Mục tiêu nghiên cứu: Khảo sát kết quả và các biến chứng xảy ra trên các trường hợp mổ tim hở có gây tê ngoài màng cứng hỗ trợ tại bệnh viện Nhi Đồng 1 từ 03-2010 đến 08-2011. Phương pháp nghiên cứu: Mô tả hàng loạt ca. Kết quả: Có 86 trường hợp, 40 nam và 46 nữ. Tuổi trung bình 31,25 ± 3,68 tháng, nhỏ nhất là 2 tháng tuổi, cân nặng trung bình 9,71 ± 0,59 kg, nhỏ nhất là 3,6 kg. Tật tim có luồng thông trái – phải chiếm đến 68,9%, tứ chứng Fallot và tim bẩm sinh phức tạp ít hơn (15,2% và 14,2%). Bệnh cảnh lâm sàng trước phẫu thuật thường nặng với suy dinh dưỡng chiếm 87,21%, suy tim chiếm 96,5%, tăng áp phổi chiếm 75,58%, cơn tím thiếu oxy chiếm 17,4%. Chúng tôi không ghi nhận biến chứng nào liên quan đến gây tê trong quá trình phẫu thuật cũng như giai đoạn hậu phẫu tại khoa hồi sức ngoại. Thời gian gây mê trung bình là 256,86 ± 65,55 phút, thời gian đặt nội khí quản thở máy ngắn trung bình là 22.21 ± 3,3 giờ, thời gian hậu phẫu tại khoa Hồi sức ngoại là 3,57 ± 0,39 ngày và tỷ lệ viêm phổi liên quan đến thở máy là 12,8%. Kết luận: Qua bước đầu khảo sát việc ứng dụng phương pháp gây tê ngoài màng cứng hỗ trợ trong phẫu thuật tim hở tại bệnh viện Nhi Đồng 1, chúng tôi nhận thấy những bệnh nhi này có thời gian hậu phẫu ngắn, được rút nội khí quản sớm với tỷ lệ thành công khá cao, từ đó làm giảm tỷ lệ viêm phổi hậu phẫu và các biến chứng khác liên quan đến nhiễm trùng bệnh viện, giảm thiểu chi phí điều trị, góp phần thành công lớn cho phẫu thuật tim hở.
13 trang |
Chia sẻ: thanhuyen291 | Ngày: 14/06/2022 | Lượt xem: 790 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu 23 đặc điểm trong và sau phẫu thuật của các trường hợp phẫu thuật tim hở có gây tê ngoài màng cứng hỗ trợ tại bệnh viện nhi đồng 1 từ 03-2010 đến 08-2011, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nhi Khoa 155
23 ĐẶC ĐIỂM TRONG VÀ SAU PHẪU THUẬT CỦA CÁC TRƯỜNG HỢP
PHẪU THUẬT TIM HỞ CÓ GÂY TÊ NGOÀI MÀNG CỨNG HỖ TRỢ TẠI
BỆNH VIỆN NHI ĐỒNG 1 TỪ 03-2010 ĐẾN 08-2011
Nguyễn Thị Minh Hiền*, Phạm Lê An**
TÓM TẮT
Mục tiêu nghiên cứu: Khảo sát kết quả và các biến chứng xảy ra trên các trường hợp mổ tim hở có gây tê
ngoài màng cứng hỗ trợ tại bệnh viện Nhi Đồng 1 từ 03-2010 đến 08-2011.
Phương pháp nghiên cứu: Mô tả hàng loạt ca.
Kết quả: Có 86 trường hợp, 40 nam và 46 nữ. Tuổi trung bình 31,25 ± 3,68 tháng, nhỏ nhất là 2 tháng
tuổi, cân nặng trung bình 9,71 ± 0,59 kg, nhỏ nhất là 3,6 kg. Tật tim có luồng thông trái – phải chiếm đến
68,9%, tứ chứng Fallot và tim bẩm sinh phức tạp ít hơn (15,2% và 14,2%). Bệnh cảnh lâm sàng trước phẫu
thuật thường nặng với suy dinh dưỡng chiếm 87,21%, suy tim chiếm 96,5%, tăng áp phổi chiếm 75,58%, cơn
tím thiếu oxy chiếm 17,4%. Chúng tôi không ghi nhận biến chứng nào liên quan đến gây tê trong quá trình phẫu
thuật cũng như giai đoạn hậu phẫu tại khoa hồi sức ngoại. Thời gian gây mê trung bình là 256,86 ± 65,55 phút,
thời gian đặt nội khí quản thở máy ngắn trung bình là 22.21 ± 3,3 giờ, thời gian hậu phẫu tại khoa Hồi sức ngoại
là 3,57 ± 0,39 ngày và tỷ lệ viêm phổi liên quan đến thở máy là 12,8%.
Kết luận: Qua bước đầu khảo sát việc ứng dụng phương pháp gây tê ngoài màng cứng hỗ trợ trong phẫu
thuật tim hở tại bệnh viện Nhi Đồng 1, chúng tôi nhận thấy những bệnh nhi này có thời gian hậu phẫu ngắn,
được rút nội khí quản sớm với tỷ lệ thành công khá cao, từ đó làm giảm tỷ lệ viêm phổi hậu phẫu và các biến
chứng khác liên quan đến nhiễm trùng bệnh viện, giảm thiểu chi phí điều trị, góp phần thành công lớn cho phẫu
thuật tim hở.
ABSTRACT
CHARACTERISTICS OF CHILDREN UNDERGOING OPEN HEART SURGERY
WITH EPIDURAL ANESTHESIA SUPPORT DURING AND AFTER SURGERY
AT CHILDREN’S HOSPITAL 1 FROM 03-2010 TO 08-2011
Nguyen Thi Minh Hien, Pham Le An
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 - Supplement of No 2 - 2012: 155 - 167
Objective: To survey the results and the complications of the epidural anesthesia support on children
undergoing open heart surgery at Children’s hospital 1
Methods: we reviewed the medical records of 86 patients undergoing open heart surgery with epidural
anesthesia support in Children’s hospital 1 from 03-2010 to 08-2011.
Results: There were 86 cases, 40 males and 46 females. Average age was 31.25 ± 3.68 months, the youngest
was 2 months, mean weight was 9.71 ± 0.59 kg, the lowest weight was 3.6 kg. The congenital heart disease with
left-right shunt accounted for 68.9% while the tetralogy of fallot and the complex congenital heart disease had less
than (15.2% and 14.2%). On clinical examination before surgery, all had been in a poor state of health, 87.21%
malnutrition, 96.5% heart failure, 75.58% pulmonary hypertension, 17.4% cyanotic spells. We didn’t find any
complication associated to the epidural anesthesia support during and after surgery at the resuscitative surgical
department. The mean of general anesthesia time is 256.86 ± 65.55 minutes, the mean time of intubation is 22.21
* Khoa Hồi sức ngoại bệnh viện Nhi Đồng 1 ** Bộ môn Nhi Đại học Y Dược Tp.HCM
Tác giả liên hệ: BS. Nguyễn Thị Minh Hiền, ĐT: 0908418120, Email: blacklonghair138@yahoo.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012
Chuyên Đề Nhi Khoa 156
± 3.3 hours, the mean time after surgery at the resuscitative surgical department is 3.57 ± 0.39 days. The
proportion of post-operative pneumonia was 12.8%.
Conclusion: Our data show that the application method of epidural anesthesia support during open heart
surgery at Children’s hospital 1 helped patients with a short postoperative period and were extubated early with a
high success rate, so it decreased the incidence of postoperative pneumonia and of other complications related to
nosocomial infection, minimized the cost of treatment, contributed to success for open heart surgery.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Tim bẩm sinh là một trong những bất
thường bẩm sinh hay gặp và là nguyên nhân
gây tử vong hàng đầu trong số các dị tật bẩm
sinh ở trẻ em. Theo thống kê, trong 5 năm (2005
– 2009) tại bệnh viện Nhi Đồng 1 TPHCM, có
13.957 trẻ nhập khoa tim mạch, trong đó 8.223
trẻ bệnh tim bẩm sinh, chiếm tỷ lệ 58,9%. Điều
trị nội khoa giúp giải quyết tạm thời các biến
chứng, các phương pháp can thiệp ngoại khoa
giúp giải quyết triệt để, đem lại cho bệnh nhi
một cuộc sống bình thường hoặc gần như bình
thường và giúp giảm tỷ lệ tử vong của bệnh tim
bẩm sinh. Nhiều nghiên cứu đã được tiến hành
nhằm giải quyết các vấn đề xung quanh quá
trình phẫu thuật tim hở cũng nhằm mục đích
trên. Trong nghiên cứu này chúng tôi chỉ muốn
đề cập đến một khía cạnh nhỏ đó là việc ứng
dụng biện pháp gây tê vô cảm trong phẫu thuật
tim hở, cụ thể là phương pháp gây tê ngoài
màng cứng, sẽ có những lợi ích gì cho bệnh nhi
trong cũng như sau phẫu thuật. Trên thế giới đã
có rất nhiều nghiên cứu quan tâm đến việc sử
dụng phương pháp gây tê ngoài màng cứng
trong phẫu thuật tim cho thấy phương pháp này
có khả năng làm giảm đáp ứng stress do phẫu
thuật, cải thiện chuyển hóa cơ tim và giảm đau
xung quanh việc phẫu thuật, làm giảm các bất
lợi của việc giảm nồng độ T3 (liothyronine) đi
kèm với biện pháp tuần hoàn ngoài cơ thể, cải
thiện chức năng phổi, ổn định huyết động và
kiểm soát đau giai đoạn hậu phẫu tốt hơn so với
gây mê toàn thân đơn thuần(4). Trong chừng
mực của gây tê ngoài màng cứng, bệnh nhi sẽ
được rút nội khí quản sớm có thể ngay tại
phòng mổ, từ đó tránh được những ảnh hưởng
bất lợi của thông khí cơ học sau phẫu thuật bao
gồm chấn thương vùng hầu họng, khí quản,
chấn thương áp lực, cơn cao áp phổi trong quá
trình hút đàm qua nội khí quản. Tuy nhiên,
những lợi ích này cũng đi kèm với những bất lợi
từ phương pháp gây tê vùng như các di chứng
do chấn thương tủy sống (đi kèm với khối tụ
máu ở trục thần kinh), nhiễm trùng ngoài màng
cứng, tụt huyết áp thứ phát sau ức chế thần kinh
giao cảm hay sau nôn ói và ứ CO2. Vì đây là
phương pháp mới ứng dụng từ tháng 03/2010
tại bệnh viện Nhi Đồng 1, chính vì thế mục tiêu
nghiên cứu của chúng tôi đặt ra là khảo sát đặc
điểm về dịch tễ, lâm sàng, cận lâm sàng và các
biến chứng trên bệnh nhi được ứng dụng
phương pháp gây tê ngoài màng cứng trong và
sau phẫu thuật tim hở.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN
CỨU
Thiết kế nghiên cứu
Mô tả hàng loạt ca
Đối tượng nghiên cứu
Bệnh nhi phẫu thuật tim hở được hỗ trợ gây
tê ngoài màng cứng tại bệnh viện Nhi Đồng 1
TP.HCM từ 03-2010 đến 08-2011
Cỡ mẫu nghiên cứu
Tất cả các trường hợp thỏa tiêu chí chọn vào
trong khoảng thời gian nghiên cứu
Tiêu chuẩn chọn mẫu
Tất cả các bệnh nhi phẫu thuật tim hở được
hỗ trợ gây tê ngoài màng cứng theo phác đồ của
khoa gây mê hồi sức tại bệnh viện Nhi Đồng 1
trong khoảng thời gian nghiên cứu
Tiêu chuẩn loại trừ
Hồ sơ bệnh án ghi nhận không đầy đủ các
dữ kiện trong bệnh án mẫu
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nhi Khoa 157
Phương pháp thu thập số liệu
Công cụ
Bảng thu thập số liệu ghi nhận các dữ liệu
của các biến số nghiên cứu từ hồ sơ bệnh án của
nhóm bệnh nhi được chọn
Phương pháp thu thập số liệu
Xin danh sách bệnh nhi phẫu thuật tim hở
được gây tê ngoài màng cứng hỗ trợ từ 03-2010
đến 08-2011 trong hệ thống lưu trữ dữ liệu của
bệnh viện Nhi Đồng 1 TP.HCM. Dựa vào danh
sách để tìm hồ sơ bệnh án tại phòng lưu trữ hồ
sơ. Dùng bảng thu thập số liệu để ghi nhận các
số liệu từ hồ sơ bệnh án.
Phương pháp xử lý và phân tích số liệu
Các dữ liệu thu được từ “Bảng thu thập số
liệu” được nhập vào máy vi tính dưới dạng tập
tin cơ sở dữ liệu. Sau đó chúng tôi tiến hành
tổng hợp và phân tích các biến số bằng phần
mềm vi tính Microsoft Office Excel 2007 và SPSS
18.
KẾT QUẢ
Đặc điểm của mẫu nghiên cứu trước phẫu
thuật
Đặc điểm dịch tễ
Giới tính: tỷ lệ nam và nữ trong nhóm
nghiên cứu không quá chênh lệch, xấp xỉ bằng
nhau với 40 bệnh nhi nam (46,51%) và 46 bệnh
nhi nữ (53,49%).
Tuổi: Bệnh nhân nhỏ tuổi nhất là 2 tháng
tuổi và lớn tuổi nhất là 14 tuổi, tuổi trung bình
là 31,25 ± 3,68 tháng. Nhóm bệnh nhi có độ tuổi
từ 1 tuổi đến 5 tuổi chiếm phần lớn với tỷ lệ gần
50% (44 bệnh nhi).
Địa chỉ: Nhóm bệnh nhân đến từ tỉnh chiếm
hơn ½ với tỷ lệ 74,42%.
Đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng trước
phẫu thuật
Tật tim bẩm sinh: Các bệnh lý tim bẩm sinh
được thực hiện phẫu thuật dưới sự hổ trợ của
phương pháp gây tê xương cùng tại bệnh viện
Nhi Đồng 1 vừa qua cũng khá đa dạng, từ
những tim bẩm sinh đơn giản đến phức tạp như
bất thường tĩnh mạch phổi về tim, tứ chứng
Fallot hay thất phải 2 đường ra. Các tật tim được
ghi nhận chủ yếu thuộc nhóm bệnh tim bẩm
sinh có luồng thông trái phải chiếm đến 68,9%,
tứ chứng Fallot và tim bẩm sinh phức tạp ít hơn
(15,2% và 14,2%).
Bảng 1: Các tật tim bẩm sinh được phẫu thuật
Tật tim Số bệnh nhi (%)
VSD 42 (48,8%)
Tứ chứng Fallot 13 (15,2%)
ASD 9 (10,5%)
Bất thường TM phổi về tim 5 (5,9%)
Tứ chứng Fallot/BT shunt 3 (3,5%)
ASD + VSD 2 (2,4%)
ALCAPA + MR + HF 1 (1,2%)
ASD + PDA 1 (1,2%)
ASD + sa 2 lá 1 (1,2%)
CoA + VSD 1 (1,2%)
Thất phải 2 đường ra 1 (1,2%)
Tim 3 buồng nhĩ 1 (1,2%)
Tim 3 buồng nhĩ + ASD 1 (1,2%)
Tứ chứng Fallot + ASD 1 (1,2%)
Tứ chứng Fallot + PDA 1 (1,2%)
U cơ tim dưới ĐM chủ 1 (1,2%)
VSD + MR 1 (1,2%)
VSD + Tim 3 buồng nhĩ 1 (1,2%)
Tình trạng suy tim: có 83 bệnh nhi (96,5%) có
biểu hiện suy tim với suy tim độ III chiếm đến
45,3% (39 ca), kế đến là suy tim độ II với 36,05%
(31 ca) và suy tim độ I là 15,12% (13 ca).
45.35%
36.05%
15.12%
3.49%
Độ III
Độ II
Độ I
Không
Biểu đồ 1: Phân bố về tình trạng suy tim trước phẫu
thuật
Áp lực động mạch phổi tâm thu: được ghi
nhận trên nhóm bệnh nhân không hẹp buồng
tống thất phải gồm 68 bệnh nhân với giá trị
trung bình là 62,13 mmHg, mức độ nặng
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012
Chuyên Đề Nhi Khoa 158
chiếm 66,17%, chỉ có 3 trường hợp là được
thông tim trước mổ vì tăng áp động mạch
phổi nặng có luồng thông 2 chiều, nghi ngờ
kháng lực mạch máu phổi đã tăng cao vượt
quá chỉ định phẫu thuật nên được thông tim
để đo kháng lực mạch máu.
45 9
11
3
Nặng
Trung bình
Nhẹ
Không
Biểu đồ 2: Phan bố tình trạng tăng áp động mạch
phổi trước phẫu thuật
Tiền căn lên cơn tím: được ghi nhận trên15
bệnh nhi (17,4%), tất cả đều là bệnh tứ chứng
Fallot.
Bệnh đi kèm trước phẫu thuật: có 19 bệnh
nhi chiếm tỷ lệ 22,1% là có bệnh lý đi kèm trước
mổ, chủ yếu là bệnh lý viêm phổi với 10,5%
trường hợp, đây cũng là bệnh lý thường gặp
nhất đi kèm với bệnh tim bẩm sinh ở trẻ em.
Bảng 2: Các bệnh đi kèm trước phẫu thuật
Bệnh Số bệnh nhi (%)
Viêm phổi 9 (10,5%)
Viêm phổi + GER 2 (2,3%)
GER 2 (2,3%)
Tán huyết nội mạch/đóng VSD bằng
dụng cụ
2 (2,3%)
Viêm hô hấp trên 1 (1,2%)
Viêm họng 1 (1,2%)
Viêm mạch máu tự miễn 1 (1,2%)
Viêm tiểu phế quản 1 (1,2%)
Tình trạng dinh dưỡng trước phẫu thuật:
bệnh nhi có cân nặng nhỏ nhất là 3,6 kg và lớn
nhất là 32 kg, cân nặng trung bình của nhóm
nghiên cứu là 9,71 ± 0,59 kg, nhóm bệnh nhi có
cân nặng từ 5 – 10 kg chiếm đa số với 48 ca. Tình
trạng suy dinh dưỡng của các bệnh nhi cũng
được ghi nhận với 61,63% là suy dinh dưỡng
trung bình đến nặng, chỉ có 12,79% bệnh nhi (11
trường hợp) là không bị suy dinh dưỡng.
27.91%
33.72%
25.58%
12.79%
Nặng
Trung bình
Nhẹ
Không
Biểu đồ 3: Đặc điểm về tình trạng suy dinh dưỡng
Các biến chứng xảy ra trong quá trình
phẫu thuật phòng mổ và giai đoạn hậu
phẫu tại hồi sức ngoại
Trong phòng mổ
Rối loạn huyết động học: có 42 ca (48,8%) có
rối loạn huyết động học cần sử dụng vận mạch
trong quá trình phẫu thuật.
Biến chứng khác: có 2 ca (2,3%) bất thường
tĩnh mạch phổi về tim vô rung thất trong phòng
mổ nghĩ nhiều do hạ Kali máu vì dùng Lasix
trước mổ.
Tại khoa Hồi sức ngoại
Biến chứng liên quan đến gây tê: không ghi
nhận trường hợp nào gặp các tác dụng phụ như
bí tiểu, nhiễm trùng tại chỗ, nhiễm trùng hay
abces khoang ngoài màng cứng, di chứng do
chấn thương tủy sống, đau lưng và chảy máu
hay máu tụ khoang ngoài màng cứng.
Biến chứng chảy máu sau phẫu thuật: có
10 trường hợp (11,6%) chảy máu sau mổ, chủ
yếu ghi nhận từ ống dẫn lưu ngực, không ảnh
hưởng các cơ quan khác và đáp ứng tốt với
điều trị nội khoa mà không cần phải phẫu
thuật lại để cầm máu.
Biến chứng giảm cung lượng tim sau mổ: có
8 trường hợp (9,3%) có biến chứng giảm cung
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nhi Khoa 159
lượng tim sau mổ, tất cả đều nằm trong nhóm
hậu phẫu tứ chứng Fallot.
Rối loạn nhịp tim: có 6 trường hợp (7 %) rối
loạn nhịp tim, trong đó
- 1 ca block A – V độ II Mobitz I sau hậu
phẫu TOF tự ổn định.
- 1 ca nhịp bộ nối không ảnh hưởng huyết
động học sau hậu phẫu VSD tự ổn định.
- 1 ca nhịp nhanh bộ nối JET sau mổ TOF
đáp ứng tốt với Cordarone.
- 1 ca rung thất trong phòng mổ TAPVR sau
tấn công Cordarone bị block xoang nhĩ cần sử
dụng máy tạo nhịp và dần hồi phục sau đó tại
hồi sức ngoại.
- 1 ca sau mổ VSD khoảng 6 giờ vô rung thất
được sốc điện, truyền Cordarone và uống duy
trì Cordarone + Digoxine
- 1 ca sau mổ TOF bị block A – V độ III
không hồi phục lệ thuộc máy và được đặt máy
tạo nhịp thượng tâm mạc vĩnh viễn sau đó 22
ngày.
Biến chứng toan hóa máu: có 55 trường hợp
(64%) bị toan hóa máu trong kết quả khí máu
đầu tiên ngay từ khi ra khỏi phòng mổ, trong đó
32 trường hợp (37,2%) toan hô hấp, 14 trường
hợp (16,3%) toan chuyển hóa và 9 trường hợp
(10,5%) toan hỗn.
Biến chứng rối loạn điện giải: Có 15 trường
hợp (17,4%) có rối loạn điện giải trong lần thử
đầu tiên ngay từ khi ra khỏi phòng mổ, trong đó
13 trường hợp hạ kali máu, 1 trường hợp hạ kali
và canxi máu, 1 trường hợp hạ magne máu.
Đặc điểm khác liên quan đến quá trình
phẫu thuật và giai đoạn hậu phẫu
Trong phòng mổ
Thời gian chạy tuần hoàn ngoài cơ thể trung
bình là 89,26 ± 4,12 phút, với trường hợp ngắn
nhất là 32 phút và lâu nhất là 270 phút.
Thời gian kẹp động mạch chủ trung bình là
48,44 ± 2,8 phút, với trường hợp ngắn nhất là 6
phút và lâu nhất là 155 phút.
Thời gian gây mê trung bình là 256,86 ± 7,07
phút, với trường hợp gây mê ngắn nhất là 110
phút và lâu nhất là 520 phút,
Thời gian từ lúc gây tê đến lúc rạch da trung
bình là 54,13 ± 1,69 phút, với trường hợp nhanh
nhất là 15 phút và lâu nhất là 100 phút.
Tại khoa Hồi sức ngoại
Thời gian nằm tại khoa hồi sức ngoại:
thời gian trung bình là 3,57 ± 0,39 ngày, với
trường hợp nằm ngắn nhất là 1 ngày và lâu nhất
là 29 ngày, đó là 1 ca tứ chứng Fallot sau mổ bị
block AV độ III phải đặt máy tạo nhịp vĩnh viễn,
bị tràn dịch màng tim và tràn dịch dưỡng trấp
phải mổ lại để dẫn lưu.
Thời gian đặt NKQ + thở máy: thời gian đặt
nội khí quản được tính từ lúc đặt trong phòng
mổ đến khi được rút tại khoa hồi sức ngoại,
trung bình là 22,21 ± 3,3 giờ, với trường hợp rút
sớm nhất sau 4,25 giờ và lâu nhất là 193,25 giờ,
đó là bệnh nhân tứ chứng Fallot đã làm BT
shunt trước và lần này được phẫu thuật sửa
chữa hoàn toàn, sau mổ rút NKQ thất bại 1 lần
do OAP và đây là tổng thời gian của cả 2 lần đặt
NKQ thở máy.
75
6 5
0
10
20
30
40
50
60
70
80
Dưới 48 giờ 48 giờ - 72
giờ
Trên 72 giờ
Biểu đồ 4: Phân bố theo thời gian đặt nội khí quản
Rút NKQ thất bại: có 3 trường hợp (3.5%) rút
NKQ thất bại tại khoa hồi sức ngoại
- 1 ca mổ đóng VSD được rút NKQ sau đó
vô rung thất phải đặt lại NKQ.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012
Chuyên Đề Nhi Khoa 160
- 1 ca tứ chứng Fallot vô cơn OAP phải đặt
lại NKQ thở máy.
- 1 ca tứ chứng Fallot bị block AV độ III và
tràn dịch màng tim phải đặt lại NKQ để mổ lại
dẫn lưu màng tim.
Thời gian lưu giữ các loại catheter, ống dẫn
lưu và sonde tiểu
Bảng 3: Thời gian lưu các loại catheter, ống dẫn lưu,
sonde tiểu
Tên dụng cụ Thời gian lưu
Catheter TM trung ương 70,2 ± 5,14 giờ (20 – 266 giờ)
Catheter động mạch 77.63 ± 5.89 giờ (20 – 266 giờ)
Ống dẫn lưu ngực 54.08 ± 3.8 giờ (17 – 235.75 giờ)
Sonde tiểu 42.42 ± 3.43 giờ (7.5 – 241 giờ)
Kết quả phẫu thuật: đánh giá về kết quả
phẫu thuật chúng tôi ghi nhận tỷ lệ suy tim sau
mổ và tăng áp động mạch phổi đã có sự thay
đổi khá rõ rệt với tỷ lệ suy tim sau mổ độ II và
III lần lượt là 37,21% và 10,47% so với trước mổ
là 36,05% và 45,35%, riêng áp lực động mạch
phổi tâm thu trung bình sau mổ là 33,91 ± 1,59
mmHg. Các trường hợp còn shunt tồn lưu sau
mổ ghi nhận chiếm tỷ lệ 24,4%.
10.47%
37.21%
36.05%
16.28%
Độ III
Độ II
Độ I
Không
Biểu đồ 5: Phân bố về tình trạng suy tim sau phẫu
thuật
10.29%
16.18%
17.65%
55.88%
Nặng
Trung bình
Nhẹ
Không
Biểu đồ 6: Phân bố tình trạng tăng áp động mạch
phổi sau phẫu thuật
Tình trạng viêm phổi hậu phẫu: dựa vào số
liệu thu thập được chúng tôi ghi nhận có 41
trường hợp (47,7%) là có viêm phổi trong quá
trình nằm tại khoa hồi sức ngoại, tuy nhiên nếu
dựa vào định nghĩa viêm phổi liên quan đến thở
máy (VAP) của hiệp hội lồng ngực (ATS) và
bệnh truyền nhiễm (IDSA) của Hoa Kỳ, chúng
tôi xác định chỉ có 11 trường hợp (12,8%) là có
viêm phổi do ảnh hưởng của vấn đề đặt nội khí
quản thở máy.
Nhiễm trùng huyết: có 15 trường hợp
(17,4%) là có biểu hiện nghi ngờ nhiễm trùng
huyết trên lâm sàng nhưng cũng như những
trường hợp viêm phổi chúng tôi không tìm thấy
tác nhân vi sinh gây bệnh nào trên các mẫu cấy
bệnh phẩm.
Biến chứng khác
Bảng 4: Các biến chứng khác gặp trong quá trình
hậu phẫu
Vấn đề Số bệnh nhi (%)
Tràn dịch màng tim
Tràn dịch dưỡng trấp
Nhiễm trùng vết mổ
6 (7%)
2 (2,3%)
1 (1,2%)
Tràn dịch màng tim + tràn dịch dưỡng
trấp
1 (1,2%)
Tràn khí đỉnh phổi phải 1 (1,2%)
Tràn khí màng phổi phải + nhiễm trùng
vết mổ
1 (1,2%)
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nhi Khoa 161
BÀN LUẬN
Đặc điểm của mẫu nghiên cứu trước phẫu
thuật
Đặc điểm dịch tễ
Giới tính: chúng tôi ghi nhận tỷ lệ nam và
nữ xấp xỉ bằng nhau. Trong một nghiên cứu
năm 2006 của Stefano Casalino tại Houston ghi
nhận rằng tình trạng hạ huyết áp thứ phát do ức
chế giao cảm sau gây tê vùng chiếm ưu thế ở
nhóm nữ giới hơn nam giới, mặc dù tình trạng
này đáp ứng rất tốt với liều thấp thuốc co mạch
tuy nhiên người ta vẫn khuyến cáo theo dõi cẩn
thận, nhất thiết phải có monitor cho những bệnh
nhân nữ có gây tê ngoài màng cứng vùng ngực
hỗ trợ nhằm hạ thấp tỷ lệ và độ nặng của biến
chứng này, tuy nhiên vẫn còn cần nhiều nghiên
cứu khác nữa để chứng minh rõ hơn liệu rằng
giới nữ có là đối tượng nguy cơ cao của hạ
huyết áp khi tiến hành gây tê hỗ trợ trong phẫu
thuật tim hay không(2).
Tuổi: bệnh nhân nhỏ tuổi nhất được thực
hiện phương pháp này là 2 tháng tuổi và lớn
tuổi nhất là 14 tuổi, điều này cho thấy đây là
phương pháp khá an toàn và có thể thực hiện
gần như ở mọi lứa tuổi, tuy nhiên vì là phương
pháp khá mới mẻ, mới được ứng dụng tại bệnh
viện Nhi Đồng 1 từ 03-2010 cho đến nay, nên
còn thận trọng giới hạn ở những bệnh nhi nhỏ
tuổi, chủ yếu tập trung nhiều ở nhóm tuổi từ 12
tháng trở lên, chiếm tỷ lệ 66.3%. Trên thế giới do
phương pháp này đã được ứng dụng từ khá
sớm nên người ta đã mạnh dạn thực hiện trên cả
những bệnh nhi trong độ tuổi sơ sinh và bệnh
nhân nhỏ tuổi nhất được ghi nhận là 7 ngày tuổi
trong nghiên cứu của Heinle JS và cộng sự.
Địa chỉ: nhóm bệnh nhân đến từ tỉnh chiếm
hơn ½ với tỷ lệ 74.42%, điều này cũng dễ nhận
thấy là vì Nhi Đồng 1 là bệnh viện tuyến cao,
một trong số í