Ảnh hưởng của việc sử dụng kẹo cao su chứa xylitol lên đặc điểm mảng bám răng của trẻ 8 - 9 tuổi có tình trạng sâu răng cao tại huyện Bình Chánh, TP HCM năm 2012

Mục tiêu: Đánh giá sự thay đổi tình trạng mảng bám và so sánh sự khác biệt về tình trạng mảng bám (mảng bám non, trưởng thành, axit và mảng bám nói chung) giữa trẻ 8-9 tuổi có tình trạng sâu răng cao, sống trong vùng không fluor hóa nước máy (huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh) sau 1 tháng và 6 tháng sử dụng kẹo cao su chứa xylitol. Phương pháp: Thử nghiệm lâm sàng mù đơn có nhóm chứng trên trẻ em 8-9 tuổi có tình trạng sâu răng cao (SMT-R+smt-r ≥ 3) đang học tại trường tiểu học Nguyễn Văn Trân, xã Đa Phước, huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh. 153 học sinh được xếp vào nhóm thử nghiệm (nhai kẹo cao su chứa xylitol mỗi ngày 4 lần, mỗi lần nhai 2 viên trong ít nhất 5 phút, không đánh răng sau khi nhai kẹo tối thiểu 1 tiếng đồng hồ) và 147 học sinh được xếp vào nhóm chứng (không nhai kẹo). Các đặc điểm mảng bám răng của trẻ được đánh giá bằng chỉ số Quigley Hein biến đổi (QHI) sau khi sử dụng chất nhuộm màu mảng bám Tri Plaque ID Gel của hãng GC (3 mức là non, trưởng thành, axit). Kết quả: Có sự khác biệt có ý nghĩa về chênh lệch QHI mảng bám non giữa nhóm thử nghiệm và nhóm chứng ở thời điểm sau 1 tháng so với ban đầu (∆T1-T0), nhưng sự chênh lệch giữa thời điểm 6 tháng so với ban đầu (∆T6-T0) thì không khác biệt có ý nghĩa giữa hai nhóm nghiên cứu. Không có sự khác biệt có ý nghĩa về chênh lệch QHI mảng bám trưởng thành ở thời điểm sau 1 tháng (∆T1-T0) và 6 tháng (∆T6-T0) so với ban đầu giữa nhóm thử nghiệm và nhóm chứng. Mảng bám axit giảm có ý nghĩa ở nhóm nhai kẹo cao su chứa Xylitol so với nhóm không nhai kẹo sau 1 tháng và sau 6 tháng ở nhóm trẻ có tình trạng sâu răng cao. Kết luận: Sử dụng kẹo cao su chứa 4,8g xylitol 4 lần mỗi ngày trong 6 tháng có tác dụng giảm mảng bám axit dài hạn (đến 6 tháng) và giảm ngắn hạn (đến 1 tháng) đối với mảng bám non, mảng bám trưởng thành cũng như mảng bám nói chung. Sự giảm mảng bám nói trên của nhóm nhai kẹo cao su chứa xylitol khác biệt có ý nghĩa so với nhóm không nhai kẹo

pdf8 trang | Chia sẻ: thanhuyen291 | Ngày: 15/06/2022 | Lượt xem: 433 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Ảnh hưởng của việc sử dụng kẹo cao su chứa xylitol lên đặc điểm mảng bám răng của trẻ 8 - 9 tuổi có tình trạng sâu răng cao tại huyện Bình Chánh, TP HCM năm 2012, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013 Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 280 ẢNH HƯỞNG CỦA VIỆC SỬ DỤNG KẸO CAO SU CHỨA XYLITOL LÊN ĐẶC ĐIỂM MẢNG BÁM RĂNG CỦA TRẺ 8 – 9 TUỔI CÓ TÌNH TRẠNG SÂU RĂNG CAO TẠI HUYỆN BÌNH CHÁNH, TP.HCM NĂM 2012 Nguyễn Thị Vĩnh Phúc*, Ngô Thị Quỳnh Lan* TÓM TẮT Mục tiêu: Đánh giá sự thay đổi tình trạng mảng bám và so sánh sự khác biệt về tình trạng mảng bám (mảng bám non, trưởng thành, axit và mảng bám nói chung) giữa trẻ 8-9 tuổi có tình trạng sâu răng cao, sống trong vùng không fluor hóa nước máy (huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh) sau 1 tháng và 6 tháng sử dụng kẹo cao su chứa xylitol. Phương pháp: Thử nghiệm lâm sàng mù đơn có nhóm chứng trên trẻ em 8-9 tuổi có tình trạng sâu răng cao (SMT-R+smt-r ≥ 3) đang học tại trường tiểu học Nguyễn Văn Trân, xã Đa Phước, huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh. 153 học sinh được xếp vào nhóm thử nghiệm (nhai kẹo cao su chứa xylitol mỗi ngày 4 lần, mỗi lần nhai 2 viên trong ít nhất 5 phút, không đánh răng sau khi nhai kẹo tối thiểu 1 tiếng đồng hồ) và 147 học sinh được xếp vào nhóm chứng (không nhai kẹo). Các đặc điểm mảng bám răng của trẻ được đánh giá bằng chỉ số Quigley Hein biến đổi (QHI) sau khi sử dụng chất nhuộm màu mảng bám Tri Plaque ID Gel của hãng GC (3 mức là non, trưởng thành, axit). Kết quả: Có sự khác biệt có ý nghĩa về chênh lệch QHI mảng bám non giữa nhóm thử nghiệm và nhóm chứng ở thời điểm sau 1 tháng so với ban đầu (∆T1-T0), nhưng sự chênh lệch giữa thời điểm 6 tháng so với ban đầu (∆T6-T0) thì không khác biệt có ý nghĩa giữa hai nhóm nghiên cứu. Không có sự khác biệt có ý nghĩa về chênh lệch QHI mảng bám trưởng thành ở thời điểm sau 1 tháng (∆T1-T0) và 6 tháng (∆T6-T0) so với ban đầu giữa nhóm thử nghiệm và nhóm chứng. Mảng bám axit giảm có ý nghĩa ở nhóm nhai kẹo cao su chứa Xylitol so với nhóm không nhai kẹo sau 1 tháng và sau 6 tháng ở nhóm trẻ có tình trạng sâu răng cao. Kết luận: Sử dụng kẹo cao su chứa 4,8g xylitol 4 lần mỗi ngày trong 6 tháng có tác dụng giảm mảng bám axit dài hạn (đến 6 tháng) và giảm ngắn hạn (đến 1 tháng) đối với mảng bám non, mảng bám trưởng thành cũng như mảng bám nói chung. Sự giảm mảng bám nói trên của nhóm nhai kẹo cao su chứa xylitol khác biệt có ý nghĩa so với nhóm không nhai kẹo. Từ khoá: Xylitol, sâu răng, trẻ em ABSTRACT EFFECT OF CONSOMMATION OF CHEWING GUM CONTAINING XYLITOL ON DENTAL PLAQUE AMONG 8-9 YEAR OLD CHILDREN WITH HIGH CARIES PREVALENCE AT BINH CHANH DISTRICT, HOCHIMINH CITY IN 2012 Nguyen Thi Vinh Phuc, Ngo Thi Quynh Lan * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 - Supplement of No 2 - 2013: 280 - 287 Objectives: To assess the plaque status (immature, mature and acid plaque and plaque in general) and compare the difference in the state of plaque among children 8-9 years of age with high caries status, living in areas without fluoride water (Binh Chanh district, Ho Chi Minh City) after 1 month and 6 months using candy gum containing xylitol. * Khoa Răng Hàm Mặt, Đại học Y Dược Tp.HCM Tác giả liên lạc: PGS Ngô Thị Quỳnh Lan, ĐT: 0903125864, Email: ngothiquynhlan@yahoo.com Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 281 Methods: Single-blind clinical trial with a control group on children 8-9 years of high caries status (DMT-R + dmt-r ≥ 3) in Nguyen Van Tran primary school, Binh Chanh district, Ho Chi Minh City: 153 students for the test group (using chewing gum containing xylitol 4 times daily, each time with 2 tablets chewed for at least 5 minutes, without tooth brushing at least 1 hour after chewing up) and 147 students for the control group (without chewing). The plaque characteristics of the children were assessed by using the modified Quigley Hein index (QHI) after using Tri Plaque ID Gel of GC to confirm the presence of dental plaque (young, mature, acid). Results: In young plaque, there was a significant difference in preterm of the QHI plaque between the experimental group and the control group after 1 month comparing with the initial (ΔT1-T0), no difference between 6 months after comparing with baseline (ΔT6-T0). In mature plaque, there was no significant difference between the QHI after 1 month and at baseline (ΔT1-T0) and between 6 months and baseline (ΔT6-T0). The acid plaque was significantly reduced in the group using chewing gum containing xylitol in comparing with the other group after 1 month and after 6 months. Conclusion: The use of chewing gum containing 4.8 g of xylitol four times daily for 6 months was associated with reduced acid plaque in long-term (up to 6 months) and reduced preterm plaque, mature plaque as well as plaque in general short-term (up to 1 month). Key words: Xylitol, carie, children ĐẶT VẤN ĐỀ Chiến lược dự phòng sâu răng hiện đại tập trung vào kiểm soát những yếu tố liên quan trực tiếp đến bệnh sinh sâu răng như chế độ ăn, mảng bám răng, vi khuẩn... Tuy nhiên, đối với trẻ nhỏ, việc thay đổi chế độ ăn để giảm sử dụng đường khó có thể áp dụng triệt để. Những năm gần đây, ngày càng có nhiều bằng chứng về khả năng phòng ngừa sâu răng của xylitol, một loại đường không lên men được dùng trong thực phẩm. Trên thế giới, nhiều nghiên cứu sử dụng xylitol trong kẹo cao su với liều lượng thích hợp đã cho thấy tác dụng có lợi trên vi khuẩn và pH mảng bám sau một thời gian sử dụng. Mặc dù vậy, việc nghiên cứu trên từng cộng đồng cụ thể là cần thiết để có thêm bằng chứng tin cậy về tác dụng của xylitol trên chính những cá thể mà chương trình chăm sóc sức khỏe răng miệng tại địa phương trực tiếp tác động vào. Ở nước ta, các nghiên cứu về xylitol trên cộng đồng vẫn còn ít. Vì thế nghiên cứu này được tiến hành với các mục tiêu đánh giá ảnh hưởng của việc sử dụng kẹo cao su chứa xylitol lên đặc điểm mảng bám răng của trẻ 8-9 tuổi có tình trạng sâu răng cao, sống trong vùng không fluor hóa nước máy. Nghiên cứu được thực hiện với các mục tiêu: (1) đánh giá sự thay đổi tình trạng mảng bám (mảng bám non, trưởng thành, axit và mảng bám nói chung) của trẻ 8-9 tuổi có tình trạng sâu răng cao, sống trong vùng không fluor hóa nước máy (huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh) sau 1 tháng và 6 tháng sử dụng kẹo cao su chứa xylitol, (2) so sánh sự khác biệt về tình trạng mảng bám (mảng bám non, trưởng thành, axit và mảng bám nói chung) giữa hai nhóm trẻ 8-9 tuổi có nhai kẹo cao su chứa xylitol và không nhai kẹo cao su, cùng có tình trạng sâu răng cao, sống trong vùng không fluor hóa nước máy (huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh) sau 1 tháng và 6 tháng. ĐỐI TƯỢNG-PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Thiết kế nghiên cứu Thử nghiệm lâm sàng mù đơn có nhóm chứng. Đối tượng nghiên cứu Trẻ em 8-9 tuổi có tình trạng sâu răng cao (SMT-R+smt-r ≥ 3) đang học tại trường tiểu học Nguyễn Văn Trân, xã Đa Phước, huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh. Tiêu chí lựa chọn Học sinh 8-9 tuổi (thuộc khối lớp 3 và 4 của năm học 2011-2012). Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013 Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 282 Thường trú tại huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh từ 5 năm trở lên. Có tình trạng sâu răng cao: SMT-R+smt-r ≥ 3 (theo tiêu chuẩn đánh giá sâu răng của WHO). Trẻ có giấy đồng ý cho tham gia nghiên cứu của phụ huynh. Trẻ hợp tác tham gia bằng cách tuân thủ đúng các quy trình mà nghiên cứu yêu cầu. Tiêu chí loại trừ Có biểu hiện dị ứng với polyol. Sử dụng kháng sinh toàn thân hoặc chlorexidine kéo dài trong thời gian thử nghiệm. Sử dụng các sản phẩm có fluoride tại chỗ (verni, gel... ngoại trừ kem đánh răng) trong thời gian thử nghiệm. Đang điều trị chỉnh nha. Không tuân thủ quá trình nhai kẹo. Không tham gia các đợt khám. Tiến trình chọn mẫu Chọn mẫu thuận tiện với cỡ mẫu tính được là 300 trẻ. - Tất cả học sinh trong độ tuổi 8-9 (lớp 3-4) trường tiểu học Nguyễn Văn Trân được đánh giá sàng lọc sâu răng dựa trên phiếu khám sâu răng theo tiêu chí của WHO (1997). - Những học sinh đáp ứng tiêu chí chọn mẫu được gởi thư mời cùng phiếu chấp thuận cho trẻ tham gia nghiên cứu đến phụ huynh, chọn lại 300 trẻ đồng ý tham gia nghiên cứu. - Mã hóa số thứ tự cho 300 học sinh và tiến hành chia nhóm nhai kẹo cao su chứa xylitol hay không nhai kẹo cao su theo đơn vị lớp, nghĩa là trong mỗi lớp chỉ có học sinh thuộc nhóm thử nghiệm hoặc nhóm chứng, đồng thời đảm bảo số lượng hai nhóm là ngang nhau và có cả 2 lứa tuổi (chọn theo lớp bằng cách bốc thăm). - Kết quả chọn được 153 học sinh cho nhóm thử nghiệm (thuộc 7 lớp: 3 lớp 3 và 4 lớp 4) và 147 học sinh cho nhóm chứng (thuộc 6 lớp: 4 lớp 3 và 2 lớp 4). Phương tiện nghiên cứu Chất nhuộm màu mảng bám hiệu GC Tri Plaque ID Gel. Kẹo cao su chứa xylitol của Công ty Lotte Việt Nam với hàm lượng 0,6g chất tạo ngọt xylitol/1 viên kẹo, được lưu hành tại Việt Nam theo giấy phép số 158/2010/YTBD-CNTC. Kẹo được đóng thành vỉ, mỗi vỉ 8 viên, vừa đủ cho trẻ sử dụng trong 1 ngày, tương đương 4,8g xylitol/ngày. Phương pháp đánh giá mảng bám răng Các đặc điểm mảng bám răng của trẻ được đánh giá bằng chỉ số Quigley Hein biến đổi (QHI) sau khi sử dụng chất nhuộm màu mảng bám Tri Plaque ID Gel của hãng GC. Ghi nhận tính chất mảng bám theo màu chỉ thị như sau: - Màu hồng/đỏ: Đây là những vùng bề mặt vừa được làm sạch và màng sinh học chưa trưởng thành. - Màu xanh dương/tím: Đây là những vùng chưa được làm sạch trong hơn 48 giờ và có màng sinh học phức tạp phát triển. - Màu xanh nhạt: Chỉ thị sự tạo axit của vi khuẩn mảng bám và màng sinh học có pH xấp xỉ 4,5 hoặc thấp hơn. Tính chất của mảng bám có 3 mức là non, trưởng thành, axit. Mỗi tính chất nhận một điểm số QHI cho mỗi mặt răng đánh giá. Chỉ số mảng bám Quiley Hein gồm các giá trị từ 0 đến 5 được dùng để đánh giá mảng bám mặt trong và mặt ngoài răng không mang phục hồi, thực hiện trên tất cả các răng của trẻ. Bảng 1: Hệ thống điểm số QHI. Điểm Tiêu chuẩn đánh giá 00 Không có mảng bám 11 Các vết hoặc mảng bám rời rạc ở viền cổ răng 22 Mảng bám dạng dải liên tục, mỏng đến 1mm ở cổ răng 33 Dải mảng bám rộng hơn 1mm nhưng chưa phủ đến 1/3 thân răng 44 Mảng bám phủ ít nhất 1/3 nhưng ít hơn 2/3 thân răng 55 Mảng bám phủ 2/3 thân răng hoặc nhiều hơn Như vậy, trên một răng ghi nhận 6 điểm số Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 283 QHI tương ứng với từng tính chất mảng bám ở mặt trong và mặt ngoài: QHI ngoài-non, QHI ngoài-trưởng thành, QHI ngoài-axit, QHI trong- non, QHI trong-trưởng thành, QHI trong-axit. Lấy giá trị QHI lớn nhất trong số các QHI của các tính chất (non, trưởng thành, axit) ở mỗi mặt răng làm QHI chung cho mặt răng đó. Độ chênh lệch QHI giữa các lần khám được tính bằng hiệu số của các giá trị trung bình tương ứng giữa lần khám thứ hai (sau 1 tháng) và lần khám thứ ba (sau 6 tháng) với lúc bắt đầu (∆T1-T0, ∆T6-T0). Các giai đoạn thực hiện Chọn mẫu và chia hai nhóm nghiên cứu. Phát bàn chải và kem đánh răng cho học sinh các lớp thuộc cả 2 nhóm (bàn chải và kem đánh răng sẽ được phát mới sau mỗi 3 tháng) và hướng dẫn vệ sinh răng miệng cho các đối tượng nghiên cứu. Đánh giá tình trạng mảng bám răng (T0). Phát kẹo cao su chứa xylitol cho nhóm thử nghiệm và các học sinh trong cùng một lớp nhưng không thuộc đối tượng nghiên cứu vẫn được phát kẹo. Nhóm thử nghiệm được cho nhai kẹo cao su chứa xylitol mỗi ngày 4 lần (lúc truy bài đầu giờ, sau giờ ra chơi buổi sáng, sau giờ ra chơi buổi chiều, buổi tối trước khi đi ngủ), mỗi lần nhai 2 viên trong ít nhất 5 phút, không đánh răng sau khi nhai kẹo tối thiểu 1 tiếng đồng hồ. Nhóm chứng không nhai kẹo cao su. Cả hai nhóm tuân thủ các nội dung nha học đường của trường. Tái đánh giá tình trạng mảng bám răng sau 1 tháng (T1). Tái đánh giá tình trạng mảng bám răng sau 6 tháng (T6). Kiểm soát sai lệch thông tin Các điều tra viên được huấn luyện định chuẩn bởi bộ môn Nha Khoa Công Cộng với kết quả kappa về mức độ nhất trí với điều tra viên chuẩn cho việc đánh giá mảng bám theo chỉ số QHI lần lượt là 0,8-0,78-0,78 và cho việc nhận diện các loại mảng bám theo màu nhuộm lần lượt là 0,91-0,88-0,85. KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN Sự thay đổi tình trạng mảng bám non sau 1 tháng và 6 tháng thử nghiệm Có sự khác biệt có ý nghĩa QHI mảng bám non giữa hai nhóm nghiên cứu ở cả ba thời điểm ban đầu, sau 1 tháng và sau 6 tháng thử nghiệm. QHI mảng bám non của nhóm thử nghiệm ở các thời điểm nghiên cứu sau so với lúc đầu khác nhau có ý nghĩa thống kê, trong khi đó ở nhóm chứng QHI mảng bám non sau 1 tháng không khác biệt có ý nghĩa so với lúc ban đầu mà đến 6 tháng mới xuất hiện khác biệt có ý nghĩa. Bảng 2: Giá trị QHI mảng bám non trên hai hàm của các nhóm nghiên cứu tại các thời điểm (TB ± ĐLC ). T0 T1 T6 p(T) Nhóm thử nghiệm 3,09±0,60 2,81±0,74 3,49±0,47 T0-T1<0,001 T0-T6<0,001 Nhóm chứng 3,29±0,65 3,33±0,58 3,65±0,43 T0-T1=0,406 T0-T6<0,001 p 0,005 <0,001 0,003 p: Kiểm định Mann-Whitney, kiểm định có ý nghĩa khi p<0,05. p(T): Phân tích ANOVA kết hợp phương pháp Bonferroni, kiểm định có ý nghĩa khi p(T)<0,017. Có sự khác biệt có ý nghĩa về chênh lệch QHI mảng bám non giữa nhóm thử nghiệm và nhóm chứng ở thời điểm sau 1 tháng so với ban đầu (∆T1-T0). Chênh lệch giữa thời điểm 6 tháng so với ban đầu (∆T6-T0) thì không khác biệt có ý nghĩa giữa hai nhóm nghiên cứu. Bảng 3: Độ lệch mảng bám non trên hai hàm của các nhóm nghiên cứu sau 1 tháng và 6 tháng. ∆T1-T0 ∆T6-T0 Nhóm thử nghiệm -0,28 ± 0,7 0,39 ± 0,53 Nhóm chứng 0,05 ± 0,65 0,36 ± 0,63 p <0,001 0,626 p: Kiểm định Mann-Whitney, kiểm định có ý nghĩa khi p<0,05. Mảng bám non được nhận diện trong nghiên cứu là loại mảng bám mới hình thành trên bề mặt răng vừa được làm sạch. Nghiên cứu cho thấy khi sử dụng kẹo cao su chứa Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013 Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 284 xylitol trong 1 tháng, có sự giảm mảng bám non ở nhóm nhai kẹo cao su xylitol so với nhóm không nhai kẹo và sự giảm này không duy trì ở 6 tháng. Quan điểm hiện nay về vi sinh học miệng xem mảng bám non là dạng màng sinh học luôn tồn tại và phát triển trên bề mặt răng. Theo thời gian nó trở thành môi trường cho vi khuẩn tích tụ đa dạng trong chất nền ngoại bào gồm các polyme nguồn gốc từ vi khuẩn và vật chủ, dần dần mảng bám non bị axit hoá và gây tổn hại cho răng. Bình thường, thành phần vi khuẩn của mảng bám có sự cân bằng và duy trì trạng thái ổn định tương đối. Nhìn chung, mảng bám non – màng sinh học có bản chất tự nhiên, sinh lý và còn có những lợi ích đối với cơ thể(8). Hệ vi sinh tại chỗ trong mảng bám non – màng sinh học ngăn cản sự xâm nhập của các vi sinh vật ngoại sinh (thường gây bệnh lý) nhờ cạnh tranh hiệu quả hơn về dinh dưỡng và vùng bám dính, đồng thời sản xuất các yếu tố ức chế, tạo điều kiện không thuận lợi cho cho sự phát triển của các chủng xâm nhập. Khi mảng bám còn giữ trạng thái cân bằng, các thành phần hiện diện trong mảng bám tham gia vào những hoạt động có lợi cho cơ thể như tái khoáng hóa mô răng, điều hòa axit, hỗ trợ tiêu hóa(5). Mảng bám chỉ trở nên có hại khi cân bằng sinh thái bên trong mảng bám bị phá vỡ, dẫn đến sự phát triển lấn át của các vi sinh vật gây bệnh. Do đó mà trong phòng ngừa bệnh răng miệng, vấn đề quan trọng là kiểm soát mảng bám chứ không phải loại bỏ hoàn toàn mảng bám răng. Sự thay đổi tình trạng mảng bám trưởng thành sau 1 tháng và 6 tháng thử nghiệm Ban đầu, không có sự khác biệt có ý nghĩa QHI mảng bám trưởng thành giữa hai nhóm nghiên cứu. Sau 1 tháng thử nghiệm, xuất hiện khác biệt có ý nghĩa QHI mảng bám trưởng thành giữa hai nhóm và đến thời điểm sau 6 tháng thì sự khác biệt này không còn. Bảng 4: Giá trị QHI mảng bám trưởng thành trên hai hàm của các nhóm nghiên cứu tại các thời điểm (TB ± ĐLC). T0 T1 T6 p(T) Nhóm thử nghiệm 1,10±0,65 0,89±0,59 1,64±0,66 T0-T1=0,003 T0-T6<0,001 Nhóm chứng 1,13±0,72 1,11±0,62 1,57±0,80 T0-T1=0,824 T0-T6<0,001 p 0,846 0,001 0,273 p: Kiểm định Mann-Whitney, kiểm định có ý nghĩa khi p<0,05. p(T): Phân tích ANOVA kết hợp phương pháp Bonferroni, kiểm định có ý nghĩa khi p(T)<0,017. Không có sự khác biệt có ý nghĩa về chênh lệch QHI mảng bám trưởng thành ở thời điểm sau 1 tháng (∆T1-T0) và 6 tháng (∆T6-T0) so với ban đầu giữa nhóm thử nghiệm và nhóm chứng. Bảng 5: Độ lệch mảng bám trưởng thành trên hai hàm của các nhóm nghiên cứu sau 1 tháng và 6 tháng (TB ± ĐLC). ∆T1-T0 ∆T6-T0 Nhóm thử nghiệm -0,21 ± 0,85 0,54 ± 0,63 Nhóm chứng -0,02 ± 0,90 0,44 ± 0,96 p 0,072 0,339 p: Kiểm định Mann-Whitney, kiểm định có ý nghĩa khi p<0,05. Mảng bám trưởng thành được nhận diện trong nghiên cứu này khi có thời gian tồn tại trên răng hơn 48 giờ, mảng bám dày và có pH chưa đạt mức nguy hiểm (pH vẫn còn >4,5). Khi mảng bám non dày lên, nồng độ oxy của các lớp bên trong trở nên thấp, tạo thuận lợi cho các vi khuẩn kỵ khí tùy nghi phát triển, trong đó có các Streptococcus mutans. Tác nhân gây bệnh dần dần phát triển vững chắc, gây khó khăn cho việc loại bỏ. Nếu tiếp tục tồn tại trên răng, khi có những điều kiện thuận lợi như tiêu thụ sucrose quá mức, mảng bám trưởng thành dễ dàng chuyển thành mảng bám sinh axit. Mảng bám trưởng thành có thể xem là Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 285 chuyển tiếp giữa mảng bám lành tính và mảng bám gây bệnh. Mảng bám tích tụ lâu ngày tạo môi trường thuận lợi cho sự phát triển của các loại vi khuẩn độc hại. Hơn nữa, mảng bám trưởng thành trong nghiên cứu này với pH>4,5 cũng có khả năng gây mất khoáng mô răng tùy theo cơ địa từng cá thể. Do đó xét cho cùng, sự giảm mảng bám trưởng thành sẽ có lợi cho răng hơn. Sự thay đổi tình trạng mảng bám axit sau 1 tháng và 6 tháng thử nghiệm Vào thời điểm ban đầu, không có sự khác biệt có ý nghĩa QHI mảng bám axit giữa hai nhóm nghiên cứu. Sau 1 tháng thử nghiệm, xuất hiện khác biệt có ý nghĩa QHI mảng bám axit giữa hai nhóm. Vào thời điểm sau 6 tháng, khác biệt này vẫn còn ý nghĩa giữa hai nhóm nghiên cứu. Ở nhóm thử nghiệm, QHI mảng bám axit ở các thời điểm nghiên cứu sau so với lúc đầu khác nhau có ý nghĩa thống kê. Ở nhóm chứng, QHI mảng bám axit sau 1 tháng và 6 tháng không khác biệt có ý nghĩa so với lúc ban đầu. Bảng 6: Giá trị QHI mảng bám axit trên hai hàm của các nhóm nghiên cứu tại các thời điểm (TB ± ĐLC). T0 T1 T6 p(T) Nhóm thử nghiệm 0,81±0,70 0,61±0,42 0,53±0,53 T0-T1=0,001 T0-T6<0,001 Nhóm chứng 0,72±0,59 0,78±0,49 0,80±0,63 T0-T1=0,259 T0-T6=0,146 p 0,555 0,002 <0,001 p: Kiểm định Mann-Whitney, kiểm định có ý nghĩa khi p<0,05. p(T): Phân tích ANOVA kết hợp phương pháp Bonferroni, kiểm định có ý nghĩa khi p(T)<0,017. Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về chênh lệch QHI mảng bám axit ở thời điểm sau 1 tháng so với ban đầu (∆T1-T0) giữa nhóm thử nghiệm và nhóm chứng. Sự khác biệt này cũng nhận thấy được ở thời điểm 6 tháng so với ban đầu (∆T6-T0). Bảng 7: Độ lệch mảng bám axit trên hai hàm của các nhóm nghiên cứu sau 1 tháng và 6 tháng (TB ± ĐLC). ∆T1-T0 ∆T6-T0 Nhóm thử nghiệm -0,19 ± 0,70 -0,28 ± 0,71 Nhóm chứng 0,06 ± 0,67 0,08 ± 0,64 p 0,002 <0,001 p: Kiểm định Mann-Whitney, kiểm định có ý nghĩa khi p<0,05. Khi sử dụng chất nhuộm màu mảng bám GC Tri Plaque ID Gel, nếu mảng bám có màu xanh nhạt là dấu hiệu chỉ thị cho thấy có sự tạo axit của vi khuẩn mảng bám, màng sinh học lúc đó chuyển thành màng sinh học bệnh lý, có pH xấp xỉ 4,5 hoặc thấp hơn.
Tài liệu liên quan