÂN ĐỘI 108 Trịnh Thị Thu Chung*, Tống Thị Hiếu Tâm* TÓM TẮT Mục tiêu: Khảo sát thực trạng sử dụng kháng sinh ở trẻ em bị viêm phế quản phổi và đánh giá chi phí điều trị trực tiếp cho bệnh nhi viêm phế quản phổi tại khoa Nhi, bệnh viện Trung Ương Quân Đội 108. Phương pháp nghiên cứu: Hồi cứu, cắt ngang mô tả. Kết quả: Có 66 bệnh nhi bị viêm phế quản phổi (VPQP) tại khoa Nhi, Bệnh viện Trung ương Quân đội 108, được chia làm 2 nhóm: Nhóm 1 có 31 bệnh nhi bị bệnh mức độ nhẹ và trung bình, nhóm 2 gồm 35 bệnh nhi nặng. Trẻ bị viêm phế quản phổi chủ yếu gặp ở nhóm 1: Trẻ nhỏ từ 13- 24 tháng tuổi 45,1%, nhóm 2: trẻ nhỏ từ 3- 12 tháng tuổi 40%. Tiền sử dùng kháng sinh trước vào viện cả 2 nhóm đều cao (64,5% và 68,6%) và kháng sinh hay được sử dụng điều trị là cephalosporin thế hệ 3 (70,9% và 85,7%). Chi phí trực tiếp cho 1 lần điều trị ở nhóm 1 trung bình là 992436 đồng và nhóm 2 là 1484163 đồng. Trong đó, chi phí chủ yếu dùng kháng sinh chiếm tới 17,4% ở nhóm 1 và 26,4% ở nhóm 2. Kết luận: Để giảm chi phí điều trị cha mẹ nên cho trẻ đi khám bệnh sớm khi trẻ có ho, sốt, khó thở và không nên tự ý dùng kháng sinh khi chưa có chỉ định của thày thuốc. Từ khóa: Viêm phế quản phổi. ABSTRACT SURVEY ANTIBIOTIC USE AND COST OF BRONCHOPULMONARY TREATMENT IN CHILDREN AT DEPARTMENT OF PEADIATRICS, THE MILITARY CENTRAL 108 HOSPITAL Trinh Thi Thu Chung, Tong Thi Hieu Tam * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 - Supplement of No 4 - 2012: 157 - 161 Objective: Survey the situation antibiotic use and assess cost of direct bronchopulmonary treatment in children at department of peadiatrics, the military cental 108 hospital. Methods: The retrospective, cross-sectional study. Results: There were 66 patients and were divided into 2 groups: Group 1- 31 mild and moderate patients, group 2-35 severe patients. The most frequently bronchopneumonia patients were in group 1 of age 13- 24 months 45.1 %, group 2 of 3- 12 months 40% Antibiotic usage history of both groups were high 64.5% - 68.6%, the most common antibiotics were 3rd cephalosporins (70.9%- 85.7%). The average cost for a course of group 1 was 992436 VND, group 2 was 1484163 VND. In which, the main cost for antibiotics were 17% in group 1 and 26.4% in group 2. Conclusion: To reduce treatment cost, parents should bring the child to the doctor early when the child had cough, fever or shortness of breath. Do not use antibiotics without prescription. Key word: Bronchopulmonary. * Bệnh viện Trung Ương Quân Đội 108 Tác giả liên lạc: ĐD Trịnh Thị Thu Chung ĐT: 0985852214 Email: ankpeo@gmail.com Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 4 * 2012 Chuyên Đề Điều Dưỡng Nhi Khoa 158 ĐẶT VẤN ĐỀ Bệnh viêm phế quản phổi (VPQP) là bệnh thường gặp ở trẻ em, là một nguyên nhân chính gây tử vong ở trẻ nhỏ, đặc biệt là trẻ dưới 1 tuổi, sơ sinh, trẻ suy dinh dưỡng, bệnh tim bẩm sinh và suy giảm miễn dịch. Ở Việt Nam, theo thông kê của chương trình phòng chống nhiễm khuẩn hô hấp cấp thì trung bình mỗi năm một trẻ mắc nhiễm khuẩn hô hấp cấp từ 3- 5 lần, trong đó có 1- 2 lần bị viêm phổi. Trẻ em mắc VPQP thường phải nhập viện điều trị do vậy làm tăng gánh nặng chi phí cho gia đình và xã hội. Vì vậy, để đem lại hiệu quả điều trị toàn diện cho bệnh nhân, ngoài các yếu tố như chuyên môn, kỹ thuật, chẩn đoán, khám bệnh kê đơn, tâm lý tiếp xúc thi chi phí điều trị hợp lý cũng là một vấn đề hết sức quan trọng. Chi phí điều trị phù hợp với khả năng chi trả của người bệnh và BHYT mà vẫn đáp ứng được nhu cầu điều trị là một vấn đề đang được cả xã hội quan tâm và nó góp phần nâng cao chất lượng quản lý bệnh nhân, tiết kiệm kinh tế cho hộ gia đình trong thời kỳ kinh tế khó khăn lạm phát tăng cao cũng như hạn chế việc chi quá mức của quỹ BHYT từ đó giúp cho việc dự trù ngân sách và lên kế hoạch tài chính xác thực hơn. Xuất phát từ những thực tế đó, nghiên cứu được thực hiện. Mục tiêu nghiên cứu Khảo sát thực trạng sử dụng kháng sinh ở trẻ em bị bệnh viêm phế quản phổi tại khoa Nhi, Bệnh viện TƯQĐ 108. Khảo sát chi phí điều trị trực tiếp cho bệnh nhi viêm phế quản phổi tại khoa Nhi, Bệnh viện TƯQĐ 108. TỔNG QUAN VPQP là bệnh viêm các phế quản nhỏ, phế nang và các tổ chức xung quanh phế nang rải rác hai phổi, làm rối loạn trao đổi khí, tắc nghẽn đường thở dễ gây suy hô hấp và tử vong. Nguyên nhân gây bệnh: Vi rút (Chiếm tới 60- 70%), các vi khuẩn không điển hình và vi khuẩn là nguyên nhân hay gặp ở các nước đang phát triển. Triệu chứng lâm sàng: sốt, ho, khó thở nếu không được điều trị tích cực sẽ có nhiều biến chứng, thậm chí tử vong. Do vậy, trẻ phải nhập viện điều trị, chính điều này làm cho gánh nặng kinh tế gia đình và xã hội tăng cao. Trong y tế, chi phí là giá trị của nguồn lực được sử dụng để tạo ra một dịch vụ y tế. Chi phí thường được thể hiện dưới dạng tiền tệ song chi phí không có nghĩa là giá cả mà chỉ thể hiện nguồn lực thực được sử dụng. Chi phí gồm có chi phí kinh tế và chi phí cơ hội. Chi phí kinh tế là giá trị của tất cả các nguồn lực kế toán và phi kế toán. Bên cạnh đó, khi tính toán chi phí cũng phải tính đến chi phí cơ hội. Chi phí cơ hội của một hoạt động chính là thu nhập mất đi do sử dụng nguồn lực cho một hoạt động này hơn là cho hoạt động khác. Chi phí bao gồm: Chi phí trực tiếp cho người điều trị, mỗi giai đoạn điều trị thì chi phí trực tiếp cho điều trị do bệnh nhân gánh chịu bao gồm: Chi phí cho khám bệnh x giá một lần khám bệnh. Chi phí ngày giường x số ngày nằm viện. Chi phí cho thuốc: số tiền trả cho thuốc của BN trong thời gian điều trị. Chi phí cho xét nghiệm. Chi phí trực tiếp cho điều trị = chi phí khám bệnh + chi phi nằm viện + chi phí thuốc + chi phí xét nghiệm. Chi phí trực tiếp không cho điều trị. Chi phí đi lại từ nhà đến bệnh viện và ngược lại. Chi phí ăn uống và chi phí khác. Chi phí gián tiếp: Chi phí gián tiếp được tính bằng thu nhập mất đi do BN bị bệnh, thu nhập mất đi do người nhà phải chăm sóc hoặc đi thăm bệnh nhân. Chi phí gián tiếp của BN và người nhà BN do mất thu nhập = thu nhập trung bình/ngày x số ngày (bệnh nhân bị bệnh không lao động được, người nhà chăm sóc BN bị ốm). Vậy: Chi phí cho người bệnh = chi phí trực tiếp cho điều trị + chi phí trực tiếp không do điều trị + thu nhập mất đi do giảm khả năng lao độ (3). Theo một nghiên cứu phân tích chi phí kinh tế cho điều trị bệnh viêm phổi ở trẻ em miền bắc Pakistan (1995) ước tính chi phí trung bình cho một ca viêm phổi là 22,62 USD và cho một ca viêm phổi nặng là 142,9 USD(1). Theo Tăng Chí Thượng thì chi phí thuốc chiếm 19,1%, vật tư y tế tiêu hao: 49,4%, xét nghiệm: 23,9%. Trong đó, chi phí trung bình cho một ngày điều trị nhóm bệnh nhiễm khuẩn (chủ Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 4 * 2012 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Điều Dưỡng Nhi Khoa 159 yếu là nhiễm khuẩn hô hấp) là 844312 đồng/ngày và 6864914 đồng/đợt điều trị. Phân tích cấu trúc chi phí cho 1 ngày điều trị, tác giả thấy: Chi phí cố định chiếm 72,8%, chi phí biến đổi chiếm 27,2%(5). ĐỐI TƯỢNG- PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Đối tượng nghiên cứu Gồm 66 bệnh nhi bị VPQP điều trị nội trú tại khoa Nhi, Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 từ tháng 1 năm 2011 đến tháng 12 năm 2011, được chia thành 2 nhóm. Nhóm 1 gồm: 31 BN, được chẩn đoán VPQP mức độ nhẹ và trung bình. Nhóm 2 gồm: 35 BN được chẩn đoán viêm phổi nặng. Tiêu chuẩn chọn bệnh nhân Bệnh nhân được chẩn đoán xác định VPQP theo tiêu chuẩn của phác đồ điều trị nhi khoa 2009(4). Tiêu chuẩn loại trừ Các bệnh nhân bị VPQP nhưng không có tổn thương trên Xquang. Phương pháp nghiên cứu: Hồi cứu, cắt ngang mô tả. Nội dung nghiên cứu Nghiên cứu lâm sàng, khảo sát sử dụng kháng sinh Nghiên cứu chi phí: Chi phí thuốc điều trị: Thuốc kháng sinh, Các thuốc điều trị biến chứng, triệu chứng như: Long đờm, giãn phế quản, hạ sốt, dịch truyền. Các xét nghiệm cận lâm sàng, vật tư tiêu hao, giường nằm, điện nước. Các chi phí gián tiếp như gia đình mất thu nhập do con phải nằm viện, chi phí chăm sóc, đi lại, trẻ phải nghỉ học không được khảo sát trong nghiên cứu này. Xử lý số liệu Sử dụng T test để so sánh 2 giá trị trung bình và χ2 để so sánh 2 tỷ lệ, sự khác biệt được coi là có ý nghĩa thống kê khi P < 0,05. KẾT QUẢ Bảng 1: Phân bố bệnh theo tuổi Nhóm 1 (n=31) Nhóm 2 (n=35) Tuổi SBN Tỷ lệ SBN Tỷ lệ P ≤ 2 tháng 1 3,2 1 2,9 >0,05 3-12 tháng 6 19,5 14 40 <0,001 13-24 tháng 14 45,1 9 25,7 <0,001 25- 35 tháng 4 12,9 7 20 <0,001 ≥ 3 tuổi 6 19,3 4 11,4 <0,001 Cả 2 nhóm bệnh tập trung chủ yếu ở trẻ từ 3 - 24 tháng tuổi. Theo Nguyễn Văn Bàng (2009) thì số trẻ mắc bệnh viêm phổi trong độ tuổi từ 2 đến 12 tháng chiếm 56%, còn số trẻ trong độ tuổi từ 12 tháng đến 5 tuổi là 44%. Bảng 2: Tiền sử dùng kháng sinh trước khi vào viện Nhóm 1 (n=31) Nhóm 2 (n=35) Kháng sinh SBN Tỷ lệ SBN Tỷ lệ P Chưa dùng 11 35,5 11 31,4 >0,05 Đã dùng 20 64,5 24 68,6 >0,05 P <0,001 <0,001 Tỷ lệ trẻ được dùng kháng sinh trước vào viện ở cả 2 nhóm đều cao (nhóm 1: 64,5%, nhóm 2 là 68,6%). Bảng 3: Các loại kháng sinh sử dụng trong điều trị Nhóm 1 (n=31) Nhóm 2 (n=35) Tên KS SBN % SBN % Clarithromycin Siro 1 3,3 3 8,6 Cefuroxim Siro 8 25,8 7 20 Cefotaxim 1 gr 22 70,9 30 85,7 Amikacin 0,5 gr 0 0 14 40 Ceftriaxon 1 gr 0 0 6 17,1 Nhóm kháng sinh được sử dụng nhiều nhất ở cả 2 nhóm là Cephalosporin thế hệ 3 (Cefotaxim). Amikacin là thuốc hay được phối hợp nhưng chỉ được sử dụng ở nhóm 2. Bảng 4: Chi phí trực tiếp cho 1 lần điều trị (tính bằng đồng Việt Nam) Tiền Ít nhất ( X ± SD) Nhiều nhất ( X ± SD) Trung bình ( X ± SD) Nhóm 1 (n=31) 595478 ± 579 1423915 ±748 992436 ± 236 Nhóm 2 (n=35) 725317 ± 137 2008623± 243 1484163± 316 P <0,001 <0,001 <0,001 Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 4 * 2012 Chuyên Đề Điều Dưỡng Nhi Khoa 160 Chi phí trực tiếp cho 1 lần điều trị ở nhóm 1 trung bình là 99243600 đồng. Trong khi nhóm 2 trung bình là 148416300 đồng. Bảng 5: Trung bình các loại chi phí cho 1 lần điều trị (tính bằng đồng Việt Nam) Nhóm 1 (n=31) Nhóm 2 (n=35) Loại chi phí SBN Tỷ lệ SBN Tỷ lệ P Thuốc kháng sinh 173072± 271 17,4 392153± 325 26,4 <0,001 Thuốc hỗ trợ 119669± 198 12,1 165476± 253147 11,1 >0,05 Các thuốc khác 147355± 245 14,8 237268± 132 15,8 >0,05 Vật tư tiêu hao 64727± 121 6,5 84070± 321 5,7 >0,05 Cận lâm sàng 196613± 121 19,8 298513± 423 20,2 >0,05 Gường 97000± 143 9,8 117000± 523 7,9 >0,05 Điện nước 194000± 193 19,5 234000± 255 15,8 >0,05 Chi phí điều trị kháng sinh, các xét nghiệm cân lâm sàng và sử dụng điện nước ở cả 2 nhóm đều cao. Riêng kháng sinh ở nhóm 1 chiếm 17,4%, nhóm 2 là 26,4%. BÀN LUẬN Bệnh VPQP hay gặp ở trẻ nhỏ dưới 2 tuổi, trẻ càng nhỏ, sinh non thiếu tháng, nhẹ cân, suy dinh dưỡng, có bệnh lý tim bẩm sinh thì nguy cơ mắc bệnh càng cao và bệnh càng nặng.Việc sử dụng kháng sinh hợp lý ở bệnh nhân viêm phổi rất quan trọng, không những giúp bệnh nhân mau chóng khỏi bệnh, giảm tỷ lệ tử vong, giảm khả năng kháng thuốc của vi khuẩn gây bệnh mà còn tiết kiệm chi phí cho gia đình người bệnh. Trong nghiên cứu của chúng tôi (bảng 2) thấy tỷ lệ trẻ được dùng kháng sinh trước vào viện ở cả 2 nhóm đều cao (nhóm 1: 64,5%, nhóm 2 là 68,6%). Điều này cho thấy cha mẹ trẻ khi thấy con mắc bệnh thường tự ý dùng kháng sinh trước khi có ý kiến chuyên môn dẫn đến tỷ lệ kháng kháng sinh ngày càng cao và gây khó khăn cho quá trình điều trị sau này. Tỷ lệ sử dụng kháng sinh nhóm Cephalosporin của chúng tôi cũng phù hợp với nghiên cứu của Nguyễn Văn Bàng (2009) với nhóm Cephalosporin là 74(4). Tuy nhiên so với kết quả nghiên cứu của Lưu Phương Anh thì tỷ lệ sử dụng Cefotaxim của tác giả thấp hơn (17,1%)(2). Theo Armando.A và CS (1995) thì nhu cầu chăm sóc sức khỏe không giảm mà ngày càng gia tăng và đa dạng hơn bao giờ hết. Ví dụ, ở Mỹ, chi phí cho bệnh tim mạch đã tiêu tốn 1,25% GDP và chi phí gián tiếp do tổn thất năng suất và chết sớm chiếm 2% GPD. Đối với bệnh viêm phế quản, tổng chi phí cho một trường hợp là 105600 USD, trong đó: nguồn nhân lực: 44,02%, xét nghiệm và các kỹ thuật chẩn đoán là 4,04%, thuốc và các giải pháp khác là 1,13%, chất thải vật liệu: 4,6%, và các chi phí khác là 46,21%. Theo nghiên cứu của tác giả thì chi phí trung bình cho một ca điều trị viêm phổi tại bắc Pakistan là 22,62 USD và cho một ca viêm phổi nặng là 142,9 USD(1). Trong nghiên cứu của chúng tôi thì chi phí trực tiếp cho 1 lần điều trị ở nhóm 2 cao hơn nhóm 1 trong đó chi phí cho việc sử dụng kháng sinh ở cả 2 nhóm đều cao. KẾT LUẬN Tỷ lệ trẻ sử dụng kháng sinh trước vào viện ở cả 2 nhóm đều cao (nhóm 1: 64,5%; nhóm 2: 68,6%). Kháng sinh sử dụng trong cả 2 nhóm chủ yếu là nhóm beta lactam: nhóm 1 là 70,9%; nhóm 2 là 85,7%. Chí phí điều trị Chi phí trực tiếp trung bình cho 1 lần điều trị ở nhóm 1 là 992436 đồng, nhóm 2 là 1484163 đồng, sự khác biệt giữa 2 nhóm có ý nghĩa (P < 0,001). Trung bình các loại chi phí cho 1 lần điều trị thì chi phí cho điều trị thuốc ở cả 2 nhóm đều chiếm tỷ lệ cao (nhóm 1 là 44,3%; nhóm 2 là 63,3%). KIẾN NGHỊ Khi cha mẹ thấy trẻ sốt, ho, khó thở nên cho trẻ đi khám bệnh sớm để phát hiện kịp thời và điều trị cho trẻ tránh để khi bệnh chuyển nặng gây không những nguy hiểm cho tính mạng mà Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 4 * 2012 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Điều Dưỡng Nhi Khoa 161 còn làm tăng gánh nặng kinh tế cho gia đình và xã hội. Khi trẻ mắc bệnh cha mẹ không nên tự ý cho trẻ dùng kháng sinh khi chưa có sự chỉ dẫn của bác sỹ. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Armando A (1995). The cost of the disease in Brazil: breast cancer, colon, heart valve disease and bronchopneumonia, Rev. Saude publica, vol 29, N 5. 2. Lưu Phương Anh (2011): Khảo sát và phân tích việc sử dụng khabfs sinh trong điều trị nhiễm khuẩn tại khoa sơ sinh Bệnh viện Phụ sản Hà Nội, luận văn thạc sỹ y học, Đại học Dược, Hà Nội. 3. Nguyễn Thị Kim Chúc (2007). Kinh tế y tế và bảo hiểm y tế, Bộ Y Tế. 4. Nguyễn Văn Bàng (2009). Đánh giá sử dụng kháng sinh trong điều trị viêm phổi ở trẻ em tại Khoa Nhi Bệnh viện Bạch Mai, tạp chí Nhi khoa, tập 2, số 2, tháng 6, 28. 5. Tăng Chí Thượng (2011).Đánh giá kết quả điều trị và chi phí hiệu quả khoa săn sóc tăng cường sơ sinh bệnh viện nhi đồng 1 TP Hồ Chí Minh, tập 4, số 4, tạp chí Nhi khoa. 6. Trần Anh Tuấn (2009).Viêm phổi, phác đồ điều trị nhi khoa, Nhà xuất bản Y học, 476 - 480. Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 4 * 2012 Chuyên Đề Điều Dưỡng Nhi Khoa 162 17 MỘT SỐ YẾU TỐ NGOẠI CẢNH Ở BỆNH PHÒNG ẢNH HƯỞNG ĐẾN GIẤC NGỦ CỦA TRẺ TẠI BỆNH VIỆN NHI TRUNG ƯƠNG Hà Thị Huyền* TÓM TẮT Mục tiêu: So sánh giấc ngủ của trẻ trước và trong thời gian nằm viện, đồng thời mô tả một số yếu tố của môi trường bệnh phòng ảnh hưởng tới giấc ngủ của trẻ. Đối tượng phương pháp nghiên cứu: Thiết kế nghiên cứu mô tả cắt ngang, đối tượng của nghiên cứu là những trẻ nằm điều trị nội trú tối thiểu 05 ngày. Kết quả: Cho thấy có sự thay đổi có ý nghĩa thống kê giữa thời gian ngủ/ngày của trẻ ở nhà và ở viện tại cả hai thời điểm mùa hè (ở nhà = 11,2 giờ, ở viện = 10,9 giờ) cũng như mùa đông (ở nhà = 12,2 giờ, ở viện = 10,5 giờ). Trong số các yếu tố môi trường được nghiên cứu, cường độ tiếng ồn, cường độ ánh sáng sáng, nhiệt độ buồng bệnh, số bệnh nhân trong phòng và tần suất đi lại của người nhà có liên quan nghịch biến đến thời gian ngủ của trẻ. Ngược lại, có mối liên quan đồng biến giữa diện tích buồng bệnh và thời gian ngủ của trẻ. Kết luận: Như vậy, thời gian ngủ của trẻ khi nằm viện giảm đáng kể so với trước khi vào viện. Các yếu tố môi trường bệnh phòng liên quan cả đồng biến lẫn nghịch biến với thời gian trẻ ngủ. Do đó, điều dưỡng cần có biện pháp can thiệp phù hợp để nâng cao giấc ngủ của trẻ trong thời gian điều trị nội trú. Từ khóa: Trẻ em, giấc ngủ. ABSTRACT ENVIRONMENTAL FACTORS AFFECTING CHILDREN’S SLEEP AFTER HOSPITALIZATION IN NATIONAL CHILDREN’S HOSPITAL Ha Thi Huyen * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 - Supplement of No 4 - 2012: 162 - 167 Objectives: To compare pediatric patients’ sleep before and after hospitalization, and investigate the relationships between environmental factors and children’s sleep. Methods: Descriptive study. Results: Showed a significant reduction in sleeping time of children after hospital admission in both summer (at home = 11.2 hours, in hospital = 10.9 hours) and winter (at home = 12.2 hours, in hospital = 10.5 hours). The intensity of noise, light, and the temperature of the room, number of roommates, and frequency of walking around of caregivers negatively associated with children’s sleep. In contrast, size of the patients’ room was positively related to children’s sleep. Conclusions: The sleeping time of children significantly reduced after hospitalization. There were many environmental factores both negatively and positively associated with children’s sleep. This study pointed to a need for a proper nursing intervention with regard to improve pediatric patients’ sleep after hospital admission. Key words: Children, sleep. ĐẶT VẤN ĐỀ Ngủ và nghỉ ngơi là một trong các nhu cầu cơ bản của con người. Giấc ngủ có vai trò như một quá trình phục hồi và tái tạo năng lượng của cơ thể (2,1,4,7,8). Nhu cầu ngủ khác nhau theo tuổi, sự phát triển tâm thần, thể chất và các yếu * Trường Đại học Thăng Long. Tác giả liên lạc: CN. Hà Thị Huyền, ĐT: 0976084696, Email: huyenha84@gmail.com Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 4 * 2012 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Điều Dưỡng Nhi Khoa 163 tố môi trường. Nhóm người già, người ốm đau bệnh tật và trẻ em có nhu cầu ngủ cao hơn. Đặc biệt đối với bệnh nhi thì việc chăm sóc, điều trị cần thể hiện tính toàn diện, vừa chữa khỏi bệnh vừa đảm bảo trẻ phát triển bình thường về thể chất và tâm thần (6).Tìm hiểu về ảnh hưởng của một số yếu tố đến giấc ngủ bước đầu có thể gợi ý người điều dưỡng đưa ra giải pháp nâng cao chất lượng chăm sóc bệnh nhi nói chung và chăm sóc giấc ngủ cho bệnh nhi nói riêng. Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến giấc ngủ, tuy nhiên trong khuôn khổ đề tài này nhóm nghiên cứu chỉ đề cập đến một số yếu tố thuộc môi trường bệnh phòng vì đây là những yếu tố liên quan trực tiếp đến nhiệm vụ chăm sóc người bệnh của điều dưỡng viên. Mục tiêu nghiên cứu So sánh giấc ngủ của trẻ trước khi vào viện và trong thời gian nằm viện. Mô tả một số yếu tố của môi trường bệnh phòng ảnh hưởng đến giấc ngủ của trẻ. ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Đối tượng nghiên cứu Nghiên cứu tiến hành trên 109 bệnh nhi điều trị nội trú tối thiểu 05 ngày tại khoa Ngoại, khoa Tiêu hoá, khoa Tim mạch, khoa Hô hấp - Bệnh viện Nhi Trung ương và nhóm các đối tượng chăm sóc chính cho trẻ. Loại trừ các trẻ mắc bệnh tâm thần, đang sử dụng thuốc an thần hoặc đang sốt, khó thở. Phương pháp nghiên cứu Thiết kế nghiên cứu Nghiên cứu mô tả cắt ngang có phân tích. Nội dung và biến số nghiên cứu Thời gian ngủ và tình trạng giấc ngủ Mỗi trẻ sẽ được thu thập các thông tin sau: Thời gian ngủ trung bình/ ngày trước khi vào viện (giờ/ ngày). Thời gian ngủ trung bình/ ngày khi nằm viện (giờ/ ngày). Tình trạng giấc ngủ: Có 3 mức đ ộ: Ngủ sâu, ngủ hay giật mình và ít ngủ hay quấy khóc. Các thông tin trên được nghiên cứu viên theo dõi và phỏng vấn qua n
Tài liệu liên quan