Sản xuất điện tại Việt Nam đang là ngành công nghiệp năng lượng có tỷ lệ phát thải khí nhà
kính (KNK), nguyên nhân trực tiếp gây ra biến đổi khí hậu (BĐKH), lớn nhất cả nước. Vì vậy,
để thực hiện thành công các cam kết của Việt Nam với Liên hợp Quốc về BĐKH, nỗ lực giảm
phát thải trong ngành công nghiệp này là hết sức cần thiết. Bài viết này giới thiệu hai công cụ
quản lí giảm phát thải CO2 về kinh tế là phí thải và giấy phép xả thải (GPXT), đồng thời so
sánh hiệu quả của hai công cụ trên theo chỉ tiêu hiệu quả chi phí dựa vào chi phí giảm thải
cận biên MAC, khi hai công cụ này được áp dụng trên thị trường sản xuất điện có tổn tại
(SMTT) tại Việt Nam. Các kết quả nghiên cứu này cung cấp thông tin tham khảo cho các nhà
hoạch định chính sách trong việc giảm phát thải CO2 tại Việt Nam nói chung và ngành điện
nói riêng
5 trang |
Chia sẻ: thanhuyen291 | Ngày: 10/06/2022 | Lượt xem: 635 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Áp dụng công cụ phí thải và công cụ giấy phép xả thải đối với giảm phát thải CO₂ từ hoạt động sản xuất điện tại Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Giải thưởng Sinh viên Nghiên cứu khoa học Euréka lần thứ XIX năm 2017 Kỷ yếu khoa học
308
ÁP DỤNG CÔNG CỤ PHÍ THẢI VÀ CÔNG CỤ GIẤY PHÉP XẢ THẢI ĐỐI VỚI
GIẢM PHÁT THẢI CO2 TỪ HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT ĐIỆN TẠI VIỆT NAM
Đỗ Thị Ngọc Hà*
Trường Đại học Ngoại thương, Hà Nội
*Tác giả liên lạc: dongocha1310@gmail.com
TÓM TẮT
Sản xuất điện tại Việt Nam đang là ngành công nghiệp năng lượng có tỷ lệ phát thải khí nhà
kính (KNK), nguyên nhân trực tiếp gây ra biến đổi khí hậu (BĐKH), lớn nhất cả nước. Vì vậy,
để thực hiện thành công các cam kết của Việt Nam với Liên hợp Quốc về BĐKH, nỗ lực giảm
phát thải trong ngành công nghiệp này là hết sức cần thiết. Bài viết này giới thiệu hai công cụ
quản lí giảm phát thải CO2 về kinh tế là phí thải và giấy phép xả thải (GPXT), đồng thời so
sánh hiệu quả của hai công cụ trên theo chỉ tiêu hiệu quả chi phí dựa vào chi phí giảm thải
cận biên MAC, khi hai công cụ này được áp dụng trên thị trường sản xuất điện có tổn tại
(SMTT) tại Việt Nam. Các kết quả nghiên cứu này cung cấp thông tin tham khảo cho các nhà
hoạch định chính sách trong việc giảm phát thải CO2 tại Việt Nam nói chung và ngành điện
nói riêng.
Từ khóa: Phát thải CO2, biến đổi khí hậu, sản xuất điện, phí thải, giấy phép xả thải.
APPLYING EMISSION FEES AND TRADABLE PERMITS IN REDUCING CO2
EMISSIONS FROM ELECTRICITY GENERATION ACTIVITIES IN VIETNAM
Do Thi Ngoc Ha*
Foreign Trade University, Hanoi
*Corresponding authour: dongocha1310@gmail.com
ABSTRACT
Vietnam electricity generation is currently an energy industry with the highest greenhouse
gas (GHG) emission, which is the most primary cause of climate change. Therefore, in order
to successfully implement Vietnam's commitments to the United Nations on climate change,
those efforts to reduce CO2 emissions in this industry are urgently needed. In this article we
study two environmental management tools in regulating CO2 emissions, which are emission
fees and tradable permits, and compares the effectiveness of these two tools in terms of cost-
effectiveness based on Margin Abatement Cost (MAC), when applied in the Vietnam
electricity generation market at which market power exists. These findings provide a
scientific reference for policymakers in CO2 emissions regulation in Vietnam, especially in
electricity generation industry.
Keywords: CO2 emissions, climate change, Electricity generation, emission fee, tradable
permits
TỒNG QUAN
Biến đổi khí hậu (BĐKH) đang ngày càng
diễn biến phức tạp và khó lường, phát thải
khí nhà kính (KNK), trong đó phần lớn là
CO2 (>90%), được cho là nguyên nhân chính
của hiện tượng khí hậu cực đoan đang gia
tăng này. Bên cạnh đó, phát thải CO2 từ hoạt
đông sản xuất điện đã, đang và sẽ chiếm
phần lớn tỷ trọng phát thải KNK của cả
nước. Vì vậy, làm thế nào để có thể kiểm
soát lượng phát thải CO2 hằng năm nói
chung và trong lĩnh vực sản xuất điện nói
riêng, nhằm đảm bảo cho phát triển bền vững
của đất nước là một câu hỏi lớn trong những
năm gần đây. Hiện nay, ngoài các công cụ về
mặt pháp lý, kỹ thuật, thì các công cụ quản lí
môi trường về kinh tế nhằm giảm phát thải
CO2 cũng rất được ưa chuộng, trong đó bao
gồm: công cụ phí thải và giấy phép xả thải
(GPXT). Thực tế đã chứng minh rằng, hai
công cụ này đã góp một phần rất lớn vào các
chương trình giảm thải CO2 của một số các
quốc gia tiên tiến trên thế giới. Nghiên cứu
này đánh giá hiệu quả của hai công cụ trên
dựa vào chỉ tiêu hiệu quả chi phí. Nghĩa là,
công cụ nào đạt được mức chi phí hiệu quả
Giải thưởng Sinh viên Nghiên cứu khoa học Euréka lần thứ XIX năm 2017 Kỷ yếu khoa học
309
thì sẽ được coi là có hiệu quả hơn về mặt chi
phí so với công cụ còn lại, đồng thời, với
công cụ không đạt được mức chi phí hiệu
quả, thì mức chênh lệch giữa chi phí thực khi
áp dụng công cụ đó so với mức chi phí hiệu
quả là bao nhiêu. Bài nghiên cứu sẽ đưa ra
các đề xuất về việc lựa chọn thi hành một
hay kết hợp hai công cụ trên trong các nỗ lực
giảm phát thải CO2 từ thị trường sản xuất
điện có tồn tại sức mạnh thị trường (SMTT)
tại Việt Nam.
Theo báo cáo mới nhất của Bộ tài nguyên và
Môi trường cho Công ước Khung của Liên
hợp Quốc về BĐKH (2014), phát thải CO2
trong ngành năng lượng được tính vào năm
2010, và ước tính vào năm 2020, 2030 như
sau: năm 2010 chiếm tỷ trọng 57.2% , 2020
và 2030 lần lượt vào khoảng 381,1 và 648,5
triệu tấn CO2 tương đương, là nguồn phát
thải khí nhà kính lớn nhất, chiếm tỷ trọng lần
lượt là 81.78% và 85.27%. Xu hướng gia
tăng phát thải trong lĩnh vực năng lượng này
được dự báo trên cơ sở kế hoạch của nhà
nước về phát triển ngành điện giai đoạn 2011
– 2020, có xét đến năm 2030 với sự phát
triển mạnh mẽ của sản xuất điện nhiệt than,
lĩnh vực phát thải ra phần lớn CO2 của toàn
ngành điện.
Hình 1. Tỷ trọng nhiệt than theo công suất (%) 2020-2030
Mặc dù thị trường điện Việt Nam đang
chuyển dần sang thị trường cạnh tranh, tuy
nhiên vào năm 2010, thị trường điện vẫn ở
dạng độc quyền với Tập đoàn Điện lực Việt
Nam (EVN) nắm giữ hơn 51% tổng lượng
điện sản xuất, nắm toàn bộ khâu truyền tải,
vận hành hệ thống điện, phân phối và kinh
doanh bán lẻ điện, còn lại là các doanh
nghiệp khác như PVN, Vinacomin, Tỷ
trọng tổng lượng điện sản xuất của EVN
trong các năm từ 2011 đến 2015 tuy có giảm
so với 2015, nhưng vẫn duy trì ở mức trung
bình 56%. Vì vậy, trong khuôn khổ bài
nghiên cứu này, có thể coi thị trường điện
Việt Nam hiện nay vẫn còn tồn tại SMTT, và
doanh nghiệp sở hữu SMTT - quyền quyết
định giá này chính là EVN.
Hiện nay, tại một số các quốc gia và khu vực
phát triển trên thế giới như Mỹ, EU, Hàn
Quốc, phí thải và GPXT đang chứng minh
được hiệu quả của mình trong giảm phát thải
CO2. Phí xả thải là một loại phí đánh vào
lượng chất thải thực tế của người sản xuất.
Còn GPXT do cơ quan quản lý môi trường
ban hành và doanh nghiệp (DN) chỉ được
phép thải trong phạm vi hạn ngạch phát thải
(HNPT) của mình và có thể được đem ra
mua bán, trao đổi (tradable/marketable) trên
thị trường. Xét về mặt lý thuyết, phí thải và
GPXT sẽ có hiệu quả về mặt chi phí như
nhau nếu Chính phủ có đầy đủ thông tin về
chi phí giảm thải của các DN và thị trường
mua bán phát thải là thị trường hoàn hảo
(TTHH). Tuy nhiên trên thực tế, việc xuất
hiện SMTT và sự không chắc chắn trong việc
dự đoán chi phí giảm thải của DN sẽ là một
rào cản lớn đến nỗ lực hướng tới chi phí hiệu
quả.
VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP
Mô hình của Hahn (1984)
Mô hình này nghiên cứu về phản ứng của các
doanh nghiệp trên thị trường mua bán phát
thải có tồn tại SMTT trong hoạt động giao
dịch phát thải. Kết luận ông đưa ra phản ánh
tầm quan trọng của HNPT ban đầu mà nhà
nước cấp cho doanh nghiệp có SMTT đối với
hiệu quả chi phí xã hội. Hiệu quả chi phí xã
hội chỉ có được khi, hạn ngạch đó phải đúng
bằng với mức thải mà doanh nghiệp có
SMTT sử dụng trong thực tế. Chỉ một sự
chênh lệch nhỏ giữa hai mức hạn ngạch thải
49.30%
55%
53.20%
46.00%
48.00%
50.00%
52.00%
54.00%
56.00%
2020 2025 2030
Tỷ trọng nhiệt than theo công suất (%)
Tỷ trọng nhiệt than theo công suất (%)
Giải thưởng Sinh viên Nghiên cứu khoa học Euréka lần thứ XIX năm 2017 Kỷ yếu khoa học
310
trên cũng sẽ gây ra tổn thất cho xã hội.
Mô hình DDF
Mô hình DDF (Directional distance function)
đã được sử dụng rộng rãi trên thế giới bởi
nhiều nhà kinh tế học để tính toán mức chi
phí giảm thải cận biên MAC. Chi phí giảm
thải cận biên từ phát thải CO2 trong hoạt
động sản xuất điện ở Việt Nam sẽ được tính
toán nhờ mô hình này và sau đó hàm chi phí
giảm thải cận biên MAC cũng sẽ được xây
dựng.
Như vậy, mô hình DDF cho chúng ta một
phương trình gồm 3 biến và 25 hệ số để tính
ra được chi phí giảm thải cận biên MAC theo
tư cách là giá của một đơn vị CO2. Từ đó
chúng ta có thể sử dụng mô hình này để
thành lập hàm MAC dựa theo những số liệu
thu thập được. Sự kết hợp của mô hình DDF
và mô hình của Hahn sẽ là nền tảng cho
những dự đoán về hiệu quả của hai công cụ
phí thải và GPXT.
Dữ liệu nghiên cứu
Số liệu được thu thập từ các Báo cáo thường
niên của EVN từ năm 2010-2015, cho biết về
tổng doanh thu (tỷ VNĐ), vốn đầu tư (tỷ
VNĐ), công suất điện hàng năm (MWh) và
số lượng lao động làm việc cho EVN (104
người). Ngoài ra, các số liệu về năng lượng
được sử dụng (104 tấn), lượng thải CO2 (104
tấn) của EVN và Z cũng được thu thập dựa
trên báo cáo về hệ số phát thải của lưới điện
Việt Nam. (Để đơn giản hóa vấn đề, chúng ta
coi các DN trên thị trường điện Việt Nam
(trừ EVN) là doanh nghiệp Z).
KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
Kết quả
Đánh giá hiệu quả chi phí của GPXT
Chi phí giảm thải của EVN và Z dựa trên mô
hình DDF được tính toán trong Bảng 1.
Bảng 1. Chi phí giảm thải của EVN và Z dựa trên mô hình DDF 2010 – 2015
EVN Giá/tCO2 (tỷ VNĐ) Z Giá/tCO2 (tỷ VNĐ)
2010 0.0000001794525758 2010 0.0000005449229308
2011 0.00001618939019 2011 0.00001840571652
2012 0.00000160071438 2012 0.000003803829134
2013 0.000005085675953 2013 0.000006550603365
2014 0.00001084127823 2014 0.000001090283216
2015 0.00002839613217 2015 -3.88E-12
Dựa vào các cơ sở lý thuyết về phí thải và
GPXT, cùng với mô hình của Hahn, chúng ta
có thể quy việc tính toán sự chệnh lệch giữa
tổng chi phí hiệu quả và tổng chi phí trên thị
trường mua bán phát thải có SMTT thông
qua chênh lệch (%) giữa chi phí hiệu quả của
DN 1 với chi phí của nó trong thị trường mua
bán phát thải ((%∆𝑇𝐶). Giả sử chênh lệch
giữa 𝑒1 và 𝑒1
0 là s= 1% (nhỏ), 20% (lớn), và
tổng hạn ngạch của chính phủ là 𝐿 =
7686.425 (104 tấn). Chênh lệch %∆𝑇𝐶 có
kết quả như sau: Trường hợp 𝑠 = 1%:
Theo phương pháp tiếp cận của Phí thải, nếu
tất cả các DN đều có hành vi hiệu quả chi
phí, thì mức phí 𝑡 luôn được xác định bởi giá
trị của 𝑀𝐴𝐶. Từ đây có thể thấy, xã hội luôn
đạt hiệu quả chi phí.
Thảo luận
Từ các kết quả trên, chúng ta có thể thấy:
(1) Khi có xuất hiện SMTT trên thị trường
mua bán phát thải (như ở thị trường điện Việt
Nam) thì tùy vào cách phân phối HNPT cho
DN có SMTT mà có thể kết luận rằng công
cụ GPXT có hiệu quả về mặt chi phí, trong
khi đó công cụ phí thải có hiệu quả chi phí
trong cả hai trường hợp trên.
(2) Với hai trường hợp s = 1% và s = 20%,
không có sự chênh lệch đáng kể về lượng %
chi phí tăng lên so với mức hiệu quả. Tuy
nhiên, trong cả hai trường hợp, thì lượng phát
thải của EVN luôn lớn hơn lượng phát thải
của DN này trong trường hợp có hiệu quả chi
phí. Có thể thấy rằng, khi có tác động của
SMTT, thì EVN có xu hướng phát thải nhiều
hơn.
(3) Trong cả hai thị trường mua bán phát thải
hoàn hảo (thị trường đạt được mức hiệu quả
chi phí) và có SMTT, lượng phát thải của
EVN luôn chiếm phần lớn trong mức HNPT
mà Chính phủ ban hành cho tất cả các doanh
nghiệp. Vì vậy, nếu cơ chế thị trường mua
bán phát thải được ban hành, thì hầu hết
HNPT đểu rơi vào tay EVN, các doanh
nghiệp có thị phần ít hơn như PVN,
Vinacomin,sẽ có ít HNPT hơn và do đó
chi phí giảm thải của các doanh nghiệp này
sẽ tăng lên do phải mua thêm HNPT hoặc trả
tiền phạt trên mỗi đơn vị phát thải CO2 vượt
Giải thưởng Sinh viên Nghiên cứu khoa học Euréka lần thứ XIX năm 2017 Kỷ yếu khoa học
311
quá mức HNPT. Điều này một mặt tác động
tiêu cực đến tổng chi phí giảm thải của xã hội
và tạo điều kiện cho EVN phát thải nhiều
hơn, tuy nhiên lại tạo ra động lực cho các
doanh nghiệp không có SMTT chiếm gần
50% thị phần trên thị trường sản xuất điện nỗ
lực giảm thải bằng nhiều biện pháp khác
nhau như cải tiến công nghệ sản xuất, thay
đổi nguyên liệu đầu vào,
Tóm lại, xét về mặt chi phí xã hội, có thể cho
rằng công cụ phí thải có hiệu quả hơn công
cụ GPXT theo những phân tích ở trên. Tuy
nhiên, nếu xét đến các chỉ tiêu đánh giá hiệu
quả khác ngoài hiệu quả chi phí, thì phí thải
chưa phải là công cụ hiệu quả nhất về chi phí
vì chúng không tham gia vào tất cả các biện
pháp kiểm soát phát thải của các DN sản xuất
điện, mà nó chỉ ràng buộc các DN này phải
chịu phí. Với mức doanh thu tăng trung bình
là 19.64% hàng năm, thì đây hoàn toàn là cơ
sở để EVN và có có động cơ phát thải nhiều
hơn. Nếu mức phí thải chưa thực sự cao và
không có ảnh hưởng nhiều đến tổng chi phí
của các doanh nghiệp này, cùng với sự tiến
bộ trong công nghệ sản xuất, hiệu suất đốt
than ở các nhà máy điện tốt hơn thì khả năng
các doanh nghiệp này sẵn sảng chi trả cho
một mức phí trên một đơn vị thải CO2 là rất
cao. Hơn nữa, phí thải giảm phát thải bằng
cách tăng giá điện, làm giảm nhu cầu và đầu
ra cân bằng, nó khuyến khích các DN sản
xuất điện đốt ít than hơn hoặc tiêu dùng
nhiên liệu hóa thạch một cách tiết kiệm hơn,
nhưng nó không tạo ra động cơ cho các DN
này đốt than sạch hơn hoặc thay thế nhiên
liệu sạch trong quá trình sản xuất điện. Ngoài
ra, điện là một loại hàng hóa không chịu
nhiều tác động về giá cả do cầu ít co giãn,
cùng nhu cầu điện năng ở Việt Nam tăng lên
nhanh thì việc đặt mức phí thải ở mức cao sẽ
khiến giá điện tăng cao và về mặt chính trị là
rất khó thực hiện.
Bên cạnh đó, trong một khoảng thời gian dài,
các hệ thống mua bán GPXT đã chứng minh
được sự hiệu quả của mình trong nỗ lực giảm
thải của một số nước. Chẳng hạn như ở Hoa
Kỳ, chương trình mưa axit đã góp phần làm
giảm đáng kể lượng khí thải từ các nhà máy
điện đốt than, (Nielson, 2010),Hệ thống
mua bán phát thải của Châu Âu gồm 31 nước
cũng đã qua 3 giai đoạn giao dịch và HNPT
KNK được giảm 1.7% mỗi năm giai đoạn
2013 -2020, và các nước này cũng đặt mục
tiêu giảm hạn ngạch phát thải mỗi năm 2.2%
vào giai đoạn sau năm 2020.
Nếu áp dụng công cụ GPXT ở thị trường
điện Việt Nam, thì lượng phát thải của các
DN được kiểm soát ở mức nhất định cho nhà
nước quản lý, việc mua bán phát thải sẽ do
thị trường tự vận hành. Như vậy, Chính phủ
luôn chủ động được trong việc kiểm soát
lượng phát thải hàng năm và có thể đề ra các
kế hoạch tương lai trong việc giảm dần
HNPT. Tuy nhiên, đối với thị trường sản
xuất điện chưa thực sự cạnh tranh, ít doanh
nghiệp tham gia và tồn tại doanh nghiệp
chiếm tỷ trọng công suất sản xuất điện quá
lớn (trung bình 56% mỗi năm) là EVN tại
Việt Nam, thì công cụ GPXT dường như là
chưa thể phù hợp và mang lại hiệu quả cao.
ĐỀ XUẤT
Công cụ phí thải nên được áp dụng cho EVN,
bởi (1) Phí thải đảm bảo về mặt chi phí thấp
nhất, (2) Trong ngắn hạn phí thải sẽ làm
giảm đầu ra của EVN, tạo điều kiện cho các
DN chấp nhận giá khác tiếp cận thị trường,
góp phần vào thực hiện mục tiêu thị trường
sản xuất điện cạnh tranh của Chính phủ, (4)
Tổng chi phí của EVN có thể dự đoán được
nhờ vào phí thải. Đây là một tín hiệu giá ổn
định, giúp cho EVN có thể lên kế hoạch được
mức công suất, sản lượng điện tối ưu sản
xuất cho từng năm, vừa đảm bảo chi phí thấp
nhất dựa vào mức phí thải đã được áp sẵn,
vừa đảm bảo mục tiêu lợi nhuận, (5) Phí thải
giúp Chính phủ loại trừ đi được các yếu tố
gian lận trong việc quản lí các DN gây ô
nhiễm bởi EVN dĩ nhiên sẽ không mong
muốn phải trả một mức phí thải cao hơn so
với lượng thải thực tế của họ, (6) Thu nhập
trong ngân sách nhà nước sẽ được tăng lên
đáng kể. Để đảm bảo cân bằng trong thu
nhập từ thuế, một số loại thuế và phí các có
thể giảm đi, như thuế thu nhập cá nhân hay
thuế một số các loại thuế cho DN khác, tạo
điều kiện tăng đầu tư, thúc đẩy phát triển
kinh tế.
Công cụ GPXT nên được áp dụng cho các
DN sản xuất điện chấp nhận giá (trừ EVN)
trên thị trường mua bán phát thải. Bởi (1) Thị
trường mua bán phát thải này không còn
EVN, do đó SMTT không tồn tại, (2) Chính
phủ kiểm soát được lượng thải của tất cả các
Giải thưởng Sinh viên Nghiên cứu khoa học Euréka lần thứ XIX năm 2017 Kỷ yếu khoa học
312
DN này, và giảm dần HNPT về sau, (3) Việc
mua bán phát thải cạnh tranh trên thị trường
mua bán phát thải khiến các DN có động lực
hơn trong việc giảm phát thải, (4) Ngoài ra,
chính phủ có thể áp dụng cơ chế mua bán
phát thải khác như bán đấu giá HNPT, làm
tăng sự cạnh tranh trên thị trường mua bán
phát thải và tạo sức ép cho các DN này nỗ
lực giảm thải, (5) Việc hình thành hệ thống
mua bán phát thải giúp DN giảm phát thải
với chi phí thấp nhất, (6) Các DN sản xuất
điện khi tham gia vào hệ thống mua bán phát
thải sẽ được tự quản lý các chiến lược giảm
thải riêng của mình, với điều kiện tổng lượng
cho phép vẫn được giữ nguyên tại mức ban
đầu. Tuy nhiên, việc xác định chi phí giảm
thải của mỗi DN trên thị trường mua bán
phát thải là khó khăn. Vì vậy, để không có
gian lận trên thị trường mua bán phát thải,
các DN phải được yêu cầu cung cấp các
thông tin kỹ thuật và tài chính trong việc vận
hành hệ thống xử lí chất thải một cách Minh
bạch.
Việc lựa chọn thi hành phí thải hay GPXT là
một chính sách về quản lí môi trường lớn.
Kết quả đạt được của bài nghiên cứu này có
thể cung cấp các thông tin hữu ích cho các
nhà quản lý trong công tác quản lý giảm phát
thải CO2 trên thị trường điện Việt Nam.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
HAHN, R. W. (1984). Market Power and Transferable Property Rights. Quarterly Journal of
Economics, Volume 99, Issue 4 (Nov., 1984), 753–765.
WEITZMAN M. (1974). Prices vs. Quantities. Review of Economic Studies. 1974;41 (4) :477-
491.
KOLSTAD, C.D. (2001). Environmental Economics, 1st edn, Oxford University Press.