Bài giảng Quản lý nhà nước về văn hóa thông tin - Bài 2.3: Cấu trúc, chức năng của văn hoá
1. Cấu trúc của văn hoá Có 2 dạng cấu trúc: 1/ Văn hoá vật chất / văn hoá tinh thần Văn hoá vật thể / phi vật thể, Văn hoá hữu thể / văn hoá vô thể. 2/ Văn hoá cá nhân / văn hoá cộng đồng
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Bài giảng Quản lý nhà nước về văn hóa thông tin - Bài 2.3: Cấu trúc, chức năng của văn hoá, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
VĂN HÓA HỌC
BÀI 2
CẤU TRÚC, CHỨC NĂNG
CỦA VĂN HOÁ
TS. Phan Quốc Anh
1. Cấu trúc của văn hoá
Có 2 dạng cấu trúc:
1/ Văn hoá vật chất / văn hoá tinh thần
Văn hoá vật thể / phi vật thể,
Văn hoá hữu thể / văn hoá vô thể.
2/ Văn hoá cá nhân / văn hoá cộng đồng
Văn hoá vật chất và văn hoá tinh thần
Toàn bộ hoạt động sản xuất xã hội
có thể chia thành hai dạng:
sản xuất vật chất và sản xuất
tinh thần
tương ứng với hai nhu cầu cơ bản
của con người:
nhu cầu vật chất và nhu cầu
tinh thần.
Mọi sự phân chia đều do con người quy ước với
nhau.
Văn hóa vật chất, văn hóa vật thể,
hữu thể, văn hóa tinh thần, văn
hóa phi vật thể, văn hóa vô
thểlà sự quy ước, ranh giới mơ
hồ hơn ta tưởng. Trong vật chất
có tinh thần, trong vật thể có phi
vật thể.
Văn hóa vật chất - văn hóa tinh thần: Cái
nào có trước? Phải sống đã. Văn hóa
vật chất có tính quyết định
Sản xuất vật chất nhằm đáp ứng nhu cầu
vật chất như, trước hết là những nhu
cầu sinh học để con người tồn tại: ăn,
mặc, ở, sau đó là những những công
cụ, phương tiện phục vụ cho hoạt động
sống của con người.
Sản xuất tinh thần nhằm đáp ứng nhu cầu
tinh thần: tôn giáo, tín ngưỡng, khoa
học, phong tục tập quán, lễ hội v.v
Văn hoá vật chất và văn hoá tinh thần
Tuy nhiên, sự phân chia văn hoá vật
chất và văn hoá tinh thần, văn hoá
vật thể hay phi vật thể chỉ mang
tính quy ước.
Mối Quan hệ âm dương:
Cũng như trong âm có dương,
trong dương có âm.
Trong người đàn ông đôi lúc có
tính đàn bà, trong người đàn bà
có khi có tính đàn ông.
Thật bất hạnh cho ai là là đàn ông
mà lại thiếu đàn ông tính và
ngược lại. Trong văn hoá vật
chất có văn hoá tinh thần,
trong văn hoá vật thể có văn
hoá phi vật thể và ngược lại.
Có những sản phẩm là vật chất nhưng để đáp
ứng nhu cầu tinh thần như: đình đền chùa,
ti vi, nhạc cụ, karaoke v.v Thậm chí,
ngay việc ăn cũng một phần đáp ứng nhu
cầu tinh thần: văn hoá ẩm thực là một sự
thưởng thức về tinh thần, đáp ứng các
giác quan của con người: các vị mặn, cay,
chua, ngọt đắng. Tại sao có những món ăn
rất ngon nhưng có khi nuốt không trôi. Khi
uống rượu cần phải biết mình đang uống
với ai, ngồi ở đâu? tâm trạng nào?
1.2. Văn hoá cá nhân,
văn hoá cộng đồng
Có thể chia văn hóa theo phương pháp xã
hội học:
Văn hóa cá nhân, văn hóa cộng đồng.
Con người không thể sống một mình
mà phải sống cùng, sống với.
1.2.1. Văn hóa cá nhân
Văn hóa cá nhân không ai giống ai. Tuỳ
theo sự tích luỹ văn hóa của từng người.
Văn hóa cá nhân phát triển đến một độ
nào đó thì thành danh nhân văn hóa ở
nhiều cấp khác nhau:
Quốc tế: Hồ Chí Minh
Quốc gia: Các nhà văn, nhà thơ, nhạc sĩ,
nghệ sĩ, ca sĩ v.v
Tỉnh: Các cá nhân hoạt động văn hoá ở địa
phương, có khi là nhà văn hoá lớn nhưng
có quê hương ở một địa phương nào đó.
Dòng họ (thành hoàng)
1.2.2. Văn hóa cộng đồng
- Không phải là số cộng của các cá nhân
- Là những chuẩn mực giá trị cả cộng
đồng cùng chia sẻ và tự nguyện thực
hiện: Hương ước; quy ước, quy chế, quy
định.
- Luật thì chung - lệ thì riêng. Nhập gia tuỳ
tục, những phong tục kiêng kị.
- Nhất là đối với các nhà kinh doanh du
lịch cần phải quan tâm đến vấn đề này,
tìm hiểu văn hóa của đối tác để có
phương sách ứng xử.
Văn hóa cộng đồng cao nhất là quốc gia.
Nói bản sắc văn hóa là nói đến bản sắc
văn hóa của một quốc gia.
Tỉnh, vùng, dân tộc thiểu số có thể dùng
chữ sắc thái.
Quốc gia là cộng đồng chính trị. Biên giới
quốc gia và sự đoàn kết, hoà hợp văn
hóa nhiều khi phải giữ bằng máu. Không
nên nhấn mạnh vào cái riêng mà phải
nhấn mạnh vào cái chung. Cần tôn trọng
và bảo vệ văn hóa cộng đồng quốc gia.
MQH tương tác, biện chứng giữa cá nhân và
cộng đồng: Cá nhân làm phong phú cho
cộng đồng: Nhà có học, con nhà lành, dòng
họ tri thức (gia phả), làng tiến sĩ, làng gắp
phân v.v
Cộng đồng là sức mạnh. Sáng tạo trước hết
bao giờ cũng xuất phát của cá nhân, không
có sáng tác nào là của cộng đồng, kể cả ca
dao thành ngữ, tục ngữ
Văn hóa cộng đồng làm phông văn hóa cho cá
nhân. Nếu phông văn hóa cộng đồng tốt
thì cá nhân trong cộng đồng ấy được thừa
hưởng gia tài văn hóa cộng đồng.
2. Chức năng của văn hoá
Chức năng là vai trò, lý do tồn tại
của một (cái gì đó, một sự vật
hiện tượng nào đó), văn hoá ra
đời để làm gì, văn hoá đóng vai
trò gì ?
2.1.Chức năng nhận thức:
- học vấn
- văn hóa
Nhận thức là một yếu tố căn bản để phân
biệt giữa con người với loài vật.
Loài vật chỉ sống với một ý nghĩ là muốn tồn
tại y như nó có. Con người do nhận thức
cao nên sống có 2 ý nghĩa là tồn tại y
như nó có và muốn cao hơn.
Tự hoàn thiện theo hướng nhân bản hơn,
người hơn
2.2. Chức năng giáo dục:
Giáo dục là để nâng cao nhận thức là
phương tiện để phát huy tiềm năng con
người.
Giáo dục ở đây không phải chỉ là học vấn
mà có những yếu tố văn hoá theo nghĩa
rộng: Giáo dục tư tưởng đạo đức lối
sống, giáo dục nhân cách, con người với
con người, con người với cộng đồng.
Ở Việt Nam thì giáo dục tính cách con người
Việt Nam theo những đức tính đã nêu
trong NQ TW 5 (khoá VIII).
Giáo dục phải hướng theo
những lĩnh vực: Giáo dục
công dân, giáo dục lịch sử
đất nước, truyền thống văn
hoá, tình nghĩa gia đình,
làng xóm, tình yêu đất nước,
yêu dân tộc.
2.3. Chức năng thẩm mỹ
Nói đến văn hoá là nói đến cái đẹp, văn là
vẻ đẹp, hoá là làm cho cái đẹp đẹp lên.
Thẩm mỹ là một chức năng quan trọng
của văn hoá, con người luôn luôn vươn
đến cái đẹp, kể cả cái đẹp hình thức lẫn
cái đẹp nội dung.
Các ngành nghệ thuật cũng xuất phát từ
chức năng này để hoạt động. Hình thành
nên các loại chủ nghĩa trong nghệ thuật
Cái đẹp là những hài hoà hoàn chỉnh.
Cái có ích thì đáp ứng nhu
cầu thực tiễn, cái đẹp thì
đáp ứng nhu cầu tinh thần.
Cái đẹp luôn là bạn đồng
hành của cái có ích, con
người luôn có nhu cầu nhào
nặn hiện thực thành cái
đẹp.
- Văn hoá nghệ thuật là sự chưng cất cái đẹp.
Quy luật với nghệ thuật là quy luật tình cảm
con người luôn khát vọng vươn tới cái đẹp
thông qua cái đẹp tác động vào tình cảm,
tác động lên lý trí (thích hay không thích, cái
đúng cái sai, cái thiện cái ác)
Cụ thể nghệ thuật luôn mang tính phổ quát,
nghệ thuật đến với tất cả con người. Nghệ
thuật phải đúng, phải hấp dẫn, nghệ thuật
phải như ăngten thu nhận tín hiệu tình cảm,
phải có trái tim nhạy cảm thấm đượm tình
người phải có lý trí sáng suốt thông qua đó
đánh thức nhân loại.
Nghệ thuật là sự thể hiện nhu cầu của con
người muốn thông qua hình tượng và
biểu tượng để thể hiện và cảm nhận
những thời điểm có ý nghĩa trong đời
sống của mình. Nghệ thuật tạo ra cho con
người “hiện thực thứ hai”, tức là thế giới
những cảm xúc đã trải qua trong cuộc đời
và được thể hiện bằng những phương
tiện hình tượng, biểu tượng đặc biệt. Việc
tiếp xúc với những thế giới này cũng như
việc tự biểu hiện và nhận thức trong thế
giới này là một trong những nhu cầu
quan trọng nhất của tâm hồn con người.
Khả năng tác động vào xã hội của nghệ
thuật là rất lớn.
- Một là hướng tâm.
- Hai là ly tâm - làm tan rã tâm trạng
xã hội
- Ba là loạn tâm: Là mỗi người một tâm
trạng
Thưởng thức xong một tác phẩm nghệ
thuật, có thể làm thay đổi tính cách,
lối suy nghĩ của con người.
Văn nghệ sĩ là ai? Trước hết phải là con người có
tâm hồn nhạy cảm, dễ xúc động và hoạt động
trong một lĩnh vực nghệ thuật nào đó. (có
người không phải là nghệ sĩ nhưng cũng rất
nhạy cảm, biết thưởng thức nghệ thuật - đây có
thể gọi là những người có tâm hồn nghệ sĩ). Có
tâm hồn, có năng khiếu là những điều kiện tốt
để một con người trở thành nghệ sĩ, nhưng để
trở thành nghệ sĩ, phải có học chuyên ngành
nghệ thuật mới hiểu được hệ thống biểu tượng
của nghệ thuật (bố cục, màu sắc, biểu tượng,
các quy luật sáng tối, viễn cận trong nghệ thuật
hội hoạ, quy luật hoà thanh trong âm nhạc,
gam trưởng, gam thứ v.v).
Nghệ sĩ là một nghề, dễ xúc
cảm, hay thay đổi, đôi lúc tính
khí bất thường, không chịu
sống gò ép trong khuôn khổ,
luôn luôn sáng tạo ra cái mới.
Vì vậy, quản lý, lãnh đạo văn
nghệ sĩ là một việc khó.
Đảng ta phải quan tâm đến cộng đồng
nghệ sĩ: quan tâm đến đời sống vật
chất, đời sống tinh thần của văn nghệ
sĩ bằng các chính sách đãi ngộ cụ thể.
Ngược lại, văn nghệ sĩ phải có trách
nhiệm với đất nước, tới xã hội. Sáng
tạo ra những tác phẩm có giá trị nghệ
thuật cao, có tính định hướng về
thẩm mĩ cho nhân dân (ví dụ định
hướng về âm nhạc, nghiếp ảnh, hội
hoạ, văn xuôi, thơ v.v)
2. 4. Chức năng điều tiết:
Cấu trúc đời sống xã hội gồm các cộng đồng
người: từ thấp đến cao (nhóm tập thể:
bản, mường, cao hơn nữa là từng dân
tộc, quốc gia, liên quốc gia v.v)
Cộng đồng phải có sự phân công xã hội và
xây dựng một thể chế làm việc. Thể chế
đó chính là văn hoá. Thể chế phải chặt
chẽ, phải có người chỉ huy, phân công lao
động hợp lý. Đó chính là sự điều tiết.
Chức năng điều tiết là gì? Là làm cho xã hội
ổn định, luôn vận hành vì một mục đích
chung. Xã hội vận hành được là nhờ có
luật pháp và văn hoá pháp luật (ý thức
chấp hành của con người).
Nếu không có luật pháp để điều tiết cộng
đồng xã hội thì con người ta sẽ sống theo
luật rừng và mọi cái sẽ bị đảo lộn
Điều tiết xã hội bằng ý thức chấp hành luật
pháp chính là chức năng điều tiết của văn
hoá
2.5. Chức năng động lực:
Nếu xã hội là cái xe thì văn hoá là
động cơ. Người lái xe chỉ định
hướng và vận hành xe.
Tại sao NQ TW 5 nói văn hoá vừa là mục
tiêu, vừa là động lực của sự phát triển.
Mục tiêu phấn đấu của chúng ta là
tiến tới một xã hội tốt đẹp hơn, để cho
con người ngày càng hạnh phúc hơn,
chất lượng sống của con người ngày
một cao hơn
Tất cả các chức năng trên đều có mối
quan hệ mật thiết với nhau và đều
mang tính xã hội cao. Trong chức
năng thẩm mĩ có chức năng điều tiết
(cái đẹp điều chỉnh tâm hồn, hành vi),
trong chức năng động lực có chức
năng điều tiết v.v). Sự phân loại các
chức năng trên cũng chỉ là một sự
quy ước.
3. Xu hướng văn hoá nhân loại:
Về kinh tế: đã và đang hình thành những tập
đoàn xuyên quốc gia, kéo theo những vấn
đề khác, trong đó có văn hoá, trong đó có
cả những ưu điểm và những nhược điểm
Về ưu điểm: Toàn cầu hoá sẽ tạo thành
“làng thế giới”, thế giới thu nhỏ trong
một cái làng, thậm chí trong một
chiếc máy vi tính. Con người dần tư
duy theo kích thước toàn cầu.
Về nhược điểm: toàn cầu hoá sẽ dẫn
đến sự đồng hoá văn hoá nhanh, các
dân tộc sẽ mất dần bản sắc của mình.
Con người dần dần trở thành cái máy
công nghiệp.
Vì vậy chúng ta phải giữ gìn tính đa dạng
của văn hoá mỗi dân tộc ngày càng
phong phú hơn trong tổng thể văn hoá
nhân loại trên toàn cầu.
Vấn đề văn hoá địa phương và văn hoá dân
tộc, quốc gia: mỗi địa phương giữ sắc
thái văn hoá cho vùng miền trong tổng
thể văn hoá quốc gia.
Giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc như là giữ
gìn tính đa dạng của văn hoá nhân loại.
Câu hỏi ôn tập:
1. Bạn hãy trình bày cấu trúc của văn
hoá, hãy phân tích mối quan hệ giữa
văn hoá cá nhân và văn hoá cộng
đồng.
2. Anh hay chị hãy nêu chức năng của
văn hoá. Theo anh (hay chị), trong các
chức năng của văn hoá, chức năng
nào là quan trọng nhất, vì sao?
Xin trân trọng cảm ơn!