Bài giảng Thị trường chứng khoán

Nhu cầu về vốn để tiến hành đầu tư và các nguồn tiết kiệm có thể phát sinh từ các chủ thể khác nhau trong nền kinh tế. Trong đó, thường xảy ra tình huống: những người có vốn nhàn rỗi lại không có cơ hội đầu tư hoặc không biết đầu tư vào đâu. Từ đó hình thành nên một cơ chế chuyển đổi từ tiết kiệm sang đầu tư. Cơ chế đó được thực hiện và điều chỉnh trong khuôn khổ một thị trườn đó là thị trường tài chính. Trên thị trường tài chính, những người thiếu vốn huy động vốn bằng cách phát hành ra các công cụ tài chính như cổ phiếu, trái phiếu Những người có vốn dư thừa, thay vì trực tiếp đầu tư vào máy móc thiết bị, nhà xưởng để sản xuất hàng hóa hay cung cấp dịch vụ, sẽ đầu tư (mua) các công cụ tài chính được phát hành bởi những người cần huy động vốn. Vậy, thị trường tài chính là nơi diễn ra sự chuyển vốn từ những người dư thừa vốn tới những người thiếu vốn. Thị trường tài chính cũng có thể được định nghĩa là nơi phát hành, mua bán, trao đổi và chuyển nhượng các công cụ tài chính theo các quy tắc, luật lệ đã được ấn định. Trong nền kinh tế thị trường, sự tồn tại và phát triển của thị trường tài chính là tất yếu khách quan. Hoạt động trên thị trường tài chính có những tác động, hiệu ứng trực tiếp tới hiệu quả đầu tư của các cá nhân của cac doanh nghiệp và hành vi của người tiêu dùng, và tới động thái chung của toàn bộ nền kinh tế.

doc93 trang | Chia sẻ: maiphuong | Lượt xem: 1478 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Bài giảng Thị trường chứng khoán, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN 5 1.1. ĐẠI CƯƠNG VỀ THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH 5 1.1.1. Khái niệm thị trường tài chính 5 1.1.2. Chức năng của thị trường tài chính 5 1.1.3. Cấu trúc của thị trường tài chính 7 1.1.4. Các công cụ của thị trường tài chính 12 1.2. TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN 19 1.2.1. Lịch sử hình thành và phát triển của thị trường chứng khoán 19 1.2.2. Khái niệm và bản chất của thị trường chứng khoán 20 1.2.3. Vai trò của TTCK 22 1.2.4. Nguyên tắc hoạt động của TTCK 25 1.2.5. Các chủ thể tham gia trên TTCK 25 1.2.6. Giới thiệu một số TTCK trên thế giới 26 CHƯƠNG 2. GIÁ TRỊ THỜI GIAN CỦA TIỀN TỆ 31 2.1. LÃI ĐƠN, LÃI KÉP VÀ GIÁ TRỊ TƯƠNG LAI 31 2.2. KỲ HẠN TÍNH LÃI VÀ GIÁ TRỊ KÉP 33 2.3. GIÁ TRỊ HIỆN TẠI 33 2.3.1. Giá trị hiện tại của một khoản tiền trong tương lai 33 2.3.2. Giá trị hiện tại của các khoản tiền khác nhau trong tương lai 34 2.3.3. Giá trị hiện tại của các khoản tiền đồng nhất. 35 CHƯƠNG 3. CỔ PHIẾU 36 3.1. KHÁI NIỆM 36 3.2. CÁC DẠNG CỔ PHIẾU 37 3.3. CỔ PHIẾU PHỔ THÔNG 38 3.3.1. Khái niệm và quyền lợi 38 3.3.2. Các hình thức giá trị của cổ phiếu thường 38 3.4. CỔ PHIẾU ƯU ĐÃI 39 3.4.1. Khái niệm và quyền lợi 39 3.4.2. Các loại cổ phiếu ưu đãi 40 3.5. CỔ PHIẾU CHƯA PHÁT HÀNH 41 3.6. ĐẶC ĐIỂM CỦA CỔ PHIẾU 41 3.7. ĐỊNH GIÁ CỔ PHIẾU 42 3.7.1. Các cặp khái niệm về giá trị 42 3.7.2. Định giá cổ phiếu ưu đãi 43 3.7.3. Định giá cổ phiếu thường 43 3.8. PHÁT HÀNH CHỨNG KHOÁN 45 3.8.1. Các chủ thể phát hành 45 3.8.2 Các phương thức phát hành chứng khoán 46 3.8.3. Phát hành chứng khoán lần đầu ra công chúng 47 3.8.4. Quản lý Nhà nước về phát hành chứng khoán 53 CHƯƠNG 4. TRÁI PHIẾU VÀ ĐỊNH GIÁ TRÁI PHIẾU 55 4.1. KHÁI NIỆM 55 4.2. ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN 57 4.3. ĐẶC TRƯNG 57 4.4. PHÂN LOẠI TRÁI PHIẾU 58 4.4.1. Phân loại theo người phát hành: 58 4.4.2. Phân loại lợi tức trái phiếu 59 4.4.3. Phân loại theo mức độ đảm bảo thanh toán của người phát hành 59 4.4.4. Phân loại dựa vào hình thức trái phiếu 59 4.4.5. Phân loại dựa vào tính chất trái phiếu 60 4.5. Định giá trái phiếu 60 4.5.1. Định giá trái phiếu không có thời hạn 60 4.5.2. Định giá trái phiếu có kì hạn được hưởng lãi định kỳ 61 4.5.3. Định giá trái phiếu có kỳ hạn không hưởng lãi định kỳ 61 4.5.4. Định giá trái phiếu trả lãi theo định kỳ nửa năm 62 4.6. Phân tích sự biến động của giá trái phiếu 62 4.7. Các phương thức phát hành chứng khoán (xem lại chương 3) 63 CHƯƠNG 5. LỢI SUẤT VÀ RỦI RO 65 5.1. ĐỊNH NGHĨA LỢI NHUẬN VÀ RỦI RO 65 5.2. ĐO LƯỜNG RỦI RO 65 5.2.1. Lợi nhuận kỳ vọng và độ lệch chuẩn 66 5.2.2. Hệ số biến đổi (coefficient of variation) 66 5.3. THÁI ĐỘ ĐỐI VỚI RỦI RO 67 5.4. LỢI NHUẬN VÀ RỦI RO CỦA MỘT DANH MỤC ĐẦU TƯ 68 5.4.1. Lợi nhuận của danh mục đầu tư 68 5.4.2. Rủi ro của danh mục đầu tư 69 5.5. ĐA DẠNG HÓA DANH MỤC ĐẦU TƯ NHẰM GIẢM RỦI RO 69 CHƯƠNG 6. CHỨNG KHOÁN PHÁI SINH 77 6.1.THỊ TRƯỜNG CÁC CHỨNG KHOÁN PHÁI SINH 73 6.2. CÁC LOẠI CÔNG CỤ PHÁI SINH 76 6.2.1. Hợp đồng kỳ hạn (forward contracts) 76 6.2.2. Hợp đồng tương lai (Future) 78 6.2.3. Hợp đồng quyền chọn (Option) 85 6.2.4. Hợp đồng hoán đổi (SWAPS) 87 6.3. VAI TRÒ CỦA CÁC CÔNG CỤ TÀI CHÍNH PHÁI SINH.........................................................90 6.3.1. Vai trò......................................................................................................................................................90 6.3.2. Mặt tiêu cực của công cụ phái sinh 92 6.3.4. Mức độ áp dụng các công cụ phái sinh ở Việt Nam 92 6.3.5. Nhưng giải pháp nhằm phát triển thị trường phái sinh ở Việt Nam 93 CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN 1.1. ĐẠI CƯƠNG VỀ THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH 1.1.1. Khái niệm thị trường tài chính Nhu cầu về vốn để tiến hành đầu tư và các nguồn tiết kiệm có thể phát sinh từ các chủ thể khác nhau trong nền kinh tế. Trong đó, thường xảy ra tình huống: những người có vốn nhàn rỗi lại không có cơ hội đầu tư hoặc không biết đầu tư vào đâu. Từ đó hình thành nên một cơ chế chuyển đổi từ tiết kiệm sang đầu tư. Cơ chế đó được thực hiện và điều chỉnh trong khuôn khổ một thị trườn đó là thị trường tài chính. Trên thị trường tài chính, những người thiếu vốn huy động vốn bằng cách phát hành ra các công cụ tài chính như cổ phiếu, trái phiếu… Những người có vốn dư thừa, thay vì trực tiếp đầu tư vào máy móc thiết bị, nhà xưởng để sản xuất hàng hóa hay cung cấp dịch vụ, sẽ đầu tư (mua) các công cụ tài chính được phát hành bởi những người cần huy động vốn. Vậy, thị trường tài chính là nơi diễn ra sự chuyển vốn từ những người dư thừa vốn tới những người thiếu vốn. Thị trường tài chính cũng có thể được định nghĩa là nơi phát hành, mua bán, trao đổi và chuyển nhượng các công cụ tài chính theo các quy tắc, luật lệ đã được ấn định. Trong nền kinh tế thị trường, sự tồn tại và phát triển của thị trường tài chính là tất yếu khách quan. Hoạt động trên thị trường tài chính có những tác động, hiệu ứng trực tiếp tới hiệu quả đầu tư của các cá nhân của cac doanh nghiệp và hành vi của người tiêu dùng, và tới động thái chung của toàn bộ nền kinh tế. 1.1.2. Chức năng của thị trường tài chính - Huy động và dẫn vốn từ nơi thừa vốn sang nơi thiếu vốn Thị trường tài chính có chức năng cơ bản là dẫn vốn từ những người dư thừa vốn sang những người cần vốn. Với những người dư thừa vốn, thu nhập lớn hơn chi tiêu, những người này có thể là Chính phủ, các tổ chức hoặc cá nhân. Trong khi đó, do chi tiêu lớn hơn thu nhập, chính phủ, các tổ chức và cá nhân khacs lại cần vốn. Sự chuyển dịch vốn này được thực hiện theo sơ đồ sau:  Qua sơ đồ trên ta thấy, sự chuyển dịch vốn được thực hiện qua hai con đường, tài trợ trực tiếp và tài trợ gián tiếp. Trong tài trợ trực tiếp, những người cần vốn huy động trực tiếp từ những người có vốn bằng cách bán các chứng khoán cho họ. Các chứng khoán này là các công cụ tài chính, nó cung cấp quyền yêu cầu về thu nhập và tài sản và các quyền khác cho chủ sở hữu đối với người phát hành. Các chứng khoán được mua bán rộng rãi trên thị trường cấp một và thị trường cấp hai. Cách thức thứ hai để dẫn vốn là tài trợ gián tiếp thông qua các trung gian tài chính. Các trung gian tài chính như các ngân hang, các tổ chức tín dụng, các tổ chức bảo hiểm và các trung gian khác có vai trò trò cực kì quan trọng trong việc tích tụ, tập trung và phân phối vốn trong nền kinh tê, đồng thời các tổ chức này cũng có vai trò quan trọng trong việc cấp vốn và hỗ trợ cho dòng tài chính trực tiếp như thong qua các hoạt động: đại lý, bảo lãnh, thanh toán v.v.. Như vậy, thong qua việc dẫn chuyển vốn, thị trường tài chính có vai trò quan trọng trong việc tích tụ, tập trung và phân phối vốn trong nền kinh tế, trên cơ sở đó làm tăng năng suất và hiệu quả của toàn bộ nền kinh tế. Thị trường tài chính trực tiếp cải thiện mức sống cho cả những người có vốn và những người cần vốn. - Xác định giá cả của các tài sản tài chính Thông qua quan hệ giữa người mua và người bán (quan hệ cung cầu trên thị trường) giá cả của các tài sản tài chính được xác định. Vì vậy, thị trường tài chính là nơi hình thành nên giá cả của các tài sản tài chính- các “hàng hóa” trên thị trường. - Tạo tính thanh khoản cho thị trường tài chính Thị trường tài chính cung cấp một cơ chế để các nhà đầu tư có thể trao đổi, mua bán các tài sản tài chính của mình trên thị trường thứ cấp, như vậy thị trường tài chính tạo ra tính thanh khoản, người đầu tư sẽ buộc phải nắm giứ các công cụ nợ cho tới khi đáo hạn, hoặc nắm giữ các công cụ vốn cho tới khi công ty phá sản hoặc giải thể phải thanh lý tài sản. Mức độ thanh khoản của các thị trường tài chính là khác nhau, nó phụ thuộc vào sự phát triển của thị trường. - Giảm thiểu chi phí choc ac chủ thể tham gia trên thị trường Để cho các giao dịch có thể diễn ra, những người mua và những người bán cần phải bỏ ra các chi phí như chi phí tìm kiếm đối tác và tìm kiếm thông tin trong quá trình trước, trong và sau khi ra các quyết định đầu tư. Nhờ tính tập trung, các thông tin phục vụ quá trình đầu tư được cung cấp đầy đủ, chính xác và nhanh chóng trên thị trường tài chính, từ đó cho phép giảm thiểu những chi phí đối với các chủ thể trên thị trường cũng như đối với toàn bộ nền kinh tế. - Khuyến khích cạnh tranh và tăng hiệu quả kinh doanh Thị trường tài chính là thị trường định giá các công cụ tài chính, vì vậy, sẽ khuyến khích quá trình phân phối vốn một cách có hiệu quả, góp phần tăng tính cạnh tranh giữa các doanh nghiệp và từ đó đặt ra cho các doanh nghiệp phải tăng hiệu quả kinh doanh để có thể tồn tại và phát triển. - Ổn định và điều hòa lưu thông tiền tệ Thị trường tài chính có một chức năng quan trọng là ổn định và điều hòa lưu thông tiền tệ, đảm bảo sự phát triển lành mạnh của nền kinh tế. Chức năng này được thể hiện thông qua việc mua bán các trái phiếu, tín phiếu và các giấy tờ có giá khác của Ngân hang Trung ương trên thị trường tài chính và thị trường tiền tệ. Thông qua đó, Chính phủ có thể huy động được nguồn vốn lớn để bù đắp thâm hụt ngân sách và kiểm soát lạm phát. Ngoài ra, Ngân hang Trung ương cũng có thể mua bán ngoại tệ trên thị trường ngoại hối để điều chỉnh lượng cung và cầu ngoại tệ nhằm giúp Chính phủ ổn định tỷ giá hối đoái. Như vậy, thị trường tài chính có chức năng hết sức quan trọng không những đối với nền kinh tế mà cả đối với từng cá nhân, tổ chức kinh tế. Thị trường tài chính tạo điều kiện cho phép vốn được chuyển từ người có tiền nhàn rỗi và không có cơ hội đầu tư hiệu quả sang cho người có cơ hội đầu tư, có khả năng sản xuất, giúp nâng cao khả năng suất và hiệu quả toàn bộ nền kinh tế. Ngoài ra, thị trường tài chính cũng trực tiếp cải thiện mức sống của người tiêu dung bằng cách giúp hị chọn thời điểm cho việc mua sắm tốt hơn. Thị trường tài chính hoạt động hiệu quả sẽ trực tiếp cải thiện đời sống kinh tế xã hội. 1.1.3. Cấu trúc của thị trường tài chính Căn cứ vào các tiêu thức khác nhau, người ta phân loại thị trường tài chính thành các thị trường bộ phận. * Thị trường tiền tệ và thị trường vốn Căn cứ vào thời hạn luân chuyển của vốn, thị trường tài chính được chia thành thị trường tiền tệ và thị trường vốn. Thị trường tiền tệ: Thị trường tiền tệ là thị trường mua bán các chứng khoán nợ ngắn hạn có thời gian luân chuyển vốn không quá 1 năm. Thông thường các chủ thể đi vay trên thị trường này là những chủ thể tạm thời thiếu hụt tiền tệ phục vụ cho các nhu cầu thanh toán. Do vậy, khi thông qua các giao dịch mua bán quyền sử dụng vốn ngắn hạn mà thị trường tiền tệ đã cung ứng một lượng tiền tệ cho các bên cần vốn nhằm thoả mãn nhu cầu thanh toán (cũng chính vì lý do này mà nó được gọi là thị trường tiền tệ). Những chủ thể cung vốn (cho vay) thì lại là những chủ thể tạm thời có vốn nhàn rỗi (có thể là do chưa dùng tới hoặc đang tìm kiếm cơ hội đầu tư), do vậy họ tranh thủ chuyển nhượng quyền sử dụng các khoản vốn nhàn rỗi của họ trong thời gian ngắn để hưởng lãi. Tuy nhiên vì là đầu tư thời gian ngắn, đầu tư mang tính nhất thời những nhà đầu tư này quan tâm không nhiều tới mức lãi mà quan tâm hơn tới độ an toàn, tính thanh khoản để có thể rút vốn ngay khi cần. Các hình thức đầu tư như thế trên thị trường tiền tệ thường có độ an toàn tương đối cao, nhưng lại thường có mức lợi tức thấp. Khối lượng và giá trị giao dịch trên thị trường tiền tệ thường có quy mô lớn nên bên cho vay thường là các ngân hàng, công ty tài chính hoặc phi tài chính; còn bên vay vốn thường là Chính phủ, các công ty và ngân hàng. Chứng khoán mua bán trên thị trường tiền tệ thường được mua bán rộng rãi hơn chứng khoán dài hạn và như vậy có xu hướng lỏng hơn. Chứng khoán ngắn hạn cũng có biên độ dao động giá nhỏ hơn các chứng khoán dài hạn và do vậy chúng là khoản đầu tư an toàn hơn. Cấu trúc thị trường tiền tệ Bao gồm: • Thị trường cho vay ngắn hạn trực tiếp; • Thị trường liên ngân hàng; • Thị trường mở; • Thị trường hối đoái. Trong đó: Thị trường cho vay ngắn hạn trực tiếp: Gồm có thị trường chính thức và không chính thức. Thị trường này hoạt động dựa vào hoạt động của các tổ chức tài chính trung gian. Các tổ chức này sẽ huy động các nguồn vốn nhàn rỗi của các tổ chức kinh tế, cá nhân bằng hình thức huy động tiền gửi tiết kiệm và đem cho các tổ chức kinh tế, cá nhân khác vay lại nếu cần. Thị trường liên ngân hàng: Là thị trường hoạt động phục vụ cho các giao dịch về vốn chỉ diễn ra giữa các ngân hàng (kể cả NHTW). Không phải lúc nào ngân hàng luôn có đủ tiền để cho vay, không phải lúc nào ngân hàng cũng tìm được khách hàng để cho vay hết khoản tiền mà mình có. Vì thế sẽ phát sinh nhu cầu vay và cho vay giữa các ngân hàng nhằm phục vụ tốt cho hoạt động chính của mình là huy động vốn và cho vay vốn. Thị trường mở: Là thị trường tiền tệ mà ngoài các ngân hàng ra còn có sự tham gia của các tổ chức phi ngân hàng mua bán các công cụ thị trường mở. Thị trường hối đoái: Thị trường này là nơi diễn ra các hoạt động mua bán và trao đổi ngoại tệ tiền mặt và các phương tiện thanh toán ghi bằng ngoại tệ. Khác với các loại thị trường khác, người ta dùng tiền để đổi lấy hàng hoá, thì trên thị trường này người ta dùng tiền để đổi lấy tiền. Một đặc tính riêng biệt nữa của thị trường ngoại hối đó là tất yếu nó sẽ là thị trường quốc tế. Khi nào người dân ở các khu vực khác nhau còn dùng những đồng tiền khác nhau thì thị trường ngoại hối tồn tại là cần thiết. Thị trường vốn: Thị trường vốn là thị trường mua bán các chứng khoán nợ dài hạn (có thời gian luân chuyển vốn trên 1 năm) và các chứng khoán vốn. Thị trường này cung cấp vốn cho các khoản đầu tư dài hạn các doanh nghiệp, của chính phủ, và các hộ gia đình. Do thời gian luân chuyển vốn trên thị trường này dài hạn hơn so với thị trường tiền tệ nên các công cụ trên thị trường vốn có độ rủi ro cao hơn và đi theo nó là mức lợi tức kỳ vọng cũng cao hơn. Thị trường tiền tệ là thị trường được hình thành trước vì ban đầu do kinh tế chưa phát triển nên nhu cầu vốn và nhu cầu tiết kiệm vốn chưa nhiều chủ yếu là ngắn hạn. Sau khi nền kinh tế phát triển, nhu cầu về các nguồn vốn dài hạn cho đầu tư xuất hiện thì thị trường vốn ra đời. Bên cạnh việc huy động vốn dài hạn thông qua các định chế tài chính trung gian thì chính phủ và các doanh nghiệp còn tự huy động vốn bằng cách phát hành chứng khoán. Một khi chứng khoán ra đời thì tất yếu sẽ xuất hiện nhu cầu mua bán chứng khoán. Chính vì thế mà thị trường chứng khoán ra đời với tư cách là một bộ phận của thị trường vốn nhằm đáp ứng nhu cầu mua bán, trao đổi chứng khoán. Cấu trúc thị trường vốn Bao gồm: • Thị trường tín dụng dài hạn • Thị trường chứng khoán. Trong đó: Thị trường tín dụng dài hạn gồm thị trường cho vay thế chấp và thị trường cho thuê tài chính. Thị trường cho vay thế chấp là thị trường chuyên cho vay các món nợ dài hạn dùng để tài trợ mua bán địa ốc, nhà xưởng. Do thời hạn dài và thường giá trị của các món nợ vay thường rất lớn để hình thành bất động sản (nhà, đất, nhà xưởng,...) nên cần có sự thế chấp tài sản cho món nợ vay này. Tài sản thế chấp có thể là những tài sản sẵn có của những người đi vay và kể cả những tài sản được hình thành từ khoản nợ vay đó.Thị trường cho thuê tài chính (tín dụng thuê mua) là hình thức tín dụng trung và dài hạn, trong đó người cho thuê cam kết mua tài sản, thiết bị theo yêu cầu của người thuê và là người nắm giữ quyền sở hữu tài sản đó. Người thuê là người sử dụng tài sản và phải thanh toán tiền thuê cho người cho thuê tài sản trong một khoảng thời gian đã được thảo thuận trước. Trong suốt thời gian thuê, người thuê không được quyền huỷ bỏ hợp đồng thuê trườc kỳ hạn. Khi kết thúc hợp đồng, người thuê có thể chuyển quyền sở hữu, mua lại hoặc tiếp tục thuê như đã thoả thuận trong hợp đồng. Thị trường chứng khoán: Đây là thị trường được hình thành dùng để giao dịch mua bán chứng khoán. Gồm bộ phận thị trường cổ phiếu, thị trường trái phiếu dài hạn của các công ty. Đối với hoạt động của thị trường này khá là phức tạp nhưng cũng rất hấp dẫn. Thị trường tiền tệ và thị trường vốn là hai bộ phận cấu thành nên thị trường tài chính cùng thực hiện một chức năng là cung cấp vốn cho nền kinh tế. Do đó các nghiệp vụ hoạt động ở trên hai thị trường có mối liên quan bổ sung và tác động qua lại. Lãi suất trên thị trường tiền tệ có ảnh hưởng lớn đến việc phát hành và mua bán chứng khoán trên thị trường vốn. Nếu lãi suất của các ngân hàng trả cho người tiết kiệm cao, điều này sẽ khiến cho người tiết kiệm thích gửi tiền vào ngân hàng để hưởng lãi suất và rủi ro thấp hơn so với việc đầu tư vào chứng khoán. Bên cạnh đó, các biến đổi về giá cả và lãi suất trên thị trường tiền tệ thường kéo theo các biến đổi trực tiếp trên thị trường vốn như quan hệ cung cầu và giá của cổ phiếu và trái phiếu. Chẳng hạn như, một số chứng khoán dài hạn có lãi suất thả nổi, căn cứ để điều chỉnh lãi suất là lãi suất tiền gửi ngắn hạn của ngân hàng. Hay khi định giá của cổ phiếu hay trái phiếu tại một thời điểm bất kỳ nào đó trên thị trường, người ta phải tham khảo lãi suất của ngân hàng được hình thành trên thị trường tiền tệ. Giữa lãi suất thị trường và giá của trái phiếu có mối quan hệ tỷ lệ nghịch: khi lãi suất của ngân hàng tăng cao hơn lãi suất trái phiếu, trái phiếu sẽ sụt giá và tình hình ngược lại khi lãi suất ngân hàng hạ xuống hơn lãi trái phiếu. Ngược lại, các thay đổi về chỉ số giá cổ phiếu của thị trường vốn cũng phản ảnh các hiện tượng tốt hay xấu, đã đang hoặc sẽ xảy ra trên thị trường tiền tệ. Đối với thị trường vốn, việc duy trì một lãi suất ổn định không thăng trầm quá đáng là cần thiết cho sự ổn định của thị trường. Trên thực tế, các hoạt động của thị trường tiền tệ và thị trường vốn được thực hiện đồng bộ xen lẫn nhau, tác động và chịu sự ảnh hưởng của nhau, tạo thành cơ cấu hoàn chỉnh của một thị trường tài chính. * Thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp Căn cứ vào tính chất của việc phát hành các công cụ tài chính, thị trường tài chính được chia thành thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp. Thị trường sơ cấp là thị trường phát hành chứng khoán lần đầu tiên.Thị trường sơ cấp là nơi duy nhất mà chứng khoán đem lại vốn cho nhà phát hành. Sau đó, việc mua bán các chứng khoán này trên thị trường chứng khoán thứ cấp sẽ không làm ảnh hưởng đến số vốn của nhà phát hành. Cũng từ thị trường này mà lượng vốn đầu tư cho nền kinh tế. Giá của chứng khoán trên thị trường sơ cấp (giá phát hành) do tổ chức phát hành quy định. Việc phát hành lần đầu tiên chứng khoán ra công chúng là giai đoạn quan trọng nhất, vì nếu không đạt được kết quả tốt thì chứng khoán phát hành sẽ không tiêu thụ được và làm mất uy tín của đơn vị phát hành. Không phải nhà phát hành nào cũng có đủ điều kiện để thực hiện tốt việc phát hành nên trên thị trường sơ cấp xuất hiện một tổ chức trung gian giữa nhà phát hành và người đầu tư, đó là nhà bảo lãnh phát hành. Tuỳ thuộc vào cung cầu, giá chứng khoán ở thị trường sơ cấp có thể cao hơn hoặc thấp hơn giá trị danh nghĩa của chứng khoán. Người bán và người mua trên thị trường sơ cấp: Hoạt động giao dịch ở thị trường này thương được thực hiện theo hình thức bán buôn giữa nhà phát hành là bên cần huy động vốn (công ty, các tổ chức tài chính, Chính phủ,..) và các nhà đầu tư lớn (các công ty chứng khoán, ngân hàng đầu tư, công ty bảo hiểm,…). Các nhà đầu tư đóng vai trò như nhà bảo lãnh đợt phát hành chứng khoán. Họ sẽ mua lại toàn bộ số chứng khoán phát hành ra theo mức giá thoả thuận (thường là thấp hơn mức giá công bố) rồi sau đó tiến hành bán lẻ ra thị trường cho các nhà đầu tư khác. Các thoả thuận về bảo lãnh chứng khoán thường được tổ chức riêng, kín nên hoạt động giao dịch cụ thể tại thị trường sơ cấp thương không công khai. Là thị trường bán buôn chứng khoán, hoạt động không liên tục. Thị trường thứ cấp: Thị trường thứ cấp là thị trường mua đi bán lại các chứng khoán đã được phát hành trên thị trường sơ cấp, làm thay đổi quyền sở hữu chứng khoán.Việc mua đi bán lại chứng khoán trên thị trường thứ cấp chỉ làm thay đổi quyền sở hữu các chứng khoán chứ không gia tăng vốn đầu tư cho nền kinh tế (không trực tiếp mang lại vốn