GIỚI THIỆU MÔN HỌC
Mục tiêu
Trang bị cho người học các nguyên lý chung về bệnh lý học để giải thích các cơ chế
sinh bệnh và các biến đổi bệnh lý cơ bản.
Nội dung học phần:
Bệnh lý học là môn học nghiên cứu về tổn thương. Nó bao gồm cả khoa học đại cương
và thực hành lâm sàng. Nghiên cứu cả thay đổi về cấu trúc cũng như chức năng của tế bào, mô
và các cơ quan bị bệnh.
Bệnh lý học quan tâm đến 4 khía cạnh cơ bản của quá trình bệnh là: vai trò của nguyên
nhân bệnh, cơ chế phát sinh bệnh, sự thay đổi cấu trúc tế bào, mô và các cơ quan của cơ thể
bệnh và hậu quả của các biến đổi hình thái đó (các rối loạn chức năng).
Phần bệnh lý học đại cương gồm những khái niệm cơ bản; tổn thương cơ bản chung
cho nhiều quá trình bệnh lý như: những biến đổi cơ bản ở tế bào và mô, những tổn thương do
rối loạn trao đổi chất (thoái hoá), tổn thương do rối loạn tuần hoàn cục bộ, viêm và tư sửa vết
thương, sốt.
Phần bệnh lý chuyên khoa nghiên cứu các quá trình bệnh lý chuyên biệt của các hệ cơ
quan như: Bệnh ở hệ tiêu hóa, hệ hô hấp, hệ niệu sinh dục các tổn thương của cơ thể do các
nguyên nhân khác nhau gây ra như: bệnh do vi khuẩn, bệnh do virus, bệnh do ký sinh trùng,
bệnh do độc tố ngoại lai
124 trang |
Chia sẻ: thuychi11 | Lượt xem: 1186 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Bài giảng Bệnh lý học, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
GIỚI THIỆU MÔN HỌC
Mục tiêu
Trang bị cho người học các nguyên lý chung về bệnh lý học để giải thích các cơ chế
sinh bệnh và các biến đổi bệnh lý cơ bản.
Nội dung học phần:
Bệnh lý học là môn học nghiên cứu về tổn thương. Nó bao gồm cả khoa học đại cương
và thực hành lâm sàng. Nghiên cứu cả thay đổi về cấu trúc cũng như chức năng của tế bào, mô
và các cơ quan bị bệnh.
Bệnh lý học quan tâm đến 4 khía cạnh cơ bản của quá trình bệnh là: vai trò của nguyên
nhân bệnh, cơ chế phát sinh bệnh, sự thay đổi cấu trúc tế bào, mô và các cơ quan của cơ thể
bệnh và hậu quả của các biến đổi hình thái đó (các rối loạn chức năng).
Phần bệnh lý học đại cương gồm những khái niệm cơ bản; tổn thương cơ bản chung
cho nhiều quá trình bệnh lý như: những biến đổi cơ bản ở tế bào và mô, những tổn thương do
rối loạn trao đổi chất (thoái hoá), tổn thương do rối loạn tuần hoàn cục bộ, viêm và tư sửa vết
thương, sốt.
Phần bệnh lý chuyên khoa nghiên cứu các quá trình bệnh lý chuyên biệt của các hệ cơ
quan như: Bệnh ở hệ tiêu hóa, hệ hô hấp, hệ niệu sinh dụccác tổn thương của cơ thể do các
nguyên nhân khác nhau gây ra như: bệnh do vi khuẩn, bệnh do virus, bệnh do ký sinh trùng,
bệnh do độc tố ngoại lai
Tài liệu học tập
a. Tập bài giảng môn bệnh lý học
b. Các tài liệu tham khảo:
- Giáo trình sinh lý bệnh thú y
- Giáo trình giải phẫu bệnh đại cương
- Giáo trình sinh lý bệnh của Đại học Y khoa
- Veterinary pathology
- Molecular biology cell
- Poultry diseases
- Cattle diseases
- Swine diseases
- Canine diseases
- Feline diseases
- Pathology of domestic animal
- Crocker J, Murray PG. 2003. Molecular Biology in Cellular Pathology
- Riede UN, Werner M. 2004. Color atlas of Pathology
- Các thông tin trên internet (keyword: Veterinary Pathology)
2
CHƯƠNG 1: KHÁI NIỆM CƠ BẢN
Trong quá trình phát triển của khoa học nói chung, y học và thú y học nói riêng
dần dần hình thành nên các khái niệm cơ bản. Đây là những vấn đề lớn, kết quả của
nhiều công trình nghiên cứu, khái quát hoá các mối quan hệ giữa các hiện tượng bệnh
lý, các quy luật đúc kết từ thấp đến cao. Đó là những vấn đề có liên quan đến triết học
trong y học và là kết quả của các cuộc đấu tranh giữa quan điểm duy vật với quan điểm
duy tâm.
Những khái niệm cơ bản bao gồm khái niệm về bệnh, về yếu tố bệnh nguyên, về
cơ chế sinh bệnh, tính phản ứng của cơ thể,và bệnh lý của quá trình miễn dịch. Nắm
vững các khái niệm cơ bản theo quan điểm duy vật sẽ giúp cho người thày thuốc có
hướng đi đúng đắn trong chẩn đoán và điều trị bệnh.
1.1. KHÁI NIỆM VỀ BỆNH
Người thày thuốc muốn chữa khỏi bệnh thì phải hiểu đúng bản chất của bệnh.
Vậy bệnh là gì? Câu hỏi này đã được đặt ra từ ngàn xưa, khi con người có mặt trên trái
đất, nhưng câu trả lời lại luôn luôn thay đổi qua các thời đại. Nó phản ánh sự tiến bộ
của khoa học và các quan điểm triết học đương thời, phản ánh trình độ hiểu biết giới tự
nhiên của con người.
1.1.1. Sơ lược khái niệm về bệnh qua các thời đại
Trong thời đại nguyên thuỷ
Vào buổi sơ khai con người con hoàn toàn bất lực trước sức mạnh của thiên
nhiên, mọi thứ đều ghê gớm, thần bí, với ông sấm, bà sét, ông thiện ông ác, với ma tà
và quỷ dữ, với thiên đường và địa ngục. Do đó quan điểm mắc bệnh là do trời đánh,
thánh vật, do quỷ tha, ma bắt. Và tất nhiên với quan điểm như vậy thì việc chữa bệnh
phải cần đến thày cúng, thày phù thuỷ hoặc phải cầu xin thượng đế phù hộ.
Nền văn minh cổ đại
Nhân loại đã trải qua những nền văn minh cổ đại phát triển khá cao, đặc biệt là
về lĩnh vực y học như ở Trung Quốc, Ai cập, Ấn Độ, Hy lạp - La mã.
Trong thời kỳ cổ Trung Hoa, quan điểm về vũ trụ là vạn vật đều do hai lực âm -
dương và năm nguyên tố (kim, mộc, thuỷ, hoả và thổ) hình thành. Âm và Dương đã
được coi như 2 lực đối kháng và bổ cứu cho nhau trong sự hình thành vạn vật như đực
với cái, nóng với lạnh, sống với chết. Ngũ hành tuân theo quy luật tương sinh, tương
khắc (Tương sinh: Mộc sinh Hoả, Hoả sinh Thổ, Thổ sinh Kim, Kim sinh Thuỷ, Thuỷ
sinh Mộc, Tương khắc: Thuỷ khắc Hoả, Hoả khắc Kim, Kim khắc Mộc, Mộc khắc
Thổ, Thổ khắc Thuỷ).
Trong vũ trụ và vạn vật, mọi trạng thái đều phụ thuộc vào tình trạng cân bằng
giữa hai lực Âm - Dương và ngũ hành, khi có rối loạn cân bằng Âm - Dương hoặc có
3
thay đổi trong quy luật tương sinh, tương khắc của ngũ hành sẽ sinh ra bệnh tật. Chính
vì vậy các thuật ngữ âm thịnh dương suy, chân thuỷ, chân hoả, thể hàn thể nhiệt thường
được dùng trong y học cổ đại.
Về mặt triết lý thì khoẻ mạnh là nhờ tình trạng cân bằng hoà hợp của vật chất
trong cơ thể nên quan điểm này cũng phù hợp với quan điểm duy vật biện chứng, tuy
còn thô sơ song quan điểm cổ đại này cũng rất tiến bộ và y học cổ truyền cũng đã tích
luỹ được nhiều kinh nghiệm chữa bệnh quý báu.
Mộc
Thuỷ Hoả
Kim Thổ
Quan niệm cổ Ai cập cho rằng: sự sống là do chất "khí"(pneuma) và hô hấp là
thu chất khí đó vào trong cơ thể. Khi chất khí trong sạch thì khoẻ mạnh còn khi chất
khí nhơ bẩn thì sinh ra bệnh tật.
Triết lý về sự sống thời cổ của Ấn Độ là triết lý của đạo phật và sống - chết chỉ
là luân hồi, chết chỉ là một giai đoạn của sống, cơ thể vật chất vô tri vô giác mà trong
đó linh hồn vận động, đảm bảo sự thống nhất các bộ phận của cơ thể, sự lành mạnh
bình thường của các chức phận. Khi linh hồn rời cơ thể để sang một thế giới khác thì
đó là sự chết. Vậy bệnh chính là sự đấu tranh của linh hồn nhằm duy trì hoạt động
bình thường của cơ thể.
Nền văn minh Hy lạp - La mã cổ cũng có nhiều nhà bác học nổi tiếng trong lĩnh
vực y học. Hypocratus (460- 377 tr.cn) xây dựng thuyết thể dịch cho rằng chức năng
của cơ thể do hoạt động cân bằng của 4 loại dịch là: Đỏ do máu của tim tiết ra và biểu
hiện tính nóng; Đen do máu của lách quyết định biểu hiện tính ẩm; Mật Vàng ở gan
biểu hiện tính khô và dịch Trắng ở não biểu hiện tính lạnh. Từ đó rút ra nguyên lý điều
trị bệnh là phục hồi lại sự cân bằng nhờ các toa thuốc mát hay thuốc nóng. Đây chính
là những cơ sở lâm sàng đầu tiên trong y học.
Thời kỳ trung cổ - Từ thế kỷ thứ 4 đến thế kỷ 12, khoa học nói chung hầu như
không phát triển. Đó là một thời kỳ trì trệ, tôn giáo và phong kiến đã kìm hãm mọi phát
triển khoa học. Y học nằm trong tay các thày dòng, cha cố, Nhà thờ thiên chúa giáo
cho rằng bệnh tật là sự trừng phạt của đấng tối cao đối với những tội lỗi mà con người
và chúng sinh đã mắc phải, muốn khỏi bệnh thì phải cầu nguyện cho đức chúa buông
tha.
4
Thời kỳ phục hưng: Cuối thời kỳ trung cổ nhiều nhà khoa học đã dũng cảm
đứng lên chống lại quan điểm sai lầm cuả nhà thờ, truyền bá những tư tưởng mới. Lĩnh
vực y học cũng có nhiều tiến bộ vượt bậc, năm 1543 Andre Vesale (1514-1564), người
Bỉ đã xuất bản quyển sách " Cấu trúc cơ thể người". Chính ông là người đặt nền móng
cho các môn hình thái học.
Năm 1616, người thày thuốc của nước Anh là William Harvey (578-1657) đã
công bố một phát minh quan trọng: đó là tuần hoàn của máu. Decaster đưa ra thuyết cơ
học cho rằng: Cơ thể cũng giống như một cỗ máy; cơ thể bị bệnh là khi bộ máy sinh
vật bị hư hỏng giống như máy hết nhiên liệu hoặc các bánh răng mòi, gãy
Sylvius nghiên cứu các dịch lại cho rằng bệnh tật là do rối loạn hoá học trong cơ
thể.
Thế kỷ 18 - 19: Kính hiển vi đã ra đời và ngày càng hoàn thiện, thuốc nhuộm tế
bào cũng được sử dụng rộng rãi trong nghiên cứu hình thái vi thể, do đó nảy nở khái
niệm giải phẫu cục bộ về bệnh, nghiên cứu về bệnh cảnh lâm sàng được so sánh với
tổn thương thấy được khi mổ khám xác chết.
Wirchov (1821-1902) đã cho xuất bản cuốn "Bệnh lý tế bào", theo Wirchov
nguyên nhân của bệnh là do tổn thương tế bào: bệnh sẽ chỉ xuất hiện tại các chỗ mà tác
nhân gây bệnh làm tổn thương tế bào, theo ông thì không phải toàn bộ cơ thể phản ứng
với các yếu tố gây bệnh mà chỉ cục bộ các nhóm tế bào tiếp xúc với các tác nhân gây
bệnh. Quan niệm này coi cơ thể đa bào chỉ là sự liên kết đơn thuần chứ không phải là
một khối thống nhất toàn vẹn.
Clot Becna (1865) nêu lên mối quan hệ khăng khít giữa nội môi và ngoại môi.
Ngoại môi luôn luôn thay đổi nên để giữ cho nội môi không thay đổi, cơ thể sống phải
có hàng loạt các chức năng bảo vệ và điều hoà, bệnh và chết chỉ là sự tan vỡ hoặc rối
loạn cơ chế điều hoà đó.
Đến nửa sau của thế kỷ 19, nhờ những đóng góp to lớn của Pasteur (1821-
1895), Koch (1843 - 1900), Metnhicop, Eclich (1854 - 1915), tìm ra vai trò gây bệnh
của nhiều loại vi sinh vật.
Thể kỷ 20 - Thế kỷ của điện tử và cũng là thế kỷ của sinh học, các ngành sinh
học phát triển mạnh mẽ như: di truyền học, miễn dịch học, sinh học phân tử... nên cũng
có rất nhiều khái niệm về bệnh.
Pavlov và các nhà bác học Nga đưa ra học thuyết thần kinh của bệnh. Theo
thuyết này nội môi và ngoại cảnh là một khối thống nhất mà trong đó hoạt động của
thần kinh cao cấp đóng một vai trò quyết định khả năng thích ứng của cơ thể (tức nội
môi) đối với những thay đổi của bên ngoài, theo Pavlov: trong mỗi bệnh có hai quá
trình tồn tại song song, quá trình bảo vệ sinh lý và quá trình huỷ hoại bệnh lý; " Bệnh
là do rối loạn hoạt động phản xạ của hệ thần kinh; rối loạn tương quan giữa những khu
5
vực khác nhau của hệ thần kinh là cơ chế phát triển của bệnh", quan niệm này quá nhấn
mạnh vai trò của thần kinh trung ương.
Hans Selye đưa ra ý kiến bệnh là rối loạn khả năng thích nghi. Trong khi nghiên
cứu phản ứng không đặc hiệu của cơ thể chống lại các tác nhân stress bên ngoài, Selye
nhận thấy bao giờ cơ thể cũng đáp ứng bằng sự thay đổi hoạt động của hệ nội tiết - thần
kinh hạ não - thượng thận; kết quả là có sự đối kháng giữa 2 loại hormon corticoit, loại
thứ nhất tiết ra nhằm dồn nguyên liệu trong cơ thể tới chỗ bị đe doạ, nó ức chế quá
trình viêm và quá trình phát triển tổ chức xơ, còn loại thứ hai có tác dụng làm vết
thương mau lành bằng cách tăng sinh chất keo và phát triển tổ chức liên kết. Bình
thường hai hệ thống này hoạt động cân bằng nhau nhằm bảo vệ cơ thể, khi mất cân
bằng sẽ sinh ra bệnh - dạng bệnh thích nghi. Quan điểm này cũng chỉ giải thích được
cơ chế sinh bệnh của một nhóm bệnh mà thôi.
Từ những quan niệm như vậy về sinh vật, chúng ta có thể nêu lên một khái niệm
về bệnh một cách tương đối như sau: " Bệnh là sự rối loạn đời sống bình thường của
cơ thể sinh vật do tác động của các yếu tố gây bệnh khác nhau, gây ra một quá trình
đấu tranh phức tạp giữa hiện tượng tổn thương bệnh lý và hiện tượng phòng vệ sinh lý,
làm hạn chế khả năng thích nghi của cơ thể đối với ngoại cảnh"
1.1.2. Những điều cần chú trọng trong khái niệm về bệnh
+ Bệnh có tính chất một cân bằng mới kém bền vững
Sự hằng định nội môi mà Claude Bernard đã từng nói đến là kết quả của một
cân bằng sinh lý giữa hai quá trình, tân tạo và tiêu huỷ. Ví dụ Glucoza huyết là kết quả
cân bằng giữa tiêu hao và tân tạo glucoza, nhiều tình trạng sinh học khác cũng như vậy.
Cơ thể sống là một cân bằng động. Khi có yếu tố gây bệnh tác động vào cơ thể
thì cân bằng bị phá vỡ, nhưng lập tức cơ thể đó có phản ứng bảo vệ, sẽ có những hoạt
động nhằm khôi phục tình trạng cân bằng bị nhiễu loạn bởi yếu tố ấy. Chính cuộc đấu
tranh này tạo ra một cân bằng mới (vì có thêm yếu tố bệnh lý, phản ứng bảo vệ và các
sản phẩm của chúng), nhưng cân bằng mới này không kéo dài, thường có xu hướng
phục hồi về cân bằng cũ tức là lành bệnh, khi không thể phục hồi được thì tiến triển
càng bất lợi cho cơ thể, vượt quá khả năng bảo vệ của cơ thể dẫn đến tử vong. Đó cũng
là tính kém bền vững của cân bằng mới. Đó cũng là quan điểm biện chứng về sự sống
và cái chết; lành và bệnh là hai mặt của hiện tượng sinh học.
+ Bệnh hạn chế khả năng thích nghi của cơ thể
Trong khi ngoại môi luôn luôn thay đổi mà nội môi lại đòi hỏi một tình trạng
hằng định tương đối thì cơ thể luôn luôn phải tìm cách thích ứng với biến đổi của ngoại
cảnh. Trước những thay đổi mạnh mẽ của môi trường bên ngoài, cơ thể phải vận dụng
những cơ chế thích ứng mạnh mẽ, thậm chí có thể dẫn đến một tình trạng bệnh lý mà
Selye đã coi như “bệnh thích nghi”.
6
Khi ngoại môi thay đổi mạnh mẽ làm thay đổi cân bằng nội môi, cũng như khi
yếu tố gây bệnh tạo nên tình trạng bệnh lý, khả năng thích nghi của cơ thể sống vẫn
còn nhưng đã bị hạn chế, Thí dụ khi sốt, khả năng điều hoà nhiệt của cơ thể vẫn còn
nhưng rất hạn chế chứ không thể như cơ thể khoẻ mạnh. Trong công tác điều trị người
thày thuốc phải tìm cách phát huy tối đa khả năng thích nghi của cơ thể để mang lại
hiệu quả điều trị cao.
1.2. KHÁI NIỆM VỀ NGUYÊN NHÂN BỆNH
Nguyên nhân bệnh học nghiên cứu về nguyên nhân gây bệnh và điều kiện phát
sinh bệnh trên cơ thể động vật. Việc nghiên cứu nguyên nhân bệnh có ý nghĩa rất lớn
trong công tác phòng trị bệnh cho gia súc, gia cầm. Vì có nắm được nguyên nhân bệnh
thì mới định ra được phương pháp điều trị bệnh chính xác và có biện pháp hữu hiệu
ngăn ngừa sự xâm nhập của chúng vào cơ thể.
1.2.1. Một số quan niệm sai lầm về nguyên nhân bệnh học
Thuyết nguyên nhân đơn thuần cho rằng vi khuẩn là nguyên nhân của mọi bệnh,
cứ có vi khuẩn là có bệnh, với thái độ cực đoan quá nhấn mạnh đến vai trò gây bệnh
của vi khuẩn, thuyết này đã bỏ qua vai trò và ảnh hưởng của các yếu tố khác trong quá
trình phát sinh bệnh, cũng không quan tâm đến cơ chế bảo vệ của cơ thể. Trong thực tế
hiện nay nhiều bệnh không phải do vi khuẩn gây ra và nhiều khi tiêm vi khuẩn vào cơ
thể cũng không gây được bệnh.
Thuyết điều kiện đơn thuần cho rằng bệnh tật là do kết quả tác động tổng hợp
của một số điều kiện và những điều kiện đó có thể gây bệnh mà không cần nguyên
nhân bệnh đặc hiệu. Quan niệm này hoàn toàn sai lầm, vì các điều kiện chỉ làm cho các
quá trình phát sinh bệnh dễ dàng hơn chứ không thể thay thế được nguyên nhân bệnh.
Học thuyết này mang tính tiêu cực, gây trở ngại cho công tác phòng trị bệnh.
Thuyết thể tạng cho rằng nguyên nhân bệnh không phải từ bên ngoài tới mà là
do đặc điểm của cơ thể, do thể tạng của con vật. Đây là quan niệm của thuyết di truyền
máy móc, nó không đề cập tới các yếu tố ngoại cảnh, như vậy nó chống lại khâu vệ
sinh phòng bệnh nhằm ngăn ngừa bệnh tật.
1.2.2. Quan niệm khoa học về nguyên nhân bệnh học
Quan niệm đúng đắn về nguyên nhân bệnh học phải nêu lên được mối liên hệ
chặt chẽ giữa nguyên nhân bệnh và điều kiện gây bệnh, trong đó có cả yếu tố cơ thể.
Nguyên nhân bệnh có vai trò quyết định và điều kiện thì phát huy tác dụng của
nguyên nhân bệnh. Nguyên nhân bệnh là yếu tố có hại, khi tác động lên cơ thể sẽ quyết
định bệnh phát sinh và các đặc điểm phát triển của bệnh.
Yếu tố gây bệnh phải đạt tới một cường độ nhất định (độc lực, liều lượng...), đặc
điểm của bệnh chính là do nguyên nhân bệnh quyết định nên dựa vào đặc điểm của
bệnh có thể khám phá ra nguyên nhân bệnh để từ đó xác định phương pháp điều trị hữu
7
hiệu. Song nguyên nhân bệnh chỉ có thể phát huy tác dụng trong những điều kiện cơ
thể nhất định, thí dụ: bệnh Tụ huyết trùng do vi khuẩn Pasteurella gây ra nhưng nó chỉ
phát bệnh trong khi sức đề kháng của con vật bị giảm sút. Cường độ của nguyên nhân
bệnh cũng là một điều kiện.
Như vậy, khi có nguyên nhân bệnh thì bệnh sẽ phát ra trong những điều kiện
nhật định, ngược lại, nếu có đầy đủ các điều kiện mà không có nguyên nhân bệnh thì
bệnh cũng không thể phát ra được.
Trong những điều kiện nhất định thì nguyên nhân bệnh có thể trở thành điều
kiện gây bệnh, thí dụ: nuôi dưỡng kém là nguyên nhân của bệnh suy dinh dưỡng, thiếu
Vitamin là nguyên nhân của bệnh thiếu Vitamin, nhưng nó lại là điều kiện để con vật
bị nhiễm khuẩn, là điều kiện của các bệnh truyền nhiễm.
Mối quan hệ nhân quả trong nguyên nhân bệnh học:
Mỗi bệnh (tức là hậu quả) đều do một nguyên nhân gây ra như vậy nguyên nhân
có trước hậu quả. Nguyên nhân bệnh dù từ ngoài vào hay từ trong ra đều tác động lên
cơ thể mà sinh ra hậu quả là bệnh.
Bất cứ bệnh nào cũng đều có nguyên nhân của nó; mặc dù vậy, hiện nay còn
nhiều bệnh chưa tìm được nguyên nhân, song đó là do trình độ phát triển của khoa học
còn hạn chế, chưa cho phép tìm ra nhưng nguyên nhân ấy, dần dần khi khoa học càng
phát triển thì càng nhiều nguyên nhân bệnh phức tạp sẽ được tìm ra.
Cùng một nguyên nhân có thể sẽ có nhiều hậu quả khác nhau tuỳ theo điều kiện
phát triển của bệnh, tụ cầu khuẩn có thể gây ra các ổ apse ở da, gây nhiễm trùng huyết
khi vào máu.
Mặt khác, cùng một hậu quả cũng có thể do nhiều nguyên nhân gây ra; Viêm,
Sốt là những quá trình bệnh lý do rất nhiều nguyên nhân gây ra. Chính đây là khó khăn
thường gặp khi đi từ triệu chứng tới xác định nguyên nhân bệnh, đòi hỏi phải có
phương pháp suy luận đúng đắn và logic để phân biệt giữa hiện tượng và bản chất.
Như vậy một quan niệm khoa học về nguyên nhân bệnh học phải toàn diện, nhìn
nhận cả vai trò của nguyên nhân bệnh và điều kiện gây bệnh, xác định đúng đắn tầm
quan trọng và vị trí nhất định của mỗi yếu tố trong quá trình gây bệnh. Ngăn ngừa
nguyên nhân bệnh, hạn chế tác dụng của điều kiện gây bệnh và tăng cường hoạt động
tốt của thể tạng là phương pháp điều trị bệnh hữu hiệu, là những mặt tích cực của công
tác phòng chống bệnh.
1.2.3. Phân loại nguyên nhân bệnh
a. Yếu tố bên ngoài
Yếu tố cơ học: Chủ yếu là do chấn thương, tai nạn... Gây tổn thương các cơ
quan, làm hư hại các tổ chức của cơ thể
8
Yếu tố lý học: + Nhiệt độ cao trên 50OC gây tác động cục bộ làm đông vón protít
của tế bào, đặc biệt là phá huỷ các men, tuỳ theo nhiệt độ cao thấp và thời gian tác
động khác nhau có thể gây nên mức độ tổn thương khác nhau từ ban đỏ đến bỏng, khi
nhiệt độ tác động đến toàn thân có thể gây cảm nóng.
+ Nhiệt độ thấp dưới 0oC cũng gây tổn thương các men của tế bào, tác động cục
bộ gây giá thương, gây hoại tử móng, tai, đuôi... tác động tới toàn thân gây cảm lạnh,
thường gặp ở những động vật sống ở các vùng giá rét hoặc trong những mùa đông lạnh
giá.
+ Tia phóng xạ từ nguồn phóng xạ công nghiệp hoặc trong chiến tranh... gây
phá huỷ các men và gây các phản ứng oxy hoá làm tổn thương tế bào sống. Các động
vật khác nhau có thể chịu đựng được phóng xạ ở các mức khác nhau.
+ Dòng điện, tác dụng của dòng điện phụ thuộc vào điện thế và tính chất của
dòng điện; dòng điện một chiều tác dụng nhanh hơn dòng xoay chiều, điện thế càng
cao càng nguy hiểm. cơ chế gây tổn thương của dòng điện là gây co cứng cơ nhất là cơ
tim, có thể làm tim ngừng đập, gây bỏng ở cường độ cao và gây hiện tượng điện ly vì
cơ thể là một môi trường điện giải.
Yếu tố hoá học
Tác động của các chất hoá học phụ thuộc vào liều lượng và thành phần các chất
đó, thường gây ngộ độc cho gia súc, gia cầm như axit, kiềm, kim loại nặng, chì, thuỷ
ngân, asen... các alcaloit từ cây cỏ, độc tố nấm mốc, tồn dư thuốc trừ sâu, thuốc diệt
cỏ
Yếu tố sinh học
+ Vi khuẩn, rất nhiều bệnh do vi khuẩn gây ra, bao gồm cả bệnh truyền nhiễm
và bệnh nhiễm trùng.
+ Virus, hầu hết các loại virus đều gây bệnh trong các bệnh truyền nhiễm
Newcastle, dịch tả lợn, LMLM...
+ Ký sinh trùng bao gồm cả các loài giun sán ký sinh, nội, ngoại ký sinh trùng
và các loại Protozoa...
+ Các loại nấm mốc
+ Các loại động, thực vật khác như: rắn cắn, ong đốt, các cây độc
b.Yếu tố bên trong
+ Yếu tố di truyền: đó là những biến đổi bệnh lý thông qua cơ chế di truyền từ
thế hệ trước sang thế hệ sau qua tế bào sinh dục mang gen bệnh; qua nghiên cứu cho
thấy một số bệnh phát sinh là do thiếu gen chỉ huy quá trình tổng hợp một số loại men,
khi thiếu men đó thì sẽ phát sinh bệnh, ví dụ bệnh Phenylxeton niệu là do thiếu men
Parahydroxylaza nên Phenylalanin không chuyển thành Tyrozin được mà phân huỷ
thành Phenylxeton, rồi được đào thải ra ngoài theo nước tiểu.
9
Yếu tố di truyền cũng có thế là điều kiện để cho bệnh phát sinh.
+ Yếu tố thể tạng: thể tạng có thể được coi như là tổng hợp các đặc điểm chức
năng và hình thái của cơ thể. Những đặc điể