Mục tiêu: Nghiên cứu này được thực hiện nhằm đánh giá sự ảnh hưởng của torus khẩu cái đến khả năng
gãy của phục hình răng tháo lắp toàn hàm hàm trên, thông qua giá trị ứng suất biến dạng của nền phục hình.
Phương pháp nghiên cứu: Mẫu nghiên cứu gồm 20 mẫu là 20 phục hình răng tháo lắp toàn hàm hàm trên,
chia làm hai nhóm bằng nhau, khác nhau ở đặc điểm được thực hiện trên mẫu hàm có hay không có torus khẩu cái.
Các phục hình của mỗi nhóm được sao chép từ một phục hình nguyên mẫu. Các phục hình hàm trên khớp với mẫu
hàm còn răng hàm dưới ở vị trí cắn khớp trung tâm, được tác động lực từ 0 N đến 110 N, mỗi bước tăng 10 N.
Sự khác biệt về giá trị ứng suất biến dạng giữa hai nhóm được xử lý bằng phép kiểm Mann Whitney U, giữa
hai vị trí của cùng một nhóm bằng phép kiểm Wilcoxon Signed Rank.
Kết quả: Tại bất kỳ mức độ tải lực nào, vùng khẩu cái trước của phục hình răng tháo lắp toàn hàm hàm trên
thực hiện trên mẫu hàm có hay không có torus đều chịu ứng suất căng, với giá trị ứng suất ở “phục hình – có torus”
là lớn hơn. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê từ mức tải lực 80 N trở lên (p<0,05) . Tại bất kỳ mức độ tải lực nào,
vùng khẩu cái sau của phục hình răng tháo lắp toàn hàm hàm trên có và không có torus chịu ứng suất biến dạng
hoàn toàn khác nhau. Phục hình không có torus chịu ứng suất nén còn phục hình có torus lại chịu ứng suất căng. Sự
hiện diện của torus đã làm thay đổi dạng ứng suất tác động trên vùng khẩu cái sau của nền phục hình.
Kết luận: Sự hiện diện của torus khẩu cái có ảnh hưởng đến ứng suất biến dạng tác động trên nền phục
hình răng tháo lắp toàn hàm hàm trên, theo hướng làm tăng nguy cơ gãy của phục hình.
8 trang |
Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 13/06/2022 | Lượt xem: 526 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Ảnh hưởng của torus khẩu cái trong sự gãy của nền phục hình răng tháo lắp toàn hàm do ứng suất biến dạng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 2 * 2015 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 89
ẢNH HƯỞNG CỦA TORUS KHẨU CÁI TRONG SỰ GÃY CỦA NỀN
PHỤC HÌNH RĂNG THÁO LẮP TOÀN HÀM DO ỨNG SUẤT BIẾN DẠNG
Nguyễn Thị Từ Uyên*, Lê Hồ Phương Trang**
TÓM TẮT
Mục tiêu: Nghiên cứu này được thực hiện nhằm đánh giá sự ảnh hưởng của torus khẩu cái đến khả năng
gãy của phục hình răng tháo lắp toàn hàm hàm trên, thông qua giá trị ứng suất biến dạng của nền phục hình.
Phương pháp nghiên cứu: Mẫu nghiên cứu gồm 20 mẫu là 20 phục hình răng tháo lắp toàn hàm hàm trên,
chia làm hai nhóm bằng nhau, khác nhau ở đặc điểm được thực hiện trên mẫu hàm có hay không có torus khẩu cái.
Các phục hình của mỗi nhóm được sao chép từ một phục hình nguyên mẫu. Các phục hình hàm trên khớp với mẫu
hàm còn răng hàm dưới ở vị trí cắn khớp trung tâm, được tác động lực từ 0 N đến 110 N, mỗi bước tăng 10 N.
Sự khác biệt về giá trị ứng suất biến dạng giữa hai nhóm được xử lý bằng phép kiểm Mann Whitney U, giữa
hai vị trí của cùng một nhóm bằng phép kiểm Wilcoxon Signed Rank.
Kết quả: Tại bất kỳ mức độ tải lực nào, vùng khẩu cái trước của phục hình răng tháo lắp toàn hàm hàm trên
thực hiện trên mẫu hàm có hay không có torus đều chịu ứng suất căng, với giá trị ứng suất ở “phục hình – có torus”
là lớn hơn. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê từ mức tải lực 80 N trở lên (p<0,05) . Tại bất kỳ mức độ tải lực nào,
vùng khẩu cái sau của phục hình răng tháo lắp toàn hàm hàm trên có và không có torus chịu ứng suất biến dạng
hoàn toàn khác nhau. Phục hình không có torus chịu ứng suất nén còn phục hình có torus lại chịu ứng suất căng. Sự
hiện diện của torus đã làm thay đổi dạng ứng suất tác động trên vùng khẩu cái sau của nền phục hình.
Kết luận: Sự hiện diện của torus khẩu cái có ảnh hưởng đến ứng suất biến dạng tác động trên nền phục
hình răng tháo lắp toàn hàm hàm trên, theo hướng làm tăng nguy cơ gãy của phục hình.
Từ khóa: Torus khẩu cái, Gãy phục hình tháo lắp toàn hàm hàm trên, Ứng suất biến dạng.
ABSTRACT
INFLUENCE OF PALATINUS TORUS ON THE FRACTURE OF UPPER REMOVABLE COMPLETE
DENTURE BASE DUE TO STRENGTH STRESS
Nguyen Thi Tu Uyen, Le Ho Phuong Trang,
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 19 - Supplement of No 2 - 2015: 89 - 96
Purpose: This research was carried out to evaluate the influence of palatinus torus on the fracture of upper
removable complete denture base by stress analysis.
Methods: 20 samples, which were upper removable complete dentures, were divided into 2 equal groups
which were differentiated by the exist of palatinus torus. Each specimen of each group was duplicated from one
prototype. The upper denture was mounted in centric occlusion with the lower dentulous cast and loaded from 0
N to 110 N with steps of 10 N. Stresses were calculated at anterior and posterior palate in the midline for each
denture specimen in both group. The statistical significance of the differences in the stress magnitudes between
two groups was evaluated by Mann Whitney test and those between two positions of one group were evaluated by
Wilcoxon Signed Rank test.
Results: Anterior palatal region of denture base with or without torus was dominated by a tensile stress at
* Khoa Răng Hàm Mặt, Đại học Y Dược Tp.HCM ** Khoa Răng Hàm Mặt, Đại học Y Dược Tp.HCM
Tác giả liên lạc: BS Nguyễn Thị Từ Uyên ĐT: 0909662905 Email: uyen.dds@gmail.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 2 * 2015
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 90
any load level, which was greater in “Torus-group”. There was statistical significance of differences from load
level 80 N above (p < 0.05). Posterior palatal region of denture base was dominated by different stresses between
two groups. In “non-torus group” it was compressive stress while in “torus group” it’s tensile stress.
Conclusion: The exist of torus has altered the stresses on posterior area of denture base, from compressive to
tensile.
All in one word, palatinus torus had the influence on stress on upper complete denture base in trend of
raising fracture risk.
Key words: Palatinus torus, Tensile stress, Compressive stress, Denture fracture.
MỞ ĐẦU
Trong số các trường hợp đến sửa chữa phục
hình tháo lắp sau giao hàm, có đến 58% là do gãy
phục hình răng tháo lắp toàn hàm, trong đó tỉ lệ
phục hình hàm trên gãy gấp đôi hàm dưới(5). Các
yếu tố nguy cơ gây gãy hàm giả đã được xác
định là vị trí sắp răng, bề dày nền hàm và sự khít
sát của phục hình. Trong các yếu tố đó, sự tồn tại
của torus một mặt giúp gia tăng diện tích tiếp
xúc của nền hàm, giúp tăng giữ dính của phục
hình, một mặt torus đóng vai trò là tâm của đòn
bẩy, làm nền hàm kém ổn định – là yếu tố nguy
cơ làm phục hình gãy.
Gãy phục hình răng tháo lắp toàn hàm hàm
trên thường xảy ra ở đường giữa, sự hiện diện
của torus khẩu cái cũng ở đường giữa, khiến một
số bác sĩ lâm sàng cho rằng torus dễ gây gãy
hàm giả và cổ vũ mạnh mẽ việc cắt bỏ chúng.
Tuy nhiên, đây chỉ là những nhận định chủ
quan, vì thực tế, qua các nghiên cứu(3,5,11,12,13),
chúng ta biết rằng phục hình răng tháo lắp toàn
hàm hàm trên thường gãy ở đường giữa, nhưng sự
hiện diện của torus có làm tăng nguy cơ gãy hàm giả
hay không thì chưa được chứng minh. Do đó, nhu
cầu tìm ra câu trả lời cho vấn đề này là thực sự
cần thiết, đặc biệt đối với Việt Nam khi mà có
đến 52,57% bệnh nhân mất răng toàn bộ người
Việt có torus khẩu cái(6).
Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu tổng quát
Đánh giá ảnh hưởng của torus khẩu cái đối
với ứng suất biến dạng tác động trên nền phục
hình răng tháo lắp toàn hàm hàm trên.
Mục tiêu chuyên biệt
Phân tích ứng suất biến dạng tác động trên
nền phục hình răng tháo lắp toàn hàm hàm trên.
So sánh ứng suất biến dạng tác động trên
nền phục hình răng tháo lắp toàn hàm hàm
trên thực hiện trên hàm có torus với ứng suất
biến dạng tác động trên nền phục hình răng
tháo lắp toàn hàm hàm trên thực hiện trên
hàm không có torus.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Mẫu nghiên cứu gồm 20 mẫu là 20 phục
hình răng tháo lắp toàn hàm (PHRTLTH) hàm
trên, chia làm hai nhóm bằng nhau. Nhóm I:
PHRTLTH hàm trên thực hiện trên mẫu hàm
không có torus. Nhóm II: PHRTLTH hàm trên
thực hiện trên mẫu hàm có torus.
Tạo mẫu hàm mất răng toàn bộ có torus và
tạo các khuôn đổ mẫu hàm thạch cao
Dùng khuôn mất răng toàn bộ hàm trên làm
sẵn (khuôn 402U), đổ mẫu. Đắp sáp tạo torus
khẩu cái nằm ở vị trí trước – giữa – sau, dạng
thoi theo phân loại của Thoma và Goldman, có
kích thước 25 x 12 x 5 mm (Hình 1).
Hình 1: Torus nằm ở vị trí trước – giữa – sau, dạng
thoi theo phân loại của Thoma và Goldman, có kích
thước 25 x 12 x 5 mm
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 2 * 2015 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 91
Từ mẫu hàm thạch cao có torus này, dùng
chất làm khuôn Vitaflex đúc một khuôn tương
ứng. Trên mỗi mẫu hàm này, tạo lớp sáp giả
niêm mạc dày 3 mm trên tất cả vị trí nền mẫu
hàm (đối với mẫu hàm có torus, vị trí ngay trên
torus có lớp sáp niêm mạc 1,5 mm). Dùng vật
liệu làm khuôn Vitaflex để đúc khuôn mẫu hàm
có lớp sáp giả niêm mạc.
Tạo các phục hình răng tháo lắp toàn hàm
hàm trên nguyên mẫu cho mỗi nhóm
Sử dụng 02 giá khớp bán điều chỉnh Quick
Master cho hai nhóm, vẽ đường đỉnh sống hàm
trên mẫu hàm thạch cao. Làm nền tạm gối sáp,
lên giá khớp bằng bàn lên răng tự ý. Vô giá khớp
hàm dưới sao cho độ cắn phủ 2 mm, độ cắn chìa
2 mm, tương quan trước sau hạng I. Sắp răng sao
cho đường trũng giữa răng sau nằm ngay trên
đỉnh sống hàm, và tạo khớp cắn ổn định với
răng hàm dưới (Hình 2).
Hình 2: Hai mẫu hàm làm việc của hai nhóm được
lên giá khớp với tương quan trước sau hạng I. Sắp
răng sao cho đường trũng giữa răng sau nằm trên
đỉnh sống hàm, tạo khớp cắn ổn định với hàm dưới.
Sao chép các PHRTLTH hàm trên nguyên
mẫu thành các PHRTLTH hàm trên bản sao
nền sáp
Tạo 10 PHRTLTH hàm trên cho mỗi nhóm
bằng cách sao chép phục hình nguyên mẫu của
mỗi nhóm. Kỹ thuật sao chép là kỹ thuật sử
dụng vật liệu sao chép không hoàn nguyên, có
thành phần polyvinyl siloxane: Correcsil, hãng
Yahamachi, Nhật Bản.
Tạo các phục hình răng tháo lắp toàn hàm
hàm trên bằng nhựa nấu
Các phục hình sao bằng sáp được vô múp
bằng múp Hanau. Quy trình vô múp và ép nhựa
được thực hiện với càng ép thủy lực, dưới áp
suất 100 kg/cm2, và lò nấu nhựa Emmevi (Ý).
Quy trình nấu nhựa được thực hiện theo hướng
dẫn của nhà sản xuất Meliodent.
Sau khi có các PHRTLTH hàm trên bằng
nhựa nấu của hai nhóm, kiểm tra lại độ dày nền
hàm của từng phục hình với tiêu chuẩn độ dày
nền hàm là 2 mm (kiểm tra bằng thước kẹp).
Kiểm tra lại sự dịch chuyển răng bằng khóa
cao su putty (tương tự như với phục hình sao
nền sáp) và điều chỉnh khớp cắn để đạt khớp cắn
tối ưu (Hình 3).
Hình 3: Kiểm tra lại khớp cắn của phục hình sao nền
nhựa.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 2 * 2015
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 92
Quét cao su lấy dấu độ nhớt thấp Exaflex
(GC, Nhật) vào mặt niêm mạc của các phục hình
hàm trên, đặt lên mẫu hàm không có giả lập
niêm mạc tương ứng. Lớp cao su này mô phỏng
lớp niêm mạc khẩu cái, có độ dày 3mm (trên vị
trí có torus dày 1,5 mm).
Phân tích ứng suất biến dạng tác động trên
nền phục hình răng tháo lắp toàn hàm hàm
trên
Dùng bút xác định vị trí đo trên mỗi mẫu. Ở
vùng khẩu cái trước: trên đường giữa, ngang
mức phía gần của răng cối nhỏ thứ nhất hàm
trên. Ở vùng khẩu cái sau: trên đường giữa, cách
giới hạn sau của nền phục hình 7 mm.
Gắn các strain gage (Digikey – Hoa Kỳ) vào
các vị trí đã được đánh dấu, trên mặt láng của
phục hình bằng chất dán có gốc cyanoacrylate
(Vishay, Hoa Kỳ) sao cho điểm đánh dấu nằm ở
tâm của strain gage (Hình 4a, 4b).
Hình 4a: Đánh dấu vị trí gắn strain gages.
Hình 4b: Strain gage được gắn bằng chất dán có gốc
cyanoacrylate
Các strain gage này được nối với máy đo
ứng suất biến dạng (hãng Tokyo Sokki
Kenkyujo, Nhật Bản). Mỗi PHRTLTH HT khớp
với mẫu hàm thạch cao HD ổn định ở vị trí cắn
khớp trung tâm (mẫu hàm hàm trên nằm dưới,
mẫu hàm hàm dưới nằm trên). Tác động lực tăng
dần từ 0 N đến 110 N, mỗi bước tăng 10 N. Ứng
suất phát sinh trong nền phục hình sẽ được ghi
nhận, tính toán và hiển thị trên màn hình của
máy đo (Hình 5a, 5b). Mô-đun đàn hồi của nhựa
PMMA làm vật liệu nền hàm là 2350 MPa.
5a 5b
Hình 5a: Tác động lực từ 0N đến 110N,
mỗi bước tăng 10N
Hình 5b: Mô hình các thiết bị ghi nhận giá trị ứng suất biến dạng.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 2 * 2015 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 93
Nhập dữ liệu và xử lý số liệu bằng phần
mềm SPSS 16.0 với số trung bình, độ lệch chuẩn
và hệ số tương quan.
Kiểm định tính chuẩn cho biến định lượng
có phân nhóm: Dùng kiểm định Skewness,
Kurtosis; kết hợp kiểm định Shapiro Wilk cho cỡ
mẫu dưới 50.
Sự khác biệt về giá trị ứng suất biến dạng
giữa hai nhóm được xử lý bằng phép kiểm
Mann Whitney U.
Sự khác biệt về giá trị ứng suất biến dạng
giữa hai vị trí của cùng một nhóm được xử lý
bằng phép kiểm Wilcoxon Signed Rank.
KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN
Vùng khẩu cái trước của phục hình không có
torus chịu ứng suất căng, với giá trị ứng suất
tăng dần khi tăng lực tải tác động lên phục hình
(Bảng 1, biểu đồ 1). Kết quả này phù hợp với các
nghiên cứu phân tích ứng suất tác động lên phục
hình răng tháo lắp toàn hàm hàm trên của Ravi
(2010)(10), Prombonas (2002)(8). Cả hai nghiên cứu
đều khẳng định khi tăng lực tải tác động lên
phục hình theo chiều thẳng đứng ở tư thế khớp
cắn ổn định thì có sự tăng ứng suất căng ở vùng
khẩu cái trước của nền phục hình.
Vùng khẩu cái sau của PHRTLTH hàm trên
ở mẫu hàm không có torus chịu ứng suất nén,
với giá trị ứng suất nén tăng dần khi tăng lực tải
tác động (Bảng 1, Biểu đồ 1). Kết quả nghiên cứu là
tương đồng với nghiên cứu cùng loại của Ravi và
Prombanas: càng tăng lực tải tác động lên phục hình,
giá trị ứng suất nén ở vùng khẩu cái sau càng
tăng(8,10).
Bảng 1: Giá trị trung bình ứng suất biến dạng tác
động trên nền phục hình không torus
Lực
tải (N)
N
Giá trị trung bình (MPa) và Độ lệch chuẩn
Vùng khẩu cái trước Vùng khẩu cái sau
TB ĐLC TB ĐLC
10 10 +0,096* 0,011 -0,116* 0,063
20 10 +0,188* 0,059 -0,181* 0,091
30 10 +0,306* 0,112 -0,263* 0,136
40 10 +0,397* 0,147 -0,319* 0,170
50 10 +0,479* 0,142 -0,371* 0,203
Lực
tải (N)
N
Giá trị trung bình (MPa) và Độ lệch chuẩn
Vùng khẩu cái trước Vùng khẩu cái sau
TB ĐLC TB ĐLC
60 10 +0,542* 0,171 -0,407* 0,218
70 10 +0,611* 0,191 -0,435* 0,221
80 10 +0,659* 0,201 -0,466* 0,223
90 10 +0,713* 0,224 -0,495* 0,241
100 10 +0,764* 0,225 -0,507* 0,256
110 10 +0,823* 0,246 -0,539* 0,254
Giá trị (+) chỉ thị ứng suất căng ; Giá trị (-) chỉ thị ứng suất
nén. (*): Phân phối chuẩn, Kiểm định Shapiro Wilk (p >
0,05)
Vùng khẩu cái trước của phục hình có torus
chịu ứng suất căng, với giá trị ứng suất tăng dần
khi tăng lực tải tác động lên phục hình (Bảng 2,
biểu đồ 1). Có thể nói rằng, dù có hay không có
torus, sắp răng trên đỉnh sống hàm hay ra ngoài
sống hàm thì vùng khẩu cái trước của phục hình
răng tháo lắp toàn hàm hàm trên luôn luôn chịu
ứng suất căng, vuông góc đường giữa(8,10).
Vùng khẩu cái sau của “phục hình – có torus”
cũng chịu ứng suất căng ở bất kỳ mức độ lực tải nào,
với giá trị ứng suất căng tăng dần khi tăng lực tải
tác động lên phục hình (Bảng 2). Đây là điểm khác
biệt lớn so với một vài nghiên cứu ứng suất biến dạng
tác động trên phục hình tháo lắp toàn hàm, khi khẳng
định vùng khẩu cái sau chịu ứng suất nén là chủ đạo.
Vì chưa có nghiên cứu phân tích ứng suất biến
dạng trên đối tượng PHRTLTH hàm trên thực
hiện trên mẫu hàm có torus nên không có dữ
liệu để đối chiếu. Tuy nhiên, điều này có thể
được lý giải theo cách: cho dù vùng khẩu cái sau
chịu ứng suất nén là chủ đạo, nhưng vẫn có
thành phần ứng suất căng dù rất nhỏ(8). Ứng suất
căng luôn vuông góc với đường giữa, nhưng
ứng suất nén lại có hướng không ổn định, có thể
hướng về bề mặt mô, có thể trùng trục giữa hoặc
có hướng lệch tâm(8). Sự hiện diện của torus có thể
làm thay đổi hướng của ứng suất nén tác động lên
vùng khẩu cái sau của phục hình, làm triệt tiêu ứng
suất nén và tăng ứng suất căng.
Khi so sánh giá trị ứng suất căng giữa vùng
khẩu cái trước và vùng khẩu cái sau của “phục
hình – có torus”, có thể thấy vùng khẩu cái trước
chịu ứng suất căng lớn hơn, ở bất kỳ mức độ tải lực
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 2 * 2015
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 94
nào và sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê ở độ
tin cậy 95% (p < 0,05) (Bảng 2, biểu đồ 1).
Bảng 2: So sánh giá trị trung bình ứng suất biến
dạng tác động trên vùng khẩu cái trước và vùng khẩu
cái sau của phục hình có torus
Lực
tải (N)
n
Giá trị trung bình (MPa)
Z P Vùng khẩu
cái trước
Vùng khẩu
cái sau
10 10 +0,106* +0,067* -2,601 0,009
20 10 +0,202* +0,135* -2.295 0,022
30 10 +0,288* +0,189* -2,803 0,005
40 10 +0,445* +0,237* -2,803 0,005
50 10 +0,554* +0,293* -2,803 0,005
60 10 +0,645* +0,349* -2,803 0,005
70 10 +0,746* +0,394* -2,803 0,005
80 10 +0,830* +0,445* -2,803 0,005
90 10 +0,921* +0,486* -2,803 0,005
100 10 +1,035* +0,523* -2,805 0,005
110 10 +1,145* +0,567* -2,803 0,005
Giá trị (+) chỉ thị ứng suất căng ; Giá trị (-) chỉ thị ứng suất
nén. (*): Phân phối chuẩn, Kiểm định Shapiro Wilk so sánh
giá trị ứng suất vùng khẩu cái trước với giá trị ứng suất
vùng khẩu cái sau nền phục hình có torus. Z: Wilcoxon
Signed Rank, p: mức ý nghĩa
Tại bất kỳ mức độ tải lực nào, vùng khẩu cái
trước của phục hình răng tháo lắp toàn hàm hàm
trên có hay không có torus đều chịu ứng suất
căng, với giá trị ứng suất căng ở “phục hình – có
torus” lớn hơn ở “phục hình – không torus”
(Bảng 3, biểu đồ 1). Sự khác biệt là không có ý nghĩa
thống kê ở các mức tải lực từ 10 N đến 70 N (p>0,05).
Tuy nhiên, từ mức tải lực 80 N trở lên, có sự khác
biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05) về giá trị ứng suất
căng ở vùng khẩu cái trước của phục hình có và
không có torus. Khi tăng dần lực tải, ứng suất căng
ở vùng khẩu cái trước của cả hai nhóm phục
hình đều tăng dần.
Ở vùng khẩu cái sau, trong khi “phục hình –
không torus” chịu ứng suất nén thì “phục hình –
có torus” lại chịu ứng suất căng. Cho dù là ứng
suất căng hay nén, khi tăng lực tải tác động lên
phục hình thì độ lớn của ứng suất trên vùng
khẩu cái sau của cả hai loại phục hình này đều
tăng (Biểu đồ 1).
Cũng như các nghiên cứu cùng đề tài về
phân tích ứng suất trên phục hình răng tháo lắp
toàn hàm hàm trên, điều có vẻ vô lý ở đây là mặc
dù các răng sau chịu lực chính trong quá trình
nhai thì vết nứt gãy của phục hình lại luôn bắt
đầu từ vùng khẩu cái trước, nơi có các răng cửa
và răng nanh gần như không tiếp xúc nhau ở tư
thế cắn khớp trung tâm.
Biểu đồ 1: Giá trị ứng suất biến dạng ở vùng khẩu
cái trước và sau của Phục hình có và không có Torus
Các nghiên cứu đã chỉ ra cơ chế gãy của
phục hình tháo lắp toàn hàm dựa trên sự thay
đổi ứng suất biến dạng của nền phục hình.
Ứng suất căng thấp nhất ở vị trí ngay dưới
răng giả, tăng dần ở sườn nghiêng của vòm khẩu
cái, và lớn nhất ở đường giữa bất kể vùng khẩu
cái trước hay sau; độ sâu vòm khẩu càng lớn thì
ứng suất căng càng cao(1). Về chiều hướng, ứng
suất căng hiện diện ở vùng khẩu cái trước có
hướng vuông góc với đường giữa. Trong khi đó,
ứng suất ở vùng khẩu cái sau có hướng không
ổn định, có thể hướng về bề mặt mô hoặc trùng
đường giữa, với giá trị ứng suất nén tại vị trí bên
dưới răng và trên đỉnh sống hàm cao hơn các vị
trí hướng về khẩu cái(2,8,9,10). Có sự thay đổi
hướng của ứng suất nén ở vùng khẩu cái sau xảy
ra do sự biến dạng và dịch chuyển của nền phục
hình (dù không nhìn thấy được bằng mắt), khi
có sự tiếp xúc răng(8).
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 2 * 2015 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 95
Phục hình răng tháo lắp toàn hàm thông
thường làm bằng nhựa polymethyl methacrylate
resin (PMMA) và vật liệu này có khuynh hướng
bị nứt gãy dưới những lực tác động có chu kỳ(9).
Do bản chất của vật liệu nền hàm là giòn, chịu
được ứng suất nén tốt hơn ứng suất căng nên vết
nứt gãy luôn bắt đầu từ vùng khẩu cái trước -
nơi có ứng suất căng cao. Bản thân phục hình
răng tháo lắp toàn hàm đã có một ứng suất biến
dạng nội tại, tuy nhiên, ứng suất này nằm trong
ngưỡng giới hạn của vật liệu(7). Khi có một lực
tác động đột ngột hoặc ứng suất mỏi tích lũy
vượt ngưỡng chịu đựng của nền phục hình thì sẽ
xuất hiện vết nứt(4). Vết nứt bắt đầu từ vùng
thắng môi(7) và vùng khẩu cái trước(4,7), tuy nhiên
không phải lúc nào cũng làm nền hàm gãy thành
hai mảnh vì còn phụ thuộc độ lớn và hướng của
ứng suất nén ở vùng khẩu cái sau. Trong những
tình huống khi sự lan truyền vết nứt đi qua vùng
khẩu cái sau mà ứng suất nén tại đây thấp hơn
ứng suất căng - vốn vuông góc với đường giữa –
và ứng suất nén không hướng về bề mặt mô thì
nền hàm gãy làm hai mảnh(10).
Kết quả đo ứng suất biến dạng trong
nghiên cứu này cho thấy, sự hiện diện của torus
khẩu cái làm tăng ứng suất căng ở vùng khẩu cái
trước, và làm thay đổi hoàn toàn dạng ứng suất ở
vùng khẩu cái sau, chuyển từ ứng suất nén thành
ứng suất căng.
Trên một hàm giả toàn phần, khi có nguồn
tạo vết nứt (có thể do khớp cắn không hài hòa)
thì vết nứt sẽ xuất hiện trước tiên ở vùng khẩu
cái trước – nơi có ứng suất căng vốn vuông
góc đường giữa. Sau đó là sự lan truyền đến
vùng khẩu cái sau, có thể vết nứt sẽ dừng lại
hoặc chuyển hướng, đưa đến kết quả phục
hình còn nguyên vẹn hoặc tách làm hai mảnh,
tùy thuộc vào độ lớn và hướng của ứng suất
nén tại vùng khẩu cái sau. Tuy nhiên, trên một
“phục hình – có torus”, vùng khẩu cái trước,
vốn dĩ đã