Bài viết này giới thiệu các quy tắc phiên chuyển Thuật ngữ hóa học – Danh pháp hóa học sang
tiếng Việt (Tiêu chuẩn Việt Nam TCVN 5529:2010 Thuật ngữ hóa học – Nguyên tắc cơ bản). Bên cạnh
đó, bài viết cũng nêu lên sự cần thiết và khuyến nghị việc áp dụng Tiêu chuẩn Việt Nam 5529:2010 trong
quá trình học tập, làm việc và nghiên cứu thời kỳ hội nhập. Tác giả hi vọng những thông tin hữu ích này
sẽ giúp người đọc biết nhiều hơn về các quy tắc phiên chuyển và danh pháp IUPAC, ứng dụng trong học
tập và làm việc.
7 trang |
Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 17/06/2022 | Lượt xem: 610 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Áp dụng các quy tắc phiên chuyển và danh pháp IUPAC vào danh pháp hóa học Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Thoâng tin KH - GD Tröôøng Ñaïi hoïc Xaây döïng Mieàn Taây 103
NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI
ÁP DỤNG CÁC QUY TẮC PHIÊN CHUYỂN VÀ DANH PHÁP IUPAC
VÀO DANH PHÁP HÓA HỌC VIỆT NAM
APPLYING TRANSLATION RULES AND IUPAC NOMENCLATURE
TO VIETNAMESE CHEMICAL NOMENCLATURE
Phan Thị Thanh Hiền1
Tóm tắt:
Bài viết này giới thiệu các quy tắc phiên chuyển Thuật ngữ hóa học – Danh pháp hóa học sang
tiếng Việt (Tiêu chuẩn Việt Nam TCVN 5529:2010 Thuật ngữ hóa học – Nguyên tắc cơ bản). Bên cạnh
đó, bài viết cũng nêu lên sự cần thiết và khuyến nghị việc áp dụng Tiêu chuẩn Việt Nam 5529:2010 trong
quá trình học tập, làm việc và nghiên cứu thời kỳ hội nhập. Tác giả hi vọng những thông tin hữu ích này
sẽ giúp người đọc biết nhiều hơn về các quy tắc phiên chuyển và danh pháp IUPAC, ứng dụng trong học
tập và làm việc.
Từ khóa: quy tắc phiên chuyển, danh pháp hóa học, thuật ngữ hóa học
Abstract:
The paper attempts to introduce the rules of translating Chemical terms - Nomenclature of chemical
elements and compounds into Vietnamese (Vietnamese Standard 5529:2010 Chemical terms - Basic
principles). In addition, the article also emphasizes the importance and recommends the application
of Vietnamese Standard 5529:2010 in the process of learning, working and scientific research in the
integration period. It is hoped that useful information will help you to know more about translation rules
and IUPAC nomenclature, apply in your learning and working.
Keywords: translation rules, chemical nomenclature, chemical terms
1. Đặt vấn đề
Thuật ngữ và Danh pháp khoa học có vai trò rất quan trọng trong giáo dục, giao lưu giữa các lĩnh
vực nghiên cứu, trao đổi thông tin, truyền bá kiến thức khoa học cũng như trong giao tiếp xã hội. Các
hóa chất có mặt trong mọi hoạt động của đời sống con người. Số lượng các hợp chất hóa học thì ngày
càng tăng, đến nay đã có hàng chục triệu hóa chất với các tên gọi khác nhau. Có thể nói, ngành hóa học
là ngành sử dụng thuật ngữ khoa học chiếm tỷ lệ cao.
Trước thế kỷ 19, tên các hợp chất hóa học là những tên thông thường hoặc tên có tính hệ thống
rất thấp. Cùng với sự phát triển của hóa học, nhu cầu đặt tên cho các hóa chất ngày càng bức thiết. Năm
1892, Hội nghị Hóa học thế giới (tại Geneve) đã đưa ra những đề xuất đầu tiên về một hệ thống danh
pháp có tính quốc tế. Từ đó, danh pháp Geneve (Geneve Nomenclature) được dần dần phổ biến rộng rãi
trên thế giới. Qua nhiều giai đoạn, năm 1921, hệ thống danh pháp hóa học tiếp tục được hoàn chỉnh và
bổ sung bởi Hiệp hội quốc tế Hóa học thuần túy và ứng dụng (International Union of Pure and Applied
Chemistry – IUPAC). Hệ thống danh pháp IUPAC qua nhiều lần chỉnh lý, ngày càng có tính khoa học và
nhất quán cao, đáp ứng được sự phát triển nhanh chóng của các lĩnh vực hóa học [6].
Ở Việt Nam, danh pháp IUPAC đã và đang được sử dụng (đặc biệt trong hóa học hữu cơ). Tuy
nhiên, do chưa có sự thống nhất về cách phiên chuyển thuật ngữ (phần lớn là tên các chất hóa học) sang
tiếng Việt nên việc sử dụng danh pháp IUPAC càng thiếu nhất quán, gây khó khăn, lúng túng cho người
sử dụng. Trước và sau năm 1975, giới hóa học hai miền Nam - Bắc chưa có một hệ thống chung về danh
pháp và thuật ngữ, chưa có những quy tắc chung để mọi người tuân theo khi viết tên các hóa chất. Tình
trạng này dẫn đến việc phiên chuyển tùy tiện, tên một hóa chất có thể được viết dưới nhiều dạng khác
nhau, tình trạng các tác giả khác nhau sử dụng các cách phiên chuyển không giống nhau là rất phổ biến.
Soá 39 - Quyù I naêm 2020104
NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI
Các cách phiên chuyển khác nhau dẫn đến việc phiên chuyển tùy tiện, ít ai tuân thủ chặt chẽ
một quy tắc nào khi trình bày một công trình khoa học. Hầu như rất ít luận văn, luận án nào không có
nhận xét về việc sử dụng thuật ngữ một cách tùy tiện. Ví dụ có thể gặp các cách viết sau: axit/acid,
metan/methane/mê-tan, metil/metyl/methyl, alkan/alcan/ankan, oxy/oxi/oxygen, phosphor/phosphorus/
phosphore/phốt-pho, hidro/hydro/hydrogen, chloride/clorid/clorua; tên riêng cũng được phiên chuyển:
Het (Hess), Bôi (Boyle), Liuyt (Lewis), Van Hop (van’t Hoff),
Bất cập ở đây là tính thiếu nhất quán (đặc biệt có thể gây nhầm lẫn như trường hợp sulfua/sulfur/
sulfide/sulfit/sulfite/sun-fit), tính không khoa học (một hóa chất quen thuộc như NaCl được viết là natri
clorua/natri clorid/natri chloride/sodium chloride). Có cần thiết biến đổi từ gốc, sau đó người đọc phải
biến đổi ngược lại để có lại từ gốc? Việc biến đổi và lược bỏ một vài ký tự, ví dụ từ sodium chloride/
natrium chloride chuyển thành natri clorid, vậy gốc clorid được phát âm tiếng Việt như thế nào (và có
gây nhầm lẫn với gốc clorit)? Việc biến đổi này cũng làm cho đại bộ phận người cần sử dụng các thuật
ngữ hóa học không biết hoặc viết sai từ gốc. Ví dụ: “Anđehit” (viết theo phiên âm) có nguồn gốc dễ nhận
là Aldéhyde (tiếng Pháp) và thông dụng với Aldehyde (tiếng Anh), từ này biến đổi quá nhiều so với từ
gốc và khi tái tạo từ gốc, nó có thể được viết thành Andehide/Andehite/Andehyde.
Tính quốc tế và hội nhập là yêu cầu bức thiết của thời đại ngày nay. IUPAC cũng có đề nghị là tên
hóa chất nên giống nhau trong các thứ tiếng. Do vậy, rất cần thiết phải du nhập một số thuật ngữ cũng
như xây dựng các quy tắc phiên chuyển thuật ngữ hóa học sang tiếng Việt hoặc Việt hóa một cách hợp
lý. Tiếng Việt cũng dùng mẫu tự Latin như tiếng Anh, tiếng Pháp nên vấn đề danh pháp hóa học ở nước
ta không khó phiên chuyển. Vấn đề là nên áp dụng quy tắc phiên chuyển sao cho nhất quán để thuận tiện
trong việc tra cứu, trao đổi thông tin trong quá trình học tập, nghiên cứu giữa ngành hóa học và các ngành
khoa học tiếp cận hóa học, giữa các bậc học, trong nước và quốc tế được thuận lợi nhất.
Như vậy, bên cạnh danh pháp IUPAC, cần triển khai áp dụng các quy tắc phiên chuyển các thuật
ngữ hóa học sang tiếng Việt triệt để theo một quy định cụ thể.
2. Các quy tắc phiên chuyển
Sau khi nghiên cứu quyển “Danh pháp và Thuật ngữ hóa học Việt Nam” [6] (kết quả của đề tài “Xây
dựng hệ thống Danh pháp và Thuật ngữ hóa học Việt Nam” do Hội Hóa học Việt Nam chủ trì) và bộ 02
tiêu chuẩn quốc gia: TCVN 5529:2010 Thuật ngữ hóa học - Nguyên tắc cơ bản [2]và TCVN 5530:2010
Thuật ngữ hóa học - Danh pháp các nguyên tố và hợp chất hóa học [3], tác giả trích giới thiệu một số quy
tắc phiên chuyển thuật ngữ hóa học (chỉ trình bày phần Danh pháp hóa học) từ tiếng nước ngoài (tiếng
Anh, tiếng Pháp, tiếng Latin) sang tiếng Việt và áp dụng các quy tắc phiên chuyển để gọi tên một chất hóa
học. Các quy tắc này được xây dựng trên cơ sở tuân thủ các nguyên tắc chung về việc đảm bảo tính khoa
học, tính hệ thống và nhất quán, tính dân tộc và phổ cập, tính quốc tế và hội nhập, tính kế thừa.
2.1. Nguyên tắc về sử dụng phụ âm
2.1.1. Bổ sung các phụ âm không có trong tiếng Việt: f (ferrum); j (jasmin); z (benzen); w
(wolfram); mở rộng phạm vi sử dụng hai phụ âm k và p để phù hợp với ký hiệu (kali, krypton, paladi)
cũng như tên hóa chất (pentan) hoặc danh pháp IUPAC (alkan).
2.1.2. Chấp nhận các tổ hợp phụ âm: br (brom), cr (cromi), dr (hydro), fl (fluor), fr (freon,
wolfram), gl (glucose), gr (graphit), kr (krypton), pl (platin), pr (proton), sp (spin), st (sterol), str (stronti)
và tr (natri).
2.1.3. Phụ âm g đứng trước nguyên âm e đọc như phụ âm bổ sung j mà không chuyển thành
gi hoặc gh. Ví dụ germani, geraniol sẽ được đọc như jermani và jeraniol.
2.1.4. Phụ âm d không chuyển thành đ nhưng vẫn đọc như đ trong tiếng Việt. Ví dụ ở các từ
hydro, indi,
Thoâng tin KH - GD Tröôøng Ñaïi hoïc Xaây döïng Mieàn Taây 105
NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI
2.1.5. Phụ âm c đứng trước các nguyên âm i, e, y trong những trường hợp cụ thể có thể để
nguyên mà không chuyển thành x. Ví dụ: vẫn giữ nguyên cách ghi là Ceri (nguyên tố Ce), acid (axit),
aceton (axeton), cyclo (xyclo), glycerin (glyxerin), acetic (axetic), cyanide (xyanide),
2.1.6. Không thay phụ âm s bằng x hoặc z ở âm vận cuối (ase, ose). Ví dụ ở các từ glucose,
base,
2.1.7. Giữ nguyên các phụ âm kép tạo vần trong tiếng Việt như th, ch, ph. Những vần bắt đầu
bằng các phụ âm này trong hóa học rất nhiều (methan, ethylen, lithi, thali, thiophen, naphthalen, phenol,
chlor, cholesterol, chitin, chiral,... Trong một số trường hợp cụ thể, h trong các phụ âm là h “câm” có thể
bỏ đi như chromium (cromi), bismithum (bismut),
2.2. Nguyên tắc về sử dụng nguyên âm
2.2.1. Đối với các tổ hợp nguyên âm
Giữ nguyên cách viết một số tổ hợp nguyên âm ae, au, ea, ei, eo, eu, io, ou, uo, yo và đọc nhanh
từng âm theo tiếng Việt. Ví dụ: ae (caesi), au (tautomer), ea (seaborgi), ei (einsteini), eo (neodym), eu
(eugenol, eutecti), io (iod, niobi), ou (coumarin), uo (fluor), yo (yohimbin). Chú ý không đọc eu thành ơ
như trong tiếng Pháp, không đọc eugenol thành ơgenol.
2.2.2. Không dùng nguyên âm i và y trong mọi trường hợp mà phải viết đúng theo danh pháp
IUPAC của từng từ. Ví dụ: methyl, hydro, aldehyde, chứ không được dùng i thay cho y.
2.3. Các nguyên tắc rút gọn khi phiên chuyển
2.3.1. Viết liền các âm tiết khi Việt hóa các thuật ngữ ngôn ngữ khác, như: natri, carbon,
2.3.2. Bỏ bớt một trong hai phụ âm của phụ âm đôi. Ví dụ: cc (sacarose), ff (cafein), ll (alyl,
paladi), mm (amoni), nn (cinamic), rr (pyrole), tt (ytri). Trong một số trường hợp cụ thể, vẫn giữ phụ
âm kép, ví dụ như: mm trong ammin, là phối tử của phức chất để không lẫn với amin.
2.3.3. Bỏ bớt nguyên âm e ở cuối từ nếu không gây nhầm lẫn. Ví dụ viết benzen thay vì benzene;
propan thay vì propane. Trong trường hợp nếu bỏ nguyên âm này đi có thể gây hiểu lầm thì vẫn giữ, mặc
dù có thể phát âm hoặc không phát âm (indole, pyrole, thiazole,).
2.3.4. Bỏ dấu thanh và dấu mũ
Dấu thanh ở đây chủ yếu là dấu sắc. Bỏ dấu sắc trên các vần, đặc biệt là các vần ngược at, ac, ap,
et, ep, it, ip. Bỏ các dấu mũ ô, ê, ơ khi viết (trừ trường hợp nitơ).
2.4. Các nguyên tắc về thu nhập các vần ngược và về một số hậu tố
2.4.1 Thu nhập các vần ngược chưa có trong tiếng Việt
Trường hợp phụ âm đứng ở cuối âm vận mà vốn dĩ không có trong các vần của tiếng Việt cần được
chấp nhận viết như nguyên tiếng nước ngoài. Thuộc nhóm này gồm các trường hợp: vần ad (cadmi), af
(hafni), ag (magnesi), ar (argon, arsen, carbon), as (astati), er (erbi, germani, terbi, yterbi), id (amid),
ir (zirconi), is (bismuth), od (iod), or (bor, chlor, fluor), os (osmi, phosphor), yb (molybden), al (calci,
cobal, tantal), ol (holmi), el (nickel).
Đối với các nguyên tố B, Cl, F, I cần giữ các phụ âm r và d ở cuối để dễ dàng chuyển sang các
dẫn chất của chúng như chloric, chloride, fluoric, boric, boran, iodic, iodat, v.v..
2.4.2. Bỏ hầu hết các hậu tố -um trừ hai nguyên tố Cm (curium) và Tm (thulium) là những
trường hợp đặc biệt vì để bảo đảm sự tương hợp giữa ký hiệu và tên nguyên tố hoặc để không gây
nhầm lẫn. Đối với tên các nguyên tố hóa học khác có hậu tố -um thì bỏ hậu tố này, các nguyên tố và
một số ion có hậu tố -ium thì chỉ bỏ phần -um. Ví dụ: K (kali), Na (natri), Pd (paladi), Sm (samari), Pr
Soá 39 - Quyù I naêm 2020106
NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI
(praseodymi), U (urani), Ti (titani), Pt (platin), La (lanthan), Mn (mangan, ion carboni, ion oxoni, ion
amoni,
2.4.3. Dùng hậu tố -ide thay cho các hậu tố -ua hoặc -ur (có nguồn gốc phiên chuyển từ tiếng
Pháp), và đọc như từ “ai” trong tiếng Việt. Ví dụ: chloride, carbide, sulfide thay vì clorua, carbua,
sulfuaTrường hợp oxide, vẫn giữ nguyên như cách phát âm như trước đây là oxit.
3. Áp dụng quy tắc phiên chuyển gọi tên nguyên tố và hóa chất
Để gọi tên tiếng Việt cho các nguyên tố và hợp chất hóa học, cần tuân thủ các nguyên tắc nêu trong
TCVN 5529:2010 và TCVN 5530:2010.
3.1. Nguyên tố hóa học trong bảng hệ thống tuần hoàn
3.1.1. Đối với các nguyên tố đã có tên Việt hoặc Hán-Việt
Giữ nguyên cách gọi đối với các nguyên tố đã có tên Việt hoặc Hán-Việt đang được sử dụng rộng
rãi. Như các nguyên tố bạc (Ag), vàng (Au), nhôm (Al), đồng (Cu), sắt (Fe), thủy ngân (Hg), chì (Pb),
thiếc (Sn), lưu huỳnh (S), kẽm (Zn). Tuy nhiên, để có sự liên hệ với nguồn gốc của ký hiệu nguyên
tố và danh pháp các dẫn chất liên quan, cần viết kèm theo tên Latin trong dấu ngoặc đơn. Ví dụ: bạc
(Argentum), chì (Plumbum),
3.1.2. Tên các nguyên tố không phiên chuyển mà chỉ rút gọn phần đuôi
Tên nguyên tố liên quan đến tên người và tên địa đanh sẽ không phiên chuyển mà chỉ bỏ đuôi-um.
Ví dụ như viết Franci (Francium), Dubni (Dubnium), Chì (Plumbum), Đồng (Cuprum), Chlor, Fluor,
Chromi, Cobalt, Arsenic, Phosphor, Magnesi.. Như vậy, tên các nguyên tố hóa học (theo thứ tự ABC)
và ký hiệu nguyên tử được nêu trong Bảng 1. Tên Latin của một số nguyên tố được viết trong ngoặc đơn.
Bảng 1: Tên một số nguyên tố hóa học thường gặp, trích lược [3]
Tên nguyên tố Ký hiệu Tên nguyên tố Ký hiệu
Actini Ac Lưu huỳnh (Sulfur) S
Antimon Sb Magnesi Mg
Argon Ar Mangan Mn
Arsenic As Mendelevi Md
Bạc (Argentum) Ag Molypden Mo
Bismuth Bi Natri Na
Bohri Bh Neon Ne
Bor B Nhôm (Aluminium) AI
Brom Br Nickel Ni
Cadmi Cd Niobi Nb
Californi Cf Nitơ (Nitrogen) N
Calci Ca Nobeli No
Carbon C Oxy (Oxygen) O
Ceri Ce Paladi Pd
Chì (Plumbum) Pb Phosphor P
Chlor Cl Platin Pt
Thoâng tin KH - GD Tröôøng Ñaïi hoïc Xaây döïng Mieàn Taây 107
NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI
Cobalt Co Radon Rn
Chromi Cr Sắt (Ferrum) Fe
Đồng (Cuprum) Cu Seleni Se
Einsteni Es Silic Si
Fluor F Stronti Sr
Heli He Thiếc (Stanum) Sn
Hydro (Hydrogen) H Thủy ngân (Hydrargyrum) Hg
Iod I Titani Ti
Kali K Urani U
Kẽm (Zincum) Zn Vanadi V
Krypton Kr Vàng (Aurum) Au
Lithi Li Wolfram (Tungsten) W
3.2. Hợp chất hóa học thông dụng
3.2.1. Quy tắc gọi tên
Có ba kiểu gọi tên các hợp chất hóa học: kiểu lưỡng nguyên, kiểu phối trí, kiểu thay thế. Kiểu phối
trí chủ yếu áp dụng gọi tên phức chất, kiểu thay thế áp dụng chủ yếu cho chất hữu cơ. Danh pháp hóa
học phức chất và chất hữu cơ đòi hỏi sự hiểu biết kiến thức chuyên môn tương đối phức tạp về phối tử,
nguyên tử trung tâm, công thức cấu tạo, và phục vụ chuyên sâu cho một số ít chuyên ngành (chủ yếu
ngành y dược), sẽ được trình bày trong một bài viết khác. Bài viết này chỉ trình bày giới hạn các quy tắc
gọi tên chất vô cơ đơn giản thường gặp.
3.2.2. Danh pháp các hợp chất vô cơ đơn giản
Nguyên tắc: chủ yếu sử dụng danh pháp kiểu lưỡng nguyên. Thành phần của hợp chất gồm hai hợp
phần: hợp phần âm điện và hợp phần dương điện.
Hợp chất được hợp thành bởi các hợp phần âm và dương cùng với các tiền tố chỉ độ bội
(multiplicative prefix) (gọi tắt là tiền tố). Hợp phần dương viết trước, hợp phần âm viết sau và được
phân cách nhau bằng khoảng trống.
Cách gọi tên:Trong hợp chất vô cơ đơn giản, tên của hợp phần dương là tên của nguyên tố, tên của
hợp phần âm đơn tố thì kết thúc bằng hậu tố ide, còn tên của hợp phần âm dị tố nói chung có hậu tố at.
Các hợp phần dương và âm đều có thể là những nhóm và số lượng hợp phần cũng có thể lớn hơn một.
Nếu có nhiều hợp phần thì tên các hợp phần được viết theo trật tự ABC của ký tự đầu của tên các hợp
phần hoặc của ký tự thứ hai của tên các hợp phần nếu ký tự đầu giống nhau.
Cần chú ý trong danh pháp hóa học Việt Nam, do chúng ta dùng tên Latin và tên Việt (và Hán-Việt)
đối với một số nguyên tố mà IUPAC dùng tên tiếng Anh, cho nên thứ tự các từ trong một số trường hợp
không giống như trong danh pháp IUPAC.
Vị trí của hydro luôn luôn nằm sau cùng trong số các hợp phần dương, có thể có khoảng trống phân
cách với hợp phần âm nếu không chắc chắn nó có liên kết với anion hay không. Tên các hợp chất kép
(addition compound) được viết sau tên hợp chất chính phân cách bởi gạch ngang dài và tiếp đó là tỷ lệ của
chúng trong ngoặc đơn. Cách viết tên các phân tử nước kết tinh cũng như vậy. Ví dụ: KCl (kali chloride),
KMgCl
3
(kali magnesi chloride, tên IUPAC là magnesium potassium chloride), NaNH4HPO4 (amoni
Soá 39 - Quyù I naêm 2020108
NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI
natri hydrophosphat), AlK(SO4)2.12H2O (kali nhôm bis(sulfat)-nước(1/12), tên IUPAC là aluminium
potassium bis(sulfat)-water( 1/12)), Na
2
F(HCO
3
) (dinatri fluoride hydrocarbonat).
Có những cách khác nhau để thể hiện tên các nhóm âm điện đa nguyên tử. Các nhóm như vậy có
các nguyên tử cùng loại được viết với các tiền tố nhất định. Ví dụ như −22O dioxide hoặc dioxide(2-)
nhưng tên thông thường là peroxide vẫn dùng được.
Một số tên truyền thống (thường không kết thúc bằng hậu tố -at) có thể vẫn được sử dụng, mặc dầu
tên hệ thống vẫn chuẩn xác hơn. Tên hệ thống của một số oxoacid được viết như trong Bảng 2 dưới đây:
Bảng 2: Tên hệ thống của một số oxoacid, trích lược từ [3]
Kí hiệu hóa học Tên hệ thống
H
3
BO
3
trihydro trioxoborat
H
2
CO
3
dihydro trioxocarbonat
HNO
3
hydro trioxonitrat
HNO
2
hydro dioxonitrat
H
3
PO4 trihydro tetraoxophosphat (V)
H
2
S
2
O4 dihydro tetraoxodisulfat (S-S).
Trạng thái oxy hóa của ion được biểu thị bằng số La Mã (trong ngoặc đơn), còn điện tích biểu thị
bằng số Arập cùng với dấu điện tích (cũng nằm trong ngoặc đơn). Một số minh họa về tên hệ thống của
các ion như ở Bảng 3 dưới đây.
Bảng 3: Tên của một số ion/nhóm ion thường gặp, trích lược từ [3]
Cation Anion
Kí hiệu Tên gọi Kí hiệu Tên gọi
Al3+ nhôm
AsO
3
3- arsenit/ trioxoarsenat (3-)/
trioxoarsenat (III)
Au+
Au3+
vàng (1+)/vàng (I)
vàng (3+)/vàng (III)
AsO4
3- arsenat/
tetraoxoarsenat (3-)/
tetraoxoarsenat (V)
Co2+
Co3+
cobalt (2+)/cobalt (II)
cobalt (3+)/cobalt (III)
Cl- chloride
Cr2+
Cr3+
chromi (2+)/chromi (II)
chromi (3+)/chromi (III)
ClO- hypochlorit/ oxochlorat (1-)/
oxochlorat (I)
Cu+
Cu2+
đồng (1+)/đồng (I)
đồng (2+)/đồng (II)
ClO4
- perchlorat/ tetraoxochlorat (1-)/
tetraoxochlorat (VII)
Fe2+
Fe3+
sắt (2+)/ sắt (II)
sắt (3+)/ sắt (III)
CrO4
2- chromat/ tetraoxochromat (2-)/
tetraoxochromat (VI)
Thoâng tin KH - GD Tröôøng Ñaïi hoïc Xaây döïng Mieàn Taây 109
NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI
H
3
O+ oxoni
HCO
3
- hydrocarbonat (1-)
hydrotrioxocarbonat (1-)
hydrotrioxocarbonat (IV)
Na+ natri OH- hydroxide
NH4
+ amoni/azani
HPO4
2- hydrophosphat (2-)
hydrotetraoxophosphat (2-)
hydrotetraoxophosphat (V)
Pb2+
Pb4+
chì (2+)/chì (lI)
chì (4+)/chì (IV)
NO
3
-
nitrat/ trioxonitrat (1-)/ trioxonitrat
(V)
Sn2+
Sn4+
thiếc (2+)/thiếc (II)
thiếc (4+)/thiếc (IV)
PO4
3- phosphat/ orthophosphat
tetraoxophosphat (3-)
tetraoxophosphat (V)
UO
2
2- uranyl (VI)/dioxourani (2+) SO4
2-
sulfat/ tetraoxosulfat (2-)/
tetraoxosulfat (VI)
Như vậy, sau khi đã thiết lập các cách gọi tên cation và anion, có thể thấy rằng, tên kiểu lưỡng
nguyên của các hợp chất thực tế không khác với tên của hợp chất nhị tố gồm tên của hợp phần âm điện
và hợp phần dương điện. Tên của cation luôn luôn đặt trước tên của anion và phân cách nhau bởi khoảng
trống. Nguyên tắc này luôn luôn phải được tuân thủ và không có ngoại lệ.
4. Kết luận & đề xuất
Từ những vấn đề đã phân tích ở trên, tác giả nhận thấy:
Việc tuân thủ các quy tắc phiên chuyển nêu trên trong công tác biên soạn, trình bày các vấn đề có
liên quan thuật ngữ hóa học sẽ đảm bảo sự nhất quán, tính khoa học, tính hội nhập nhằm tạo điều kiện
thuận lợi cho việc tra cứu thông tin, giao lưu giữa các ngành khoa học tiếp cận hóa học và trong truyền
thông - giao tiếp xã hội.
Cần triển khai áp dụng triệt để các quy tắc phiên chuyển và danh pháp IUPAC khi viết các thuật
ngữ hóa học trong các công trình khoa học, trong các văn bản có sử dụng thuật ngữ hóa học sao cho
đảm bảo tính khoa học và nhất quán. Nên áp dụng thống nhất các quy tắc trên khi sử dụng thuật ngữ hóa
học, từ các tài liệu chuyên môn (bài giảng, đề thi,), đến các công trình khoa học, các thông tin truyền
thông,... Không nên lo ngại rằng sinh viên/người đọc bình thường không sử dụng/hiểu được vì hiện nay
trình độ ngoại ngữ của sinh viên/người đọc trong nước mỗi ngày một tăng. Việc phiên âm triệt để (ví dụ
như axit, bazơ,) chủ yếu bắt nguồn từ sách giáo khoa trung học cơ sở phổ thông nhưng hệ thống t