Đầu thế kỷ 19, hầu hết phân tích hoá học định lượng đều sử dụng phương pháp trọng lượng
(gravimetry method) hoặc phương pháp chuẩn độ (titrimetry method). Với những phương
pháp này đều đạt được độ đúng (accuracy) cao, nhưng khó có thể xác định được những thành
phần hợp chất có nồng độ thấp trong nước. Trong suốt thời gian này nhiều nghiên cứu được
bắt đầu để mở rộng khả năng phân tích định lượng đặc biệt các các yếu tố vết trong môi
trường. Một trong số những phát minh đó là phương pháp so màu quang phổ.
Phương pháp so màu đầu tiên là phương pháp Nessler phân tích hàm lượng ammonia trong
nước vào năm 1856. Nessler khám phá ra rằng khi thêm HgI2 và KI vào trong môi trường có
chưa NH
4
+
sẽ tạo thành dung dịch màu từ màu vàng đến màu nâu đỏ tuỳ theo nồng độ của
NH4
+
. Màu của mẫu sẽ được so sánh với màu của mẫu chuẩn để xác đinh nồng độ tương ứng
trong mẫu. Cho đến ngày nay phương pháp này đã được nghiên cứu bổ sung để phân tích
nước mặt và nước thải trong Standard Methods. Cuối thế kỷ 19, một số phương pháp mới bắt
đầu được khám phá như phương pháp hấp thu, phát xạ, tán xạ, tia cực tím, điện từ hồng ngoại
phát xạ. Thế kỷ 20 là giai đoạn phát triển của tia X, microwave, và sóng radio, các hạt năng
lượng bao gồm hạt electron và ion.
28 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 13025 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Bài giảng Phương pháp hấp thu phân tử uv – vis, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
49
CHƢƠNG 8
PHƢƠNG PHÁP HẤP THU PHÂN TỬ UV – VIS
8.1 Tổng quan
Đầu thế kỷ 19, hầu hết phân tích hoá học định lượng đều sử dụng phương pháp trọng lượng
(gravimetry method) hoặc phương pháp chuẩn độ (titrimetry method). Với những phương
pháp này đều đạt được độ đúng (accuracy) cao, nhưng khó có thể xác định được những thành
phần hợp chất có nồng độ thấp trong nước. Trong suốt thời gian này nhiều nghiên cứu được
bắt đầu để mở rộng khả năng phân tích định lượng đặc biệt các các yếu tố vết trong môi
trường. Một trong số những phát minh đó là phương pháp so màu quang phổ.
Phương pháp so màu đầu tiên là phương pháp Nessler phân tích hàm lượng ammonia trong
nước vào năm 1856. Nessler khám phá ra rằng khi thêm HgI2 và KI vào trong môi trường có
chưa NH4
+
sẽ tạo thành dung dịch màu từ màu vàng đến màu nâu đỏ tuỳ theo nồng độ của
NH4
+
. Màu của mẫu sẽ được so sánh với màu của mẫu chuẩn để xác đinh nồng độ tương ứng
trong mẫu. Cho đến ngày nay phương pháp này đã được nghiên cứu bổ sung để phân tích
nước mặt và nước thải trong Standard Methods. Cuối thế kỷ 19, một số phương pháp mới bắt
đầu được khám phá như phương pháp hấp thu, phát xạ, tán xạ, tia cực tím, điện từ hồng ngoại
phát xạ. Thế kỷ 20 là giai đoạn phát triển của tia X, microwave, và sóng radio, các hạt năng
lượng bao gồm hạt electron và ion.
8.2 Lịch sử nghiên cứu quang phổ học
Quang phổ học là một môn học chính yếu trong thiên văn học, nó đã được ứng dụng thành
công để nghiên cứu về khí quyển trong hành tinh chúng ta. Cách đây 200 năm, Joseph von
Fraunhofer (1787-1826) lần đầu tiên sản xuất loại máy đo quang phổ mà tính năng không có
gì sánh kịp lúc bấy giờ. Ông ấy đã khám phá ra rất nhiều các đường tối trong quang phổ của
ánh sáng mặt trời. Ông ấy có thể xác định chính xác độ dài bước sóng của nhiều “Fraunhofer
lines” (vạch) và thuật ngữ này ngày nay vẫn được dùng. Tuy nhiên, trong thời gian này ông ấy
không hiểu được những cơ sở vật lý và ý nghĩa về những vấn đề mà ông ấy khám phá ra.
Hình 8.1. Thiết bị Spektralapparat thiết kế bởi Kirchhoff và Bunsen (1833)
50
Thành tựu quan trọng kế tiếp về “Fraunhofer lines” là quá trình tìm ra nguyên lý vật lý của sự
hấp thu và phát xạ vào năm 1859 với sự cộng tác của nhiều nhà vật lý nổi tiếng như Gustav R.
Kirchhoff và Robert W. Bunsen tại Heidelberg. Thiết bị mà họ sử dụng là “Spektralapparat”,
họ ghi nhận được quá trình phát xạ rất đặc biệt của nhiều nguyên tố khác nhau. Với phương
pháp này họ đã tiếp tục khám phá ra 2 nguyên tố mới là Cäsium và Rubidium, họ chiết được
một lượng rất nhỏ (7g) từ 44.000 lít nước khoáng gần núi Bad Nauheim, Đức. Sự khám phá
này là nền tảng cho sự khám phá tiếp theo về sự hấp thu và phát xạ của hấp thu phân tử.
Năm 1879 Marie Alfred Cornu thấy rằng, những tia có bước sóng ngắn của bức xạ mặt trời
trên bề mặt trái đất bị hấp thụ bởi khí quyển. Một năm sau đó, Walther Noel Hartley mô tả rất
tỉ mỉ về sự hấp thụ UV của O3 với độ dài bước sóng 200 và 300 nm và nó trở nên rõ ràng hơn
khi họ phát hiện ra rằng O3 chứa đầy trong bầu khí quyển. Năm 1880, Chappuis khám phá ra
sự hấp thu trong vùng khả kiến (400 – 840nm). Năm 1925 Dobson phát triển một máy quang
phổ mới rất ổn định sử dụng lăng kính bằng thạch anh.
8.3 Đại cƣơng về quang phổ
Trong quang phổ học, ánh sáng nhìn thấy (ánh sáng khả kiến), tia hồng ngoại, tia tử ngoại, tia
Rơnghen, sóng radio... đều được gọi chung một thuật ngữ là bức xạ.
Theo thuyết sóng, các dạng bức xạ này là dao động sóng của cường độ điện trường và cường
độ từ trường, nên bức xạ còn được gọi là bức xạ điện từ.
Sau thuyết sóng, thuyết hạt cho thấy bức xạ gồm các “hạt năng lượng” gọi là photon chuyển
động với tốc độ ánh sáng (c = 3.108 m/s). Các dạng bức xạ khác nhau thì khác nhau về năng
lượng
h
của các photon. Ở đây, năng lượng của bức xạ đã được lượng tử hóa, nghĩa là năng
lượng của bức xạ không phải liên tục mà các lượng tử năng lượng tỉ lệ với tần số
của dao
động điện từ theo hệ thức Planck.
h
h = 6,625.10
– 34
J.s: hằng số Planck.
Louis de Broglie đã đưa ra thuyết thống nhất cả khái niệm sóng và khái niệm hạt của sóng ánh
sáng. Ánh sáng vừa có tính chất sóng vừa có tính chất hạt. Tổng quát hơn là bức xạ có bản
chất sóng hạt. Nội dung như sau:
Hạt có khối lượng m chuyển động với vận tốc v có bước sóng đi đôi với nó là cho bởi hệ
thức:
p
h
mv
h
Trong đó : p = mv là động lượng của hạt
λlà bước sóng (de Broglie)
h = 6,625.10
-34
J.s là hằng số Planck.
51
8.3.1 Các đại lƣợng đo bức xạ điện từ
Bước sóng
: Là quảng đường mà bức xạ đi được sau mỗi dao động đầy đủ.
Đơn vị: m, cm,
m
, nm, o
A
. (1cm = 10
8
o
A
= 10
7
m =104 m)
Tần số
: Là số dao động trong một đơn vị thời gian (giây)
Trong 1 giây bức xạ đi được c cm và bức sóng
cm, vậy:
c
Lưu ý: Bức xạ truyền trong chân không với vận tốc c = 2,9979.10 8 m/s (thường lấy tròn 3.10 8
m/s)
Đơn vị: CPS ( VÒNG DÂY), Hz, KHz, MHz. (1CPS=1Hz; 1MHz=103 KHz=106Hz)
Năng lượng bức xạ: Các dao động tử (phân tử chẳng hạn) chỉ có thể phát ra hoặc hấp thụ
năng lượng từng đơn vị gián đoạn, từng lượng nhỏ nguyên vẹn gọi là lượng tử năng lượng:
hchch
Đơn vị: Jun (J), Calo (Cal), electron von (eV).
8.3.2 Các dạng bức xạ
Bức xạ điện từ bao gồm 1 dãy các sóng điện từ có bước sóng biến đổi trong khoảng rất rộng:
từ cỡ mét ở sóng rađio đến cỡ o
A
(10
–10
m) ở tia Rơnghen hoặc nhỏ hơn nữa. Toàn bộ dãy
sóng đó được chia thành các vùng phổ khác nhau.
Bước sóng λ (nm)
ĐỏCamVàngLụcTím Chàm Lam
(Khả kiến)
Vi sóng Sóng radioTia hồng ngoạiTia XTia γ UV
Vùng VIS
Hình 8.2. Các phổ của sóng điện từ
52
Mắt người chỉ cảm nhận được một vùng phổ điện từ rất nhỏ gọi là vùng nhìn thấy (khả kiến)
bao gồm các bức xạ có bước sóng từ 396 – 760 nm. Hai vùng tiếp giáp với vùng nhìn thấy là
vùng hồng ngoại và vùng tử ngoại UV.
8.3.3 Sự tƣơng tác giữa vật chất và bức xạ điện từ
Ở điều kiện bình thường, điện tử của phân tử nằm ở trạng thái liên kết, nên phân tử có mức
năng lượng thấp, gọi là trạng thái cơ bản Eo (Hình 8.3).
Khi chiếu một bức xạ điện từ vào một môi trường vật chất, sẽ xảy ra hiện tượng các phân tử
vật chất hấp thụ (absorption) hoặc phát xạ (emission) năng lượng, hay được gọi là trạng
thái kích thích (Hình 8.3). Năng lượng mà phân tử phát ra hay hấp thụ vào là:
E = E2 – E1 = h
Trong đó, E1 và E2 là mức năng lượng của phân tử ở trạng thái đầu và trạng thái cuối
(hay còn gọi là trạng thái kích thích) là tần số của bức xạ điện từ bị hấp thụ hay phát xạ ra.
Nếu
E > 0 thì xảy ra sự hấp thụ bức xạ điện từ.
Nếu
E < 0 thì xảy ra sự phát xạ năng lượng.
Hình 8.3. Sự hấp thụ (A) hoặc phát xạ (B) năng lƣợng của một photon
Theo thuyết lượng tử, các phân tử và các bức xạ điện từ trao đổi năng lượng với nhau không
phải bất kỳ và liên tục mà có tính chất gián đoạn. Phân tử chỉ hấp thụ hoặc phát xạ 0, 1, 2,
3,…n lần lượng tử
h
mà thôi. Khi phân tử hấp thụ hoặc phát xạ sẽ làm thay đổi cường độ
của bức xạ nhưng không làm thay đổi năng lượng của nó, bởi vì cường độ bức xạ điện từ xác
định bằng mật độ các hạt phôton có trong chùm tia, còn năng lượng bức xạ điện từ lại phụ
thuộc tần số
của bức xạ.
Vì thế khi chiếu một chùm bức xạ điện từ với một tần số duy nhất đi qua môi trường vật chất
thì sau khi đi qua năng lượng của bức xạ không hề thay đổi mà chỉ có cường độ bức xạ thay
đổi. Các phân tử khi hấp thụ năng lượng của bức xạ sẽ dẫn đến thay đổi các quá trình trong
phân tử (quay, dao động, kích thích electron…) hoặc trong nguyên tử (cộng hưởng spin
electron, cộng hưởng từ hạt nhân)
Mỗi một quá trình như vậy đòi hỏi một năng lượng đặc trưng cho nó, nghĩa là đòi hỏi bức xạ
điện từ có tần số hay chiều dài sóng nhất định để kích thích. Do sự hấp thụ chọn lọc này mà
khi chiếu chùm bức xạ điện từ với một dãi tần số khác nhau đi qua môi trường vật chất thì sau
A B
53
khi đi qua chùm bức xạ này sẽ bị mất đi một số bức xạ có tần số xác định, nghĩa là các tia này
đã bị phân tử hấp thụ.
Bảng 8.1. Ứng dụng quang phổ điển hình do sự thay đổi năng lƣợng
Kiểu chuyển đổi năng lƣợng Vùng bƣớc sóng Thiết bị quang phổ
Hấp thụ (absorption)
Tia γ Máy quang phổ Mossbauer
Tia X Máy hấp thụ quang phổ tia X
UV/Vis
Máy so màu quang phổ UV/Vis
Máy hấp thu nguyên tử AAS
Hồng ngoại
Máy so quang phổ hồng ngoại
Máy so màu hiệu ứng Raman
Microwave Máy quang phổ vi sóng
Sóng radio Máy quang phổ từ hạt nhân
Phát xạ (emission)
UV/Vis Máy phát xạ nguyên tử
Tia X Máy phát xạ huỳnh quang tia X
UV/Vis
Máy quang phổ huỳnh quang
Máy phát lân quang
Máy quang phổ phát xạ huỳnh quang
nguyên tử
Bảng 8.2. Quang phổ điển hình không do sự thay đổi năng lƣợng
Vùng bước sóng Kiểu tương tác Thiết bị
Tia X Nhiểu xạ Máy nhiểu xạ tia X
UV/Vis Khúc xạ Máy khúc xạ
Tán xạ Máy đo độ đục
8.3.4 Sự hấp thụ bức xạ và màu sắc của các chất
Ánh sáng nhìn thấy bao gồm tất cả dải bức xạ có bước sóng từ 396 – 760 nm có màu trắng
(ánh sáng tổng hợp). Khi cho ánh sáng trắng (ánh sáng mặt trời) chiếu qua một lăng kính, nó
sẽ bị phân tích thành một số tia màu (đỏ, da cam, vàng, lục, lam, chàm, tím). Mỗi tia màu đó
ứng với một khoảng bước sóng hẹp hơn (xem Bảng 8.3). Cảm giác các màu sắc là một chuỗi
các quá trình sinh lý và tâm lý phức tạp khi bức xạ trong vùng khả kiến chiếu vào võng mạc
của mắt. Một tia màu với một khoảng bước sóng xác định. Chẳng hạn bức xạ với bước sóng
54
400–430 nm gây cho ta cảm giác màu tím, tia sáng với bước sóng 560 nm cho ta cảm giác
màu lục vàng.
Ánh sáng chiếu vào một chất nào đó nó đi qua hoàn toàn thì đối với mắt ta chất đó không
màu.
Thí dụ, thủy tinh thường hấp thụ các bức xạ với bước sóng nhỏ hơn 360 nm nên nó trong suốt
với các bức xạ khả kiến. Thủy tinh thạch anh hấp thụ bức xạ với bước sóng nhỏ hơn 160 nm,
nó trong suốt đối với bức xạ khả kiến và cả bức xạ tử ngoại gần.
Một chất hấp thụ hoàn toàn tất cả các tia ánh sáng thì ta thấy chất đó có màu đen. Nếu sự hấp
thụ chỉ xảy ra ở một khoảng nào đó của vùng khả kiến thì các bức xạ ở khoảng còn lại khi đến
mắt ta sẽ gây cho ta cảm giác về một màu nào đó. Chẳng hạn một chất hấp thụ tia màu đỏ
(
= 610–730 nm) thì ánh sáng còn lại gây cho ta cảm giác màu lục (ta thấy chất đó có màu
lục). Ngược lại, nếu chất đó hấp thụ tia màu lục thì đối với mắt ta nó sẽ có màu đỏ. Người ta
gọi màu đỏ và màu lục là hai màu phụ nhau. Trộn hai màu phụ nhau lại ta sẽ có màu trắng.
Nói cách khác, hai tia phụ nhau khi trộn vào nhau sẽ tạo ra ánh sáng trắng. Quan hệ giữa màu
của tia bị hấp thụ và màu của chất hấp thụ (các màu phụ nhau) được ghi ở bảng sau:
Bảng 8.3. Quan hệ giữa màu của tia bị hấp thụ và màu chất hấp thụ
Tia bị hấp thụ Màu của chất hấp thụ
(màu của tia còn lại)
(nm) Màu
400 – 430
430 – 490
490 – 510
510 – 530
530 – 560
560 – 590
590 – 610
610 – 750
Tím
Xanh
Lục xanh
Lục
Lục vàng
Vàng
Da cam
Đỏ
Vàng lục
Vàng da cam
Đỏ
Đỏ tía
Tím
Xanh
Xanh lục
Lục
Lưu ý: Giữa các tia màu cạnh nhau không có một ranh giới thật rõ rệt.
Việc phân chia ánh sáng trắng thành 7, 8 hay 9 tia màu… còn tùy thuộc vào lăng kính và sự
tinh tế của mắt người quan sát.
Một chất có màu, thí dụ như màu đỏ chẳng hạn là do nó đã hấp thụ chọn lọc trong vùng khả
kiến theo một trong các kiểu sau:
- Chất đó hấp thụ tia phụ của tia đỏ (tức là hấp thụ tia màu lục)
- Chất đó hấp thụ các tia trừ tia màu đỏ.
- Chất đó hấp thụ ở hai vùng khác nhau của ánh sáng trắng sao cho các tia còn lại cho
mắt ta cảm giác màu đỏ.
55
Để một hợp chất có màu, không nhất thiết
max
của nó phải nằm ở vùng khả kiến mà chỉ cần
cường độ hấp thụ ở vùng khả kiến đủ lớn. Nói một cách khác tuy giá trị cực đại của vân hấp
thụ nằm ngoài vùng khả kiến nhưng do vân hấp thụ trải rộng sang vùng khả kiến nên hợp chất
vẫn có màu. Tất nhiên để có được sự hấp thụ thấy được ở vùng khả kiến thì
max
của chất
cũng phải gần với ranh giới của vùng khả kiến.
Tương ứng với một bước chuyển điện tử, ta thu được phổ hấp thu có dạng:
Hai đại lượng đặc trưng của phổ hấp thu là vị trí và cường độ
• Vị trí cực đại hấp thu, giá trị max tùy thuộc vào E mà hợp chất này hấp thu ở các
vùng phổ khác nhau. Bán chiều rộng của vân phổ điện tử dao động khá rộng khoảng
50 – 60 nm.
• Cường độ thể hiện qua diện tích hoặc chiều cao của đỉnh biểu đồ (peak). Cường độ
vân phổ phụ thuộc vào xác xuất chuyển mức năng lượng của điện tử. Xác suất lớn cho
cường độ vân phổ lớn.
Một hợp chất màu có phổ hấp thu tốt khi đỉnh biểu đồ (peak) cao và bán chiều rộng vân phổ
hẹp.
Peak
Độ rộng
Bán vân phổ
λmax
56
Hình 8.4. Đỉnh (peak) và bán chiều rộng vân phổ
Khi bán chiều rộng vân phổ hẹp, khi thay đổi nhỏ thì độ hấp thu A thay đổi lớn. Điều này
rất có ý nghĩa trong phân tích định lượng. Giả sử hợp chất X có Amax ở 500 nm. Khi chúng ta
đo ở bước sóng 510 nm... thì độ hấp thu đo được sẽ khác rất xa đối với ở bước sóng 500 nm.
Từ đó ta thấy rằng ở mỗi hợp chất màu có một giá trị
max
nhất định và nó phản ánh độ nhạy
của phương pháp. Mặt khác, một hợp chất đòi hỏi đỉnh biểu đồ cao nghĩa là khi ta đo ở bước
sóng
max
thì ta được độ hấp thụ quang cực đại, khoảng làm việc rộng.
8.3.5 Định luật Lambert – Beer
Khi chiếu một chùm tia sáng đơn sắc đi qua một môi trường vật chất thì cường độ của tia sáng
ban đầu (Io) sẽ bị giảm đi chỉ còn là I
Tỉ số
T
I
I
o
00100
được gọi là độ truyền qua.
Tỉ số
A
I
IIo
0
0100
được gọi là độ hấp thụ.
Nguyên tắc của phương pháp biểu diễn theo sơ đồ :
Mẫu
Cuvette
Io IA I
IR
Io = IA + IR + I
Hình 8.5. Sơ đồ mô tả sự hấp thụ ánh sáng của một dung dịch
Trong đó:
Io: Cường độ ban đầu của nguồn sáng
IA: Cường độ ánh sáng bị hấp thu bởi dung dịch
I: Cường độ ánh sáng sau khi qua dung dịch.
IR: Cường độ ánh sáng phản xạ bởi thành cuvette và dung dịch, giá trị này được loại
bỏ bằng cách lặp lại 2 lần đo.
Giữa IA, I, độ dày truyền ánh sáng (l) và nồng độ (C) liên hệ qua quy luật Lambert – Beer là
định luật hợp nhất của Bouguer:
57
Lambert (1766)
lK
I
Io
1lg
Beer (1852):
CK
I
Io
1lg
Độ truyền quang (T) hay độ hấp thụ (A) phụ thuộc vào bản chất của vật chất, độ dày truyền
ánh sáng l và nồng độ C của dung dịch. Có thể viết:
Định luật Lambert – Beer :
lC
I
I
A )lg( 0
Trong đó:
là hệ số hấp thu phân tử, C nồng độ dung dịch (mol/L), l độ dày truyền ánh sáng
(cm), A là độ hấp thụ quang. (Lưu ý phương trình trên chỉ đúng đối với tia sáng đơn sắc).
Trong phân tích định lượng bằng phương pháp trắc quang người ta chọn một bước sóng
nhất định, chiều dày cuvet
l
nhất định và lập phương trình phụ thuộc của độ hấp thụ quang A
vào nồng độ C.
Khảo sát khoảng tuân theo định luật Lambert – Beer:
Khi biểu diễn định luật Lambert – Beer trên đồ thị tùy theo cách thực hiện phép đo, ta thường
gặp đường biểu diễn sự phụ thuộc độ hấp thu A vào cường độ C của dung dịch có dạng: y =
ax + b
Hệ số góc a cho biết độ nhạy của phương pháp, trong phương pháp trắc quang người ta chỉ đo
dung dịch trong khoảng tuân theo định luật Lambert – Beer tức là khoảng nồng độ mà ở đó
giá trị
không thay đổi. Hệ số góc a càng lớn và khoảng tuân theo định luật Beer càng rộng
là điều kiện thuận lợi cho phép xác định.
Sự lệch khỏi định luật Beer:
Sự lệch khỏi định luật Beer được biểu diễn bằng sơ đồ sau:
Hình 8.6. Giới hạn của định luật Beer về sự hấp thụ quang
Khoảng tuyến tính LOL (Limit of Linear Response) là khoảng nồng độ tuân theo định luật
Beer
)( ClA
nghĩa là khi nồng độ tăng thì độ hấp thụ quang A tăng. Ngoài giới hạn
LOL là sự lệch khỏi định luật Beer, nghĩa là khi nồng độ tăng thì độ hấp thụ quang A hầu như
58
không tăng nữa. Nguyên nhân của quá trình này là do nồng độ dung dịch quá lớn. Ngoài ra,
khoảng tuyến tính LOL còn bị ảnh hưởng của mức độ đơn sắc của ánh sáng sử dụng, pH của
dung dịch, lực ion, sự pha loãng...
Ý nghĩa của các đại lƣợng:
• Hệ số hấp thu mol : phụ thuộc bản chất mỗi chất, bước sóng , nhiệt độ, chiết suất
(theo nồng độ). Giá trị tính lý thuyết của một bước chuyển được phép cho 1 electron là
= 105 mol-1.cm-1.
lC
A
(l. mol
-1
cm
-1
)
cao cho ta biết được độ nhạy của phản ứng, là thước đo độ nhạy của phương pháp.
Trong phân tích trắc quang, = 103 – 105 mol-1. cm-1 là đủ nhạy để dùng cho phương
pháp trắc quang, phụ thuộc vào chiết suất mà chiết suất lại phụ thuộc vào nồng độ.
Khi chiết suất tăng lên thì giảm và để không thay đổi thì phải thực hiện C 10-2
mol/L.
• Độ hấp thụ quang A: Là đại lượng không có đơn vị, có tính chất quan trọng là tính
cộng độ hấp thụ quang.
Giả sử 2 chất A và B có nồng độ CA và CB, độ hấp thu tại bước sóng là:
A = AA + AB = l × (ACA + BCB)
Nếu một chất tan X nào đó có độ hấp thụ quang là AX, dung môi có độ hấp thụ quang là Adm,
ta có:
A = Ax + Adm
Để đo được chính xác Ax thì Adm = 0, có nghĩa là phải chọn max của dung môi khác xa với
max chất tan. Những chất được chọn làm dung môi thường có hấp thu ở miền ranh giới tử
ngoại chân không.
Bảng 8.4. Các dung môi thƣờng sử dụng trong vùng UV – VIS
Dung môi Bước sóng (nm) Dung môi Bước sóng (nm)
Nước cất 190 Benzen 280
HCl 190 Cloroform 245
Etanol, metanol 210 Tetra Clorocarbon 265
n- Butanol 210 Dietyl Eter 218
n- Hexan 210 Aceton 330
Cyclohexan 210 1,4 Dioxan 215
Trong hỗn hợp có nhiều cấu tử không làm thay đổi tương tác, không phản ứng hóa học, không
dịch chuyển cân bằng, thì có thể xác định hỗn hợp các cấu tử theo hệ thức sau:
59
nnii lClClClCA
.............2211
• Độ truyền quang T:
oI
I
T
mà
)lg( 0
I
I
A
do đó
TA lg
Vì T tính theo % nên:
TA lg2
Nếu T = 100% thì A = 0 (nghĩa là không hấp thụ ánh sáng (I = Io)
Nếu T = 1% thì A = 2
Nếu T = 0 % thì
A
(hấp thu hoàn toàn ánh sáng)
0.0
0.5
1.0
1.5
2.0
0 10 20 30 40 50 60 70 80 90 100
Độ
h
ấp
th
ụ
A
Độ truyền quang T (%)
Hình 8.7. Mối quan hệ giữa Độ truyền quang (T) và Độ hấp thụ (A)
Ví dụ 8.1:
Một mẫu có độ truyền quang là 50%, tính độ hấp thu A của mẩu?
Giải quyết vấn đề:
Ta có : A = -lg T = -lg(0,5) = 0,301
Ví dụ 8.2:
Một dung dịch có nồng độ 5 × 10-4M được phân tích và đo bằng cuvette 1 cm ở bước sóng
490 nm được độ hấp thu là 0,338. Hãy tính độ hấp thu phân tử của chất ở bước sóng này ?
Giải quyết vấn đề:
lC
A
=
Mcm 410.51
338,0
= 676 cm
-1
M
-1
8.3.6 Nguyên lý cấu tạo của máy quang phổ
Nguồn sáng
Nguồn sáng cho máy quang phổ là chùm bức xạ phát ra rừ đèn. Máy quang phổ dùng đèn
hydro hay đèn Deuterium cho phổ phát xạ liên tục trong vùng UV tử 160 – 380nm (nhưng
thường sử dụng 200 - 340 nm) và đèn tungsten halogen đo vùng 380 – 1000 nm. Để làm việc
60
cho cả hai vùng thì phải có đủ 2 loại đèn trên. Một yêu cầu đối với nguồn sáng là phải ổn
định, tuổi thọ cao và phát bức xạ liên tục trong vùng phổ cần đo.
Đèn Deuterium: cấu tạo sồm một sợi đốt phủ ôxit và một cực kim loại đặt trong một bóng
thuỷ tinh chứa khí Deuteri hoặc hydro có cửa sổ bằng thạch anh để bức xạ tử ngoại đi ra vì nó
không truyền qua được thủy tinh. Khi sợi đốt được đốt nóng, electron sinh ra kích thích các
phân tử khí Deuteri (hoặc hidro) biến thành nguyên tử và phát ra phôton theo phản ứng:
D2 + Ee *
2D
D’ +
D
+
h
Ee =
*
2D
E
= ED’ + ED’’ + h
Ở đây là năng lượng electron kích thích, bức xạ phát ra là một phổ có bước sóng từ 160 nm
đến vùng khả kiến.
Bảng 8.5. Nguồn phát năng lƣợng trong các thiết bị quang phổ
Nguồn Vùng bước sóng Sử dụng cho
Đèn H2 và D2 160 – 380 nm Hấp thụ phân tử tử ngoại
ĐènTungsten 320 – 2400 nm Hấp thu phân tử khả kiến
Đèn hồ quang Xe 200 – 1000 nm Phát xạ huỳnh quang phân tử
Đèn Nernst 0,4 – 20 µm Hấp thụ phân tử hồng ngoại
Đèn cực âm hallow UV/Vis Hấp thụ nguyê