Khi nóc hầm có xen kẽ lớp đá kẹp mềm có ảnh hưởng rất lớn đến ổn
định của nóc hầm. Đặc biệt khi đường hầm nằm ở độ sâu càng lớn thì
nguy cơ mất ổn định của nóc hầm càng mãnh liệt, rất dễ xảy ra sập hầm.
Để giảm thiểu rủi ro, ngăn ngừa sự cố trên xảy ra, bài báo thông qua
phần mềm Flac3D xây dựng mô hình khảo sát quá trình biến dạng và
phá hủy của nóc hầm dạng hình vòm bán nguyệt có và không có lớp đá
kẹp mềm với độ sâu đặt đường hầm tăng 200m đến 700m. Kết quả cho
thấy, khi nóc có lớp đá kẹp mềm biến dạng và phá hủy của nóc hầm tăng
mãnh liệt khi độ sâu khai thác >300m, mức độ ảnh hưởng lớn hơn rất
nhiều so với nóc không có lớp đá kẹp mềm.
6 trang |
Chia sẻ: thanhuyen291 | Ngày: 10/06/2022 | Lượt xem: 537 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Ảnh hưởng độ sâu đặt đường hầm tới ổn định của nóc hầm có chứa lớp đá kẹp mềm, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP QUẢNG NINH
* HNKHCN Lần VI tháng 05/2020
85
Ảnh hưởng độ sâu đặt đường hầm tới ổn định của nóc hầm
có chứa lớp đá kẹp mềm
Vũ Đức Quyết
Khoa Mỏ và Công trình, Đại học Công nghiệp Quảng Ninh
* Email: quyetvu1980@gmail.com
Tel: +84787399888
Tóm tắt
Từ khóa:
Biến dạng; độ sâu đặt
đường hầm;đá kẹp mềm;
phá hủy; ổn đinh
Khi nóc hầm có xen kẽ lớp đá kẹp mềm có ảnh hưởng rất lớn đến ổn
định của nóc hầm. Đặc biệt khi đường hầm nằm ở độ sâu càng lớn thì
nguy cơ mất ổn định của nóc hầm càng mãnh liệt, rất dễ xảy ra sập hầm.
Để giảm thiểu rủi ro, ngăn ngừa sự cố trên xảy ra, bài báo thông qua
phần mềm Flac3D xây dựng mô hình khảo sát quá trình biến dạng và
phá hủy của nóc hầm dạng hình vòm bán nguyệt có và không có lớp đá
kẹp mềm với độ sâu đặt đường hầm tăng 200m đến 700m. Kết quả cho
thấy, khi nóc có lớp đá kẹp mềm biến dạng và phá hủy của nóc hầm tăng
mãnh liệt khi độ sâu khai thác >300m, mức độ ảnh hưởng lớn hơn rất
nhiều so với nóc không có lớp đá kẹp mềm.
Keywords: Abstract
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Độ sâu đặt đường hầm vốn có ảnh hưởng
rất lớn đối với ổn định của đường hầm, do khi
độ sâu đặt đường hầm càng lớn thì ứng suất
nguyên sinh càng lớn làm gia tăng biến dạng và
phá hủy của đường hầm, nguy cơ mất ổn định
đường hầm tăng cao[1, 2, 3]. Mặt khác, khi nóc
hầm bị phân lớp hoặc có lớp đá kẹp mềm sẽ
làm cho nguy cơ tách lớp và mất ổn định của đá
vách ngày càng gia tăng [5, 6], độ dày của lớp
đá kẹp mềm và khoảng cách của chúng tới nóc
hầm có ảnh hưởng rất lớn đến biến dạng và phá
hủy của đường hầm [4]. Khi xuất hiện một
trong hai trường hợp trên khiến cho việc duy trì
độ ổn định nóc hầm khó khăn hơn. Đặc biệt khi
xuất hiện đồng thời cả hai trường hợp trên nguy
cơ sập đổ càng lớn, việc duy trì ổn định nóc
hầm rất khó khăn. Để giảm thiểu nguy cơ sập
hầm cần phải đánh giá được mức độ ảnh hưởng
của chúng đối với biến dạng và phá hủy của nóc
hầm. Từ đó làm căn cứ để đề xuất ra giải pháp
kỹ thuật hợp lý nhằm giữ ổn định cho đường
hầm. Trong bài báo, tác giả đã sử dụng phần
mềm Flac3D để đánh giá ảnh hưởng độ sâu bố
trí đường hầm tới ổn định của nóc hầm có chứa
lớp đá kẹp mềm.
2. MÔ HÌNH VÀ NỘI DUNG TÍNH TOÁN
2.1. Xây dựng mô hình tính toán
Mô hình thiết lập gồm 5 lớp đá và than với
các tham số đầu vào thể hiện ở bảng 1, với kích
thước chiều rộng 40m, cao 40m và dày 1.0m,
đường hầm được bố trí ở giữa mô hình với hình
dạng tiết diện ngang là vòm bán nguyệt tường
thẳng, chiều rộng 3.3m, chiều cao 2.8m (hình
1). Mô hình tính toán được xây dựng bằng phần
mềm Flac3d [7], với điều kiện mặt trên mô hình
đặt tải trọng phân bố đều có giá trị bằng tải
trọng của lớp đất đá phía trên đè nén xuống
(z), mặt dưới và hai bên hông mô hình được cố
định chặt, chịu áp lực ngang (x, y) tác dụng.
Trạng thái ứng suất nguyên sinh được tính
toán như sau: z=.H; x=y=.z
Trong đó: - Trọng lượng thể tích, kg/m3;
H- Chiều sâu bố trí mô hình, m; - Hệ số áp lực
ngang, =/(1-); - Hệ số Poát-xông của than;
z- Ứng suất khối đá theo phương trục Z (thẳng
đứng), MPa; x, y- Ứng suất trong khối đá
theo phương nằm ngang (phương trục X và trục
Y), MPa.
ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP QUẢNG NINH
* HNKHCN Lần VI tháng 05/2020 86
Bảng 1. Các tham số cơ học của các lớp đá [4]
TT Lớp đá
Chiều
dày,
m
Mô đun
đàn hồi
E, GPa
Hệ số
poission
Lực
dính kết
C, MPa
Góc ma
sát trong
, độ
Độ bền
kéo k,
MPa
1 Vách cơ bản 120 4.52 0.23 5.2 45 6.00
2 Vách trực tiếp 13 2.30 0.29 4.0 40 3.50
3 Lớp đá kẹp mềm 0.3 0.14 0.38 0.4 28 0.25
4 Vỉa than 3.2 0.76 0.32 1.6 33 2.00
5 Trụ trực tiếp 17 2.88 0.27 5.2 44 4.50
a) b)
Hình 1. Sơ đồ mặt cắt ngang mô hình bài toán
2.2. Nội dung nghiên cứu
Để đánh giả ảnh hưởng độ sâu đặt
đường hầm đến độ ổn định của nóc hầm có
lớp đá kẹp mềm, bài báo xây dựng hai mô
hình có và không có lớp đá kẹp mềm để so
sánh. Lớp đá kẹp mềm được lựa chọn với
chiều dày bằng 30 cm, nằm cách nóc lò 0,5m.
Tiến hành khảo sát với độ sâu đặt đường hầm
tăng từ 200m đến 700m.
3. ĐÁNH GIÁ ẢNH HƯỞNG ĐỘ SÂU
ĐẶT ĐƯỜNG HẦM ĐẾN BIẾN DẠNG
VÀ PHÁ HỦY NÓC HẦM KHI CÓ LỚP
ĐÁ KẸP MỀM
3.1. Ảnh hưởng độ sâu đặt đường hầm đến
biến dạng của đường hầm
Hình 2 thể hiện chuyển vị của nóc hầm
khi nóc có và không có lớp đá kẹp mềm.
Không đá kẹp mềm Có đá kẹp mềm
a) Độ sâu đặt đường hầm 200m
Không đá kẹp mềm Có đá kẹp mềm
ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP QUẢNG NINH
* HNKHCN Lần VI tháng 05/2020
87
b) Độ sâu khai thác 300m
Không đá kẹp mềm Có đá kẹp mềm
c) Độ sâu đặt đường hầm 400m
Không đá kẹp mềm Có đá kẹp mềm
d) Độ sâu đặt đường hầm 500m
Không đá kẹp mềm Có đá kẹp mềm
e) Độ sâu đặt đường hầm 600m
Không đá kẹp mềm
Có đá kẹp mềm
f) Độ sâu đặt đường hầm 700m
Hình 2. Ảnh hưởng độ sâu đặt đường hầm đến biến dạng đường hầm có và không có lớp đá kẹp mềm
Hình 3. Đồ thị thể hiện biến dạng của đường hầm có
và không có lớp đá kẹp mềm
Từ kết quả trên hình 2 và đồ thị hình 3 thể
hiện giá trị biến dạng tại nóc, hông của đường
hầm, thấy rõ được sự khác biệt về biến dạng
của nóc hầm có và không có lớp đá kẹp mềm
khi gia tăng độ sâu đặt công trình, quan hệ giữa
biến dạng với độ sâu đặt công trình như sau:
- Khi độ sâu đặt công trình tăng thì biến
dạng ở nóc và hông của đường hầm đều tăng.
ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP QUẢNG NINH
* HNKHCN Lần VI tháng 05/2020
88
Khi công trình nằm ở độ sâu nhỏ hơn 400 m,
biến dạng ở nóc và hai bên hông tăng đều, giá
trị biến dạng của chúng sấp sỉ bằng nhau và
không lớn. Nhưng khi tiếp tục gia tăng độ sâu
đặt công trình lớn hơn 400 m thì biến dạng ở
hai bên hông vẫn tăng đều, nhưng biến dạng ở
nóc tăng mạnh, khi đó độ sâu càng tăng thì tốc
độ gia tăng chuyển vị nóc càng lớn, lúc độ sâu
đặt công trình tăng lên 700 m thì lượng chuyển
vị tại nóc là 512 mm, tăng 2,67 lần so với lúc
công trình ở độ sâu 400 m và 8,5 lần so với lúc
công trình nằm ở độ sâu 200 m.
- Khi nóc hầm xuất hiện lớp đá kẹp mềm
thì ảnh hưởng của độ sâu đặt công trình đến
biến dạng đường hầm mãnh liệt hơn, trong đó
biến dạng ở nóc hầm ảnh hưởng mạnh nhất. Đồ
thị hình 3 cho thấy, do ảnh hưởng của lớp đá
kẹp mềm mà chuyển vị nóc khi công trình ở độ
sâu nhỏ vẫn lớn hơn khi nóc không có đá kẹp
mềm. Độ sâu bố trí đường hầm mà nóc có lớp
đá kẹp mềm gia tăng lúc độ sâu không lớn
(<400m) thì biến dạng tăng đều với tốc độ
không lớn, nhưng khi độ sâu >400m thì biến
dạng tăng đột biến. Nhưng khi nóc không chứa
lớp đá kẹp mềm thì biến dạng tăng đều, không
có sự tăng đột biến kể cả khi ở độ sâu lớn, giá
trị chênh lệch chuyển vị nóc giữa 2 trường hợp
trên khi ở độ sâu 200 m không lớn 23 mm,
nhưng khi độ sâu tăng lên 700 m thì giá trị
chênh lệch rất lớn 257 mm, bằng 2 lần chuyển
vị của nóc không có lớp đá kẹp mềm.
- Khi đường hầm ở độ sâu <200m, vị trí
chuyển vị nóc lớn nhất khi có và không có lớp
đá kẹp mềm đều ở giữa nóc hầm, nhưng khi gia
tăng độ sâu thì chuyển vị lớn nhất của nóc có
lớp đá kẹp mềm dịch chuyển dần sang phía nóc
trái, còn nóc không có lớp đá kẹp mềm thì dịch
chuyển về phía nóc phải, phạm vi vùng chuyển
vị của nóc có lớp đá kẹp mềm lớn hơn phát
triển sâu vào trong khối đá, độ sâu bố trí công
trình càng lớn thì vùng chuyển vị lớn càng gia
tăng mạnh.
3.1. Ảnh hưởng độ sâu đặt công trình đến
phá hủy nóc hầm khi có lớp đá kẹp mềm
Trên Hình 4 là hình ảnh thể hiện hiện
tượng phá hủy của khối đá xung quanh đường
hầm khi nóc có và không có lớp đá kẹp mềm
với độ sâu bố trí công trình khác nhau.
Không có đá kẹp mềm Có đá kẹp mềm
a) Độ sâu đặt đường hầm 200m
Không có đá kẹp mềm Có đá kẹp mềm
b) Độ sâu đặt đường hầm 300m
ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP QUẢNG NINH
* HNKHCN Lần VI tháng 05/2020
89
Không có đá kẹp mềm Có đá kẹp mềm
c) Độ sâu đặt đường hầm 400m
Không có đá kẹp mềm Có đá kẹp mềm
d) Độ sâu đặt đường hầm 500m
Không có đá kẹp mềm Có đá kẹp mềm
e) Độ sâu đặt đường hầm 600m
Không có đá kẹp mềm Có đá kẹp mềm
f) Độ sâu đặt đường hầm 700m
Hình 4. Ảnh hưởng độ sâu đặt đường hầm đến phá hủy nóc hầm có và không có đá kẹp mềm
Từ kết quả ở hình 4 cho thấy ảnh hưởng
của độ sâu đặt công trình đến phá hủy của nóc
đường hầm như sau:
Khi độ sâu đặt công trình tăng thì vùng phá
hủy của khối đá xung quanh đường hầm trong cả
hai trường hợp có và không có lớp đá kẹp đều
tăng. Khi độ sâu đặt công trình <200m thì phá
hủy ở 2 trường hợp khác nhau không nhiều, ở
trường hợp có lớp đá kẹp mềm xuất hiện phá hủy
tách lớp tại vị trí lớp đá kẹp mềm nhưng không
có sự liên thông với vùng phá hủy ở xung quanh
biên hầm. Khi độ sâu gia tăng >300m thì phá
hủy ở nóc mà có lớp đá kẹp mềm gia tăng mãnh
liệt, vùng phá hủy lớp đá kẹp mềm và phá hủy
xung quanh biên hầm có sự liên thông với nhau
và có sự mở rộng sang hai bên hông, khi độ sâu
ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP QUẢNG NINH
* HNKHCN Lần VI tháng 05/2020
90
tăng từ 300 m lên 600 m thì vùng phá hủy ở nóc
gia tăng không mạnh, nhưng khi tăng lên 700 m
phá hủy của lại tăng rất nhanh, phát triển rộng
sang hai bên sườn nóc, vùng phá hủy xung
quanh công trình ngầm rất lớn. Phá hủy ở hai
bên hông hầm cũng gia tăng mạnh, đường hầm
thể hiện sự mất ổn định cao so với không có lớp
đá kẹp mềm ở nóc hầm.
Khi đường hầm không có lớp đá kẹp mềm
ở nóc, độ sâu bố trí đường hầm gia tăng thì
vùng phá hủy xung quanh đường hầm gia tăng
từ từ, phá hủy chủ yếu phát triển mở rộng về
hai bên sườn nóc đường hầm mà không phát
triển sâu lên phía trên nóc hầm, bị giới hạn tại
vị trí phân lớp giữa than và đá vách.
4. KẾT LUẬN
Khi nóc lò có lớp đá kẹp mềm, biến dạng
và phá hủy của nóc hầm khi độ sâu khai thác
gia tăng sẽ phát triển rất mãnh liệt và phức tạp,
đặc biệt cần phải chú ý khi công trình ở độ sâu
>300m, khi đó tốc độ biến dạng và phá hủy
tăng đột biến, nguy cơ sập đổ rất dễ xảy ra, khi
đó vùng phá hủy lớp đá kẹp mềm và vùng phá
hủy ở xung quanh đường hầm liên thông với
nhau, thể hiện sự phá hủy hoàn toàn nóc.
Vị trí suy yếu nhất của nóc hầm trong
trường hợp này ở nóc trái điểm gần nhất với lớp
đá kẹp mềm, cần phải có giải pháp khống chế
điểm suy yếu này để tăng cường ổn định cho
đường hầm và ngăn ngừa hiện tượng tách lớp
tại vị trí lớp đá kẹp mềm bằng giải pháp gia cố
bằng neo dự ứng lực hoặc gia cường hóa lớp đá
kẹp mềm bằng phương pháp bơm ép dung dịch
dính kết nhằm gia tăng cường độ của lớp đá kẹp
mềm.
Kết quả nghiên cứu là cơ sở để đề xuất giải
pháp giữ ổn định cho đường hầm khi nóc có lớp
đá kẹp mềm chịu ảnh hưởng của độ sâu bố trí
công trình ngầm. Kết quả này càng quan trọng
khi độ sâu khai thác ngày càng gia tăng.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Nguyễn Quang Phích (2007), Cơ học đá,
Nhà xuất bản Xây dựng, Hà Nội.
[2]. Võ Trọng Hùng, Phùng Mạnh Đắc (2008),
Cơ học đá ứng dụng trong xây dựng ngầm và
khai thác mỏ, NXBKHKT, Hà nội.
[3]. Trần Xuân Truyền, Vũ Đức Quyết (2012),
Giáo trình Đào chống lò, trường Đại học Công
nghiệp Quảng Ninh.
[4]. Vũ Đức Quyết, nnk (2016), “Nghiên cứu
biến dạng và phá hủy của nóc đường lò dọc vỉa
đào bám trụ trong vỉa than dày khi nóc lò xuất
hiện lớp vách giả”, Kỷ yếu Hội nghị khoa học
lần thứ 5 Trường Đại học Công nghiệp Quảng
Ninh.
[5]. Dương Cát Bình (2013), Nguyên lý và kỹ
thuật khống chế đất đá xung quanh đường lò
khi phần than ở nóc lò có kẹp các lớp đá mỏng,
Luận án tiến sĩ (Tiếng Trung).
[6]. Lưu Ngọc Điền (2014), Nghiên cứu nguyên
lý phá hoại nóc của đường lò bám trụ và biện
pháp khống chế nó khi lò trong vỉa than dày
chịu ảnh hưởng mắc ma xâm nhập, Luận văn
Thạc sĩ (Tiếng Trung).
[7]. Itasca (2011), Flac3d user’s guide, Version
4.00.69. Itasca Consuling Group Inc,
Minneapolis, MN 55401, USA.