Khái niệm di sản văn hoá
Xuất phát từ khái niệm văn hoá: “Văn hoá là những giá trị vật chất và
tinh thần do loài người sáng tạo ra”, có nghĩa là những sản phẩm
do con người làm ra. Trong quá trình sáng tạo ấy, loài người đã để
lại một kho tàng văn hoá vật thể và phi vật thể.
21 trang |
Chia sẻ: thanhlam12 | Lượt xem: 668 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Bài giảng Quản lý nhà nước về văn hóa thông tin - Bài 6.2: Di sản văn hoá, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LLVH và đường lối VH của Đảng
Bài 8
DI SẢN VĂN HOÁ
TS Phan Quốc Anh
Khái niệm di sản văn hoá
Xuất phát từ khái niệm văn hoá: “Văn
hoá là những giá trị vật chất và
tinh thần do loài người sáng tạo
ra”, có nghĩa là những sản phẩm
do con người làm ra. Trong quá
trình sáng tạo ấy, loài người đã để
lại một kho tàng văn hoá vật thể
và phi vật thể.
Loài người đã để lại một kho tàng văn
hoá vật thể và phi vật thể:
Đó là những công trình kiến trúc,
những hiện vật trên và trong lòng
đất (hữu thể), những kinh nghiệm,
phong tục tập quán v.v(vô thể).
Tất cả những giá trị văn hoá ấy
được sàng lọc qua thời gian, đọng
lại thành di sản văn hoá.
Khái niệm Di sản Văn hoá
“Di sản văn hoá là tổng thể những giá
trị văn hoá vật thể và phi vật thể
do con người sáng tạo ra, được
sàng lọc qua thời gian và tồn tại
đến hiện tại, được chủ thể văn hoá
nhận biết và sử dụng”.
2. Phân loại di sản văn hoá
Sau nhiều cuộc hội thảo văn hoá quốc
tế do UNESCO tổ chức, người ta đã
thống nhất chia di sản văn hoá
thành hai loại: Di sản văn hoá vật
thể và di sản văn hoá phi vật thể
2.1 Di sản văn hoá vật thể
Là những hiện vật (động sản và bất
động sản) có giá trị đặc biệt về các
mặt lịch sử truyền thống, nghệ
thuật, dân tộc học, khảo cổ học, cố
nhân học, lịch sử tự nhiênVí dụ:
Các di tích danh lam thắng cảnh tư
nhiên, công trình lịch sử, đền đài,
cung điện, thư viện, sách, di chỉ
khảo cố, mẫu vật hoá thạch, đất đá
trong thiên nhiên v.v)
2.2. Di sản văn hoá phi vật thể
Bao gồm toàn bộ những sáng tác theo
phương pháp truyền thống của
một cộng đồng văn hoá: âm nhạc,
ca múa, sân khấu, văn học dân
gian (ngôn ngữ, truyền thuyết,
huyền thoại, ca dao, tục ngữ,
thành ngữ, câu đố), phong tục tập
quán (lễ hội, nghi lễ), những kinh
nghiệm dân gian như y học dân
tộc, nghệ thuật ẩm thực, bí quyết
nhà nghề v.v
Trong cuốn “Vấn đề bảo tồn di sản văn hoá nghệ
thuật” của Đàm Quang Thụ (Viện Văn hoá và
Nxb VHTT, Hà Nội 1998, tr. 371) có giới thiệu
một cách phân loại như sau:
1. Di sản văn hoá nghệ thuật (không kể
kiến trúc) gồm: văn hoá, mỹ thuật, âm
nhạc, sân khấu, múa, xiếc, điện ảnh
Các nhà Bảo tàng nghệ thuật
Viện lưu trữ điện ảnh (nay là Viện phim
Việt Nam)
2. Di sản văn hoá là công trình kiến
trúc
Bảo tồn ngoài trời hoặc đưa vào Bảo
tàng kiến trúc
3. Di sản văn tự: tư liệu lưu trữ, sách
cố
Cơ quan lưu trữ, thư viện
4. Di sản văn hoá lịch sử, cách mạng
gồm cả di sản về danh nhân đất nước
Các nhà bảo tàng về lịch sử và nhà lưu
niệm danh nhân
Loại hình di sản - Cơ quan bảo quản
1. Di sản văn hoá nghệ thuật
(không kể kiến trúc) gồm:
văn hoá, mỹ thuật, âm nhạc,
sân khấu, múa, xiếc, điện ảnh
Các nhà Bảo tàng nghệ thuật
Viện lưu trữ điện ảnh (nay là
Viện phim Việt Nam)
2. Di sản văn hoá là công
trình kiến trúc
Bảo tồn ngoài trời hoặc đưa
vào Bảo tàng kiến trúc
3. Di sản văn tự: tư liệu lưu
trữ, sách cố
Cơ quan lưu trữ, thư viện
4. Di sản văn hoá lịch sử,
cách mạng gồm cả di sản về
danh nhân đất nước
Các nhà bảo tàng về lịch sử
và nhà lưu niệm danh nhân
Loại hình di sản - Cơ quan bảo quản
5. Di sản văn hoá khảo cổ học Nhà bảo tàng khảo cố học
6. Di sản văn hoá dân gian (di
sản PVT)
Bảo tàng dân tộc học, hoặc
bảo tồn làng văn hoá
7. Di sản là mẫu vật tự nhiên
(động vật hoá thạch, động
vật, thực vật, khoáng sản)
Bảo tàng thiên nhiên
Khu rừng cấm quốc gia
8. Di sản là danh lam thắng
cảnh của đất nước
Bảo tồn trong thiên nhiên
Trong những di sản của quá khứ để
lại, ta thường gọi là văn hoá truyền
thống, (để phân biệt với những giá
trị văn hoá hiện đại mới sáng tạo
ra), có những yếu tố văn hoá mới
hình thành hôm nay, nhưng ngày
mai đã trở thành di sản văn hoá (ví
dụ một công trình kiến trúc đẹp,
một tác phẩm nghệ thuật như hội
hoạ, âm nhạc).
Di sản văn hoá liên quan chặt chẽ với quy
luật kế thừa của văn hoá.
Văn hoá vừa là sự kế thừa di sản của quá
khứ (phủ định của phủ định), vừa là sự
liên tục phát triển.
Đóng vai trò quan trọng ở đây là những
khái niệm “nhận biết” và sử dụng di sản
văn hoá.
Vấn đề khó ở đây là sự phân biệt chủ quan
của con người, chủ thể của văn hoá là
nên kế thừa cái gì của quá khứ, cái gì
nên loại bỏ.
Trong di sản văn hoá của quá
khứ, có những cái mang tính
giá trị, có những cái phi giá trị
hoặc phản giá trị.
Ví dụ: mê tín dị đoan, cúng chữa
bệnh, cúng ma (có hầu hết ở
các dân tộc).
Người Tày ở Việt Bắc, người Mường
có thày mo cúng chữa bệnh.
Nhưng trong cúng mo lại có những
tác phẩm nghệ thuật có giá trị như
các làn điệu hát then và cây đàn
tính (thực chất là để cúng), sau
này chúng ta sử dụng cây đàn tính
và các làn điệu then thành những
tác phẩm nghệ thuật. Người Raglai
có cúng bầu dầu.
Người Chăm có hàng trăm nghi lễ cúng và
trong cúng đều có sử dụng các nhạc
cụ. Hầu hết, xưa kia, các nhạc cụ dùng
trong các lễ cúng đều là nhạc cụ
thiêng, khi cần lấy xuống sử dụng phải
làm một lễ cúng (hiện nay vẫn tồn tại ở
một số dân tộc, ví dụ trống paranưng
của người Chăm là một nhạc cụ thiêng,
chỉ có ông thầy vỗ (mưtun , phải trải
qua lễ tôn chức) mới được sử dụng. Mã
là của người Raglai, cũng như cồng
chiêng Tây nguyên cũng vậy
Trong văn hoá truyền thống, có
những thành tố bất biến (không
thể biến đổi), có những thành tố
khả biến (có khả năng biến đổi). Ví
dụ, kim tự tháp ai cập (đã để lại
hàng vài nghìn năm vẫn không
thay đổi), có những cái có thể biến
đổi, ví dụ ca dao dân ca truyền
khẩu (tính dị bản), phong tục tập
quán, trang phục v.vbiến đổi
nhanh chóng.
Nhận biết, bảo tồn, khai thác, phát
huy những giá trị của di sản văn
hoá quá khứ đang là vấn đề nóng
hổi trên phạm vi toàn cầu. Từ đó
hình thành nên các tổ chức như:
UNESCO (uỷ ban giáo dục, khoa
học, văn hoá của Liên hiệp quốc;
UNDP (cơ quan phát triển của Liên
hợp quốc) v.vlà những tổ chức
quan tâm đến việc bảo tồn di sản
văn hoá nhân loại.
Tổ chức này đặt ra những tiêu chuẩn để công
nhận các di sản văn hoá thế giới. Việt Nam
hiện đã có 6 di sản văn hoá thế giới được
công nhận:
Di sản văn hoá vật thể:
- Hạ long, Phong Nha Kẻ Bàng (di sản thiên
nhiên),
- Phố cổ Hội An, Mỹ Sơn.
Di sản văn hoá phi vật thể:
- Nhã nhạc cung đình Huế
- Không gian văn hoá cồng chiêng Tây Nguyên
Hiện nay, Bộ VHTT đang lập hồ sơ công nhận dân ca quan họ Bắc
Ninh (di sản văn hoá phi vật thể), phố cổ Hà Nội (di sản văn
hoá vật thể) là di sản văn hoá thế giới.
Việc công nhận di sản văn hoá thế
giới đã tạo điều kiện rất tốt cho
việc thu hút nguồn kinh phí trùng
tu tôn tạo (do các tổ chức phi
chính phủ tài trợ) và quảng bá du
lịch. Từ khi được công nhận là di
sản văn hoá thế giới, những địa
phương có di sản đó trở thành
những điểm phát triển du lịch quốc
tế, khách du lịch tăng đột biến.
Ở Việt Nam, Bộ VHTT hàng năm
tổ chức công nhận bằng di tích
quốc gia cho các di tích. Có
những di tích là di tích lịch sử
văn hoá , có di tích là lịch sử
cách mạng. Những di tích sau
khi được công nhận đã được
nhà nước đầu tư kinh phí để
trùng tu, tôn tạo.
3. Di sản văn hoá - bộ phận hợp thành
nền tảng tinh thần xã hội
(xem bài: Văn hoá là nền tảng tinh thần xã hội).
Nền tảng tinh thần xã hội được hình thành
từ bản sắc văn hoá. Di sản văn hoá là
một bộ phận của bản sắc văn hoá (nhất
là di sản văn hoá phi vật thể. Ví dụ lòng
yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường,
tính cộng đồngđều là những di sản,
gien di truyền văn hoá dân tộc). Vì vậy,
di sản văn hoá là một bộ phận hợp
thành của nền tảng tinh thần xã hội.