Bài tập Tìm hiểu các di tích Lịch sự - Văn hóa tỉnh Đồng Nai - Thánh địa Mỹ Sơn

Thánh địa Mỹ Sơn Cách kinh đô Trà Kiệu 30 km về phía Tây, cách Đà Nẵng 68km về hướng Tây - Tây Nam. Quần thể kiến trúc nằm gọn trong thung lũng hẹp, có núi bao bọc bốn bề, thuộc làng Mỹ Sơn, xã Duy Phú, huyện Duy Xuyên. Đây là khu di tích tôn giáo vĩ đại nhất của người Chămpa, được khởi công xây dựng từ thế kỷ IV với quần thể hơn 70 ngôi đền tháp mang nhiều phong cách kiến trúc khác nhau. Tháng 12/1999, Thánh Địa Mỹ Sơn được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới. Mỹ Sơn chịu ảnh hưởng rất lớn của Ấn Độ cả về kiến trúc - thể hiện ở các đền tháp đang chìm đắm trong huy hoàng quá khứ, và về văn hóa - thể hiện ở các dòng bia ký bằng chữ Phạn cổ trên các tấm bia.

docx24 trang | Chia sẻ: candy98 | Lượt xem: 610 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Bài tập Tìm hiểu các di tích Lịch sự - Văn hóa tỉnh Đồng Nai - Thánh địa Mỹ Sơn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU Mục lục: A. Mô tả đặc trưng di sản: I. Khái quát chung: 1) Vị trí địa lý & đặc điểm chung: Thánh địa Mỹ Sơn Cách kinh đô Trà Kiệu 30 km về phía Tây, cách Đà Nẵng 68km về hướng Tây - Tây Nam. Quần thể kiến trúc nằm gọn trong thung lũng hẹp, có núi bao bọc bốn bề, thuộc làng Mỹ Sơn, xã Duy Phú, huyện Duy Xuyên. Đây là khu di tích tôn giáo vĩ đại nhất của người Chămpa, được khởi công xây dựng từ thế kỷ IV với quần thể hơn 70 ngôi đền tháp mang nhiều phong cách kiến trúc khác nhau. Tháng 12/1999, Thánh Địa Mỹ Sơn được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới. Mỹ Sơn chịu ảnh hưởng rất lớn của Ấn Độ cả về kiến trúc - thể hiện ở các đền tháp đang chìm đắm trong huy hoàng quá khứ, và về văn hóa - thể hiện ở các dòng bia ký bằng chữ Phạn cổ trên các tấm bia. 2) Quá trình phát hiện: Vào năm 1898, di tích Mỹ Sơn được phát hiện bởi một học giả người Pháp tên là M.C Paris. Hai năm sau, 2 nhà nghiên cứu của Viện Viễn đông Bác cổ là L.Finot và L.de Lajonquière và nhà kiến trúc sư kiêm khảo cổ học H.Parmentier đã đến Mỹ Sơn để nghiên cứu văn bia và nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc Chăm. Cho đến những năm 1903 -1904 những tài liệu cơ bản nhất về bia ký và nghệ thuật kiến trúc Mỹ Sơn đã được L.Finot chính thức công bố. Mỹ Sơn đã được trùng tu bởi E.F.E.O (Ecole Francaise d’Extreme Orient) trong thời gian từ 1937 đến 1944. Năm 1937, các nhà khoa học Pháp bắt đầu có những công cuộc trùng tu tại Mỹ Sơn. Năm 1937-1938, ngôi đền A1 và các ngôi đền nhỏ xung quanh nó được trùng tu. Các năm sau, từ 1939 đến 1943, các tháp B5, B4, C2, C3, D1, D2 được trùng tu và gia cố lại. Năm 1939, nhằm để nghiên cứu các di tích của nhóm A, B, C, D khỏi sự phá huỷ của dòng nước (đã phá sập tháp A9), người Pháp đã cho xây một con đập và đào một dòng chảy xuyên núi để đổi hướng dòng chảy. Nhưng năm 1946, sau một trận lũ lớn, con đập này đã bị vỡ, nước chảy trở lại theo dòng cũ như ngày hôm nay chúng ta thấy. Mỹ Sơn có một giai đoạn yên lắng từ năm 1954 đến 1964. Khi đó, cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc chưa đến giai đoạn khốc liệt. Nhưng từ năm 1965 đến 1972, khi khu vực Duy Xuyên và Quảng Nam trở thành một chiến trường. Đền tháp Mỹ Sơn cũng bị thiệt hại cùng với xóm làng mà nó đã mang tên. Nặng nề nhất là trận bom năm 1969 đã làm biến dạng hình hài của khu di tích. Hầu hết các đền tháp đã bị sụp đổ hoặc hư hại nặng nề. Sau chiến tranh, để phục vụ cho công cuộc nghiên cứu, phục hồi di tích, chúng ta đã tiến hành rà phá bom mìn còn lại ở khu vực này. Mỹ Sơn sau chiến tranh là sự ngổn ngang gạch đổ, cần sự trợ giúp của nhiều người. Đến năm 1975, trong số 32 di tích còn lại, chỉ có khoảng 20 đền, tháp còn giữ được dáng vẻ ban đầu. Năm 1980, trong chương trình hợp tác văn hoá Việt Nam - Ba Lan, tiểu ban phục hồi di tích Chămpa được thành lập do cố kiến trúc sư Kazimiers Kwiat Kowski (1944- 1997) phụ trách. Từ 1981 đến 1985, các đền tháp nhóm B, C, D được dọn dẹp và gia cố, hàng ngàn mét khối gạch vỡ, đất đá được đưa ra khỏi khu vực và sắp xếp lại. Nhờ vậy mà khu vực đền tháp này có được dáng vẻ như ngày hôm nay. Sau đó, một phần nhóm A được dọn dẹp và gia cố. Mỹ Sơn hiện nay vẫn còn rất nhiều việc để làm nhưng được như hôm nay là công sức của những con người của những năm 1980 đầy khó khăn. Cố kiến trúc sư người Ba Lan mà mọi người hay gọi bằng một tên thân mật Kazik đã để lại một tình cảm sâu đậm trong di tích và con người tại Mỹ Sơn. Ông mất năm 1997 tại Huế. 3) Quá trình đề nghị và được công nhận: Theo Công ước quốc tế, một di sản quốc gia được công nhận là di sản văn hóa thế giới phải đảm bảo đầy đủ 1 trong 6 tiêu chuẩn sau: (1) Là tác phẩm nghệ thuật độc nhất vô nhị, tác phẩm hàng đầu của tài năng con người (2) Có ảnh hưởng quan trọng đến sự phát triển của nghệ thuật kiến trúc, nghệ thuật cấu tạo không gian trong một thời gian nhất định, trong một khung cảnh văn hóa nhất định (3) Chứng cớ xác thực cho một nền văn minh đã biến mất (4) Cung cấp ví dụ hùng hồn cho một thể loại xây dựng, hoặc kiến trúc phản ánh một giai đoạn lịch sử có ý nghĩa (5) Cung cấp ví dụ hùng hồn về một dạng nhà ở truyền thống nói lên được một nền văn hóa đang có nguy cơ bị hủy hoại trước những biến động không cưỡng lại được (6) Có mối liên hệ trực tiếp với những sự kiện, tín ngưỡng đáp ứng được những tiêu chuẩn xác thực về ý tưởng sáng tạo, về vật liệu, về cách tạo lập cũng như về vị trí. Để tiếp tục công việc bảo tồn di tích, năm 1995, Ban quản lý Di tích Mỹ Sơn đã được thành lập. Ban đã phối hợp với Trung tâm thiết kế và tu bổ di tích Trung ương thiết lập các dự án tu bổ cấp thiết từng cụm di tích trên cơ sở quy hoạch toàn vùng. Nổi bật nhất trong những năm 1998-1999, Ban đã hoàn thành được hồ sơ để trình UNESCO công nhận Mỹ Sơn là Di sản Thế giới. Tháng 12 năm 1999, thánh địa Mỹ Sơn đã được UNESCO chọn là một trong các di sản thế giới tại phiên họp thứ 23 của Ủy ban di sản thế giới theo tiêu chuẩn (2) như là một ví dụ điển hình về trao đổi văn hóa với sự hội nhập vào văn hoá bản địa từ những ảnh hưởng văn hoá bên ngoài, đặc biệt là nghệ thuật kiến trúc Ấn Độ giáo từ tiểu lục địa Ấn Độ; và theo tiêu chuẩn (3) như là bằng chứng duy nhất của nền văn minh châu Á đã biến mất, phản ảnh sinh động tiến trình phát triển của lịch sử văn hoá Chămpa trong lịch sử văn hoá Đông Nam Á. II. Đặc trưng di sản: 1) Lịch sử hình thành: Ngày xưa, lãnh thổ Vương quốc Chămpa trải dài từ Đèo Ngang - Quảng Bình đến Bình Thuận ngày nay. Chămpa có 2 bộ lạc: bộ lạc Dừa ở phía Bắc, từ Thừa Thiên đến đèo Cù Mông. Còn bộ lạc Cau từ Cù Mông vào đến Bình Thuận. Từ hai bộ lạc này đã hình thành đã hình thành những tiểu quốc đầu tiên rồi sau đó vương quốc Chămpa ra đời. Về kinh tế, người Chăm sống chủ yếu dựa vào nông nghiệp. Họ còn biết cách khai thác hương liệu, trầm hương, hồ tiêu, quế để xuất khẩu ra nuớc ngoài. Qua biết bao thăng trầm của lịch sử, vào thế kỷ thứ IV, dưới triều vua Bhahadravarman, đã cho xây dựng kinh đô ở Trà Kiệu. Sau khi kinh đô đã được xây dựng xong, ông nghĩ ngay đến việc thành lập trung tâm tôn giáo phục vụ cho kinh đô đó. Và thánh địa Mỹ Sơn đã ra đời. Mỹ Sơn từng chứng kiến những thời kỳ hưng thịnh, rực rỡ cũng như những biến động của vương quốc Chămpa cổ đại. Mỹ Sơn không phải là kinh đô mà là thánh địa của Chămpa , thờ đấng linh thiêng tối cao. Theo quan niệm Ấn Độ giáo, nơi thờ cúng phải nơi thâm nghiêm. Vì lẽ đó mà thánh địa Mỹ Sơn đã được xây dựng giữa một thung lũng được bao bọc bởi núi non hiểm trở - vùng Amaravati, tên gọi xưa của vùng Quảng Nam-Đà Nẵng được văn bia nhắc đến như trái tim của vương quốc Chămpa trong nhiều thế kỷ. Người Chăm cho đây là mảnh đất thiêng, ngọn núi Đại Sơn (Mahabavata) cũng là một ngọn núi thiêng. Con suối Mỹ Sơn cũng được xem là con suối thiêng mà dòng suối này là nhánh đổ ra sông Thu Bồn. Kinh đô Trà Kiệu thất thủ khi người Chăm sử dụng nơi đây làm nơi trấn ngự. Từ những yếu tố này người Chăm cho xây dựng đền thờ đầu tiên vào cuối thế kỷ thứ IV bằng gỗ ở Mỹ Sơn để thờ thần Sisana Bhahadravana - tên thần là sự kết hợp của tên các vị vua lúc bấy giờ là Bhahadravaman và thần Siva. Sau vị vua này, các vị vua khác lên ngôi và tiếp tục cho xây dựng đền tháp. Trước hết là thờ cúng thần linh, thứ hai là muốn tỏ uy quyền của mình. Dần dần từ thế kỷ thứ IV đến thế kỷ XIII Mỹ Sơn trở thành một quần thể gồm khoảng 70 công trình kiến trúc lớn nhỏ. Cuối thế kỷ thứ XIII, do 2 bộ lạc Cau và Dừa không thống nhất với nhau về quyền lợi cũng như phong tục tập quán. Trong nước đã xảy ra nội chiến. Cũng thời điểm này, các nước láng giềng như Trung Hoa, Việt Nam, Khmer đã tiến hành các cuộc chiến tranh với Chămpa. Chính vì những lý do đó người Chăm đã dời kinh đô xuống phía Nam ở vùng Bình Thuận ngày nay. Sau thế kỉ thứ XIII, Mỹ Sơn hầu như bị bỏ hoang, không ai xây dựng đền đài cũng như tiếp tục thờ cúng ở Mỹ Sơn. 2) Kiến trúc thánh địa: Bằng vật kiệu gạch nung và đá sa thạch, trong nhiều thế kỷ người Chăm đã dựng lên một quần thể kiến trúc đền tháp độc đáo, liên hoàn: Ðền chính (Kalan) thờ Linga Yoni biểu tượng của năng lực sáng tạo, bên cạnh tháp chính là những tháp thờ nhiều vị thần khác hoặc thờ những vị vua đã mất. Mặc dù thời gian cùng chiến tranh đã biến nhiều khu tháp thành phế tích nhưng những hiện vật điêu khắc, kiến trúc còn lại cho đến ngày nay vẫn còn để lại những phong cách giai đoạn lịch sử mỹ thuật dân tộc Chăm, những kiệt tác đánh dấu một thời huy hoàng của văn hoá kiến trúc Chămpa nói riêng cũng như của Đông Nam Á nói chung. a) Bố cục thánh địa: Để tiện hơn cho việc nghiên cứu, Pamentier đã chia đền tháp Mỹ Sơn thành 10 nhóm: : A, A', B, C, D, E, F, G, H, K. Mỗi nhóm lại có từ một đến nhiều kiến trúc. Trong đó: Nhóm A và A’ được gọi là Khu tháp Chùa với 19 di tích - Nhóm B, C và D được gọi là Khu tháp Chợ với 12 di tích - Nhóm E và F được gọi là Khu tháp Bàn cờ với 4 di tích Bố cục các tháp gồm một tháp chính, một tháp cổng và một nhà đón khách hành hương gọi là nhà tịnh tâm. Tháp chính luôn ở vị trí trung tâm, bởi nó là biểu tượng của trung tâm vũ trụ - nơi hội tụ thần linh. Những tháp phụ biểu tượng cho các lục địa, những châu lục. Ở Ấn Độ, người ta đào chung quanh những công trình này những rãnh sâu biểu tượng cho đại dương. Ở Mỹ Sơn lại không thấy chi tiết đó. Hướng các tháp mang cũng mang nhiều ý nghĩa: phần lớn các tháp có cửa quay về hướng Đông - phương mặt trời mọc, chỗ trú ngụ của thần linh. Nhưng cũng có nhiều tháp quay về hướng Tây hoặc cả hai hướng Đông – Tây như khu A, E, F, thể hiện tư tưởng hướng về thế giới bên kia của các vị vua sau khi chết được phong thần và để tỏ lòng hoài niệm tổ tiên. Hướng Bắc đem đến của cải vật chất cho vương quốc Chămpa. Tháp hướng Bắc để thờ thần tài lộc. Riêng hướng Nam các nhà nghiên cứu chưa tìm được ý nghĩa của nó. NHÓM THÁP B Tháp B1: biểu tượng của núi Mêru, là trung tâm vũ trụ, nơi tập trung các vị thần. Tháp có thờ thần Siva. Có một cửa ra vào, các ô quanh tường là nơi thắp đèn cầy. Tháp B3: thờ thần Skanda - thần chiến tranh. Tháp B4: thờ thần Ganesa - con thần Siva, có đầu voi mình người. Đây là thầnmay mắn và hạnh phúc. Tháp B5: quay về hướng Bắc, thờ thần Kover, thần tài lộc. Tháp cũng là nơi giữ đồ hành lễ. Tháp B6: bên trong có một hồ nước thánh dùng trong các nghi lễ. Tháp B7: là tháp cổng đối diện với tháp chính. Kế nữa là nhà tĩnh tâm, nơi các người đi hành lễ tĩnh tâm, chuẩn bị cho nghi lễ. Xung quanh B1 có nhiều miếu phụ. Mỗi miếu phụ thờ một vị thần: thần mặt trời, Kubera...mỗi vị thần giữ một hướng bảo vệ tháp chính. Những tháp đó ngày nay không còn, chỉ còn lại B7. NHÓM THÁP A Tháp A1: Đỉnh cao của nghệ thuật Chămpa vào thế kỉ thứ V, sau thế kỉ thứ X thì nghệ thuật Chămpa càng bị mai một. Tháp A1 cao 24m, cao nhất ở Mỹ Sơn đá xây tháp được lấy cách đó khoảng 15km. Người ta cho rằng người Chăm đã dùng sức vật để kéo đá dọc theo bờ suối. Tháp A1 có hai cửa Đông và cửa Tây. Ở trung tâm tháp có Linga lớn nhất Mỹ Sơn, không biết lí do gì mà Linga bị khiêng ra ngoài. Sự kết hợp giữa vương và thần được thể hiện qua ngẩu tượng Linga. Linga có baphần: phần trụ ở trên cùng tương ứng với thần Siva- huỷ diệt chưa hoàn thiện đểsáng tạo cái mới. Phần bát giác ở giữa tượng trưng cho thần Vishnus- thần bảotồn. Phần hình vuông ở dưới tượng trưng cho Brahma- thần sáng tạo. Linga naylà một biểu tượng cho tam vị nhất thể. NHÓM THÁP G Nhóm G này được xây dựng vào thế kỉ thứ XIII. Ở nhóm tháp này người Chămpa đã dùng chất liệu mới để xây tháp là đá ong. Xung quanh tháp có trang trí những mặt nạ thần Kala- thần thời gian. Bốn góc tháp có hình bốn con sư tử bảo vệ cho tháp. NHÓM THÁP E & F: Là nhóm tháp muộn nhất. Hiện không còn gì nhiều, có hai pho tượng; giữ thần cửa - hộ pháp Dravabala, thần bò Nandin. Nhóm tháp này hiện nay chỉ còn hai tháp và một cái Mukha Linga. b) Kiến trúc “ Trong từng viên gạch, từng tấm phù điêu vũ nữ đang say múa, từng ngôi tháp cổ đổ nát... như đang kể cho khách phương xa những câu chuyện về một thời kỳ rực rỡ đã qua”. Mỗi thời kỳ lịch sử, kiến trúc mang phong cách riêng, cũng như mỗi đền tháp thờ những vị thần, những triều vua khác nhau tạo nên đường nét kiến trúc đầy dấu ấn. Nhìn chung tháp Chàm đều được xây dựng trên một mặt bằng tứ giác, chia làm 3 phần: Ðế tháp biểu hiện thế giới trần gian, vững chắc. Thân tháp tượng hình của thế giới thần linh, kỳ bí mê hoặc. Phần trên cùng là hình người dâng hoa trái theo nghi lễ hoặc hình cây lá, chim muông, voi, sư tử... những loài gần gũi với tôn giáo và cuộc sống con người Từ những buổi ban đầu sơ khai, gần như người nghệ sĩ Chăm đã học cách trang trí mỹ thuật và thực hiện nó theo người Ấn Độ (như tháp Mỹ Sơn E1). Nhưng rồi dần về sau, tính bản địa đã được thể hiện. Nhưng theo thời gian, qua giao tiếp với các nền văn minh khác và sự tiếp nhận chọn lọc của người nghệ sĩ Chăm pa; đền tháp tại Mỹ Sơn mang những đường nét kiến trúc theo các thời kỳ khác nhau thể hiện các luồng văn hoá mà họ nhận được. Là khu đền thờ chính của vương quốc trong suốt chín thể kỷ, nên các đền tháp của Mỹ Sơn cũng thể hiện tính thăng trầm của các thời kỳ, những thay đổi trong lịch sử của các vương triều, những chuyển biến trong đời sống văn hoá. Tuy chỉ xây dựng những công trình có kích thước vừa và nhỏ, những kiến trúc của Mỹ Sơn đã chắt lọc được những tinh hoa của người nghệ sĩ, sự kết hợp giữa kỹ thuật kiến trúc và nghệ thuật trang trí người Chăm pa xưa đã tạo cho các đền tháp một vẻ uy nghiêm và kì bí. · Chất liệu và kĩ thuật xây dựng Với việc quan sát kết cấu của tháp Chàm là những viên gạch đỏ chồng khít lên nhau, không thấy mạch hồ kết dính đã hình thành nên những giả thuyết khác nhau về chất liệu và kĩ thuật xây dựng những ngôi đền tháp Mỹ Sơn: - Đền tháp Mỹ Sơn được xây từ những viên gạch cổ nhẹ hơn gạch hiện tại cùng kích thước 1,3 lần. Gạch được nung non hơn nhưng tính chất về sức bền vật liệu lại cao hơn - Có những huyền thoại cho rằng: Người Chăm xây tháp bằng gạch mộc, dẻo gọt nó lên rồi nung một khối khối tháp trên ngọn lửa khủng lồ. - Các chuyên gia Ba Lan lại khẳng định rằng người Chăm đã dùng gạch nung sẵn gắn với nhau bằng vữa đất sét và sau đó toàn bộ tháp được nung lại. - Một số nhà nghiên cứu cho rằng người Chăm đã dùng keo chiết từ thực vật (nhựa xương rồng và mật mía hoặc nhựa cây dầu rái) để dán những viên gạch với nhau hay có người thì nói họ dùng lá cây nghiền ra bôi vào sau đó để cho khô rồi xây tiếp. Có những nghiên cứu gần đây cho thấy người Chăm đã sử dụng kết hợp một số biện pháp kĩ thuật khác nhau để xây tháp: dùng các viên gạch có độ lõm ở mặt tiếp xúc, khi xây lên không thấy vữa ở giữa các viên gạch còn ở giữa có lớp vữa dày; mài các viên gạch trong nước cho thật khít nhau rồi xếp lại cho bột gạch tự kết dính nhau trong sức nặng của trọng lực của phần trên tháp; dùng các viên gạch có mặt lõm mặt lồi theo kiểu âm dương, khi xếp lên tự thân nó liên kết với nhau Đền tháp Chăm ở Mỹ Sơn không chỉ chứa chất những giá trị văn hoá làm say đắm lòng người mà còn chứa cả những giá trị kỹ thuật mà công nghệ thời nay vẫn chưa thể lí giải được. Đến Mỹ Sơn, nhìn một mảng tường để biết rằng chúng ta còn phải học nhiều. A. Thực trạng khai thác di sản phục vụ du lịch. I. Hiện trạng của di sản: Thời điểm Mỹ Sơn được phát hiện có 68 di tích còn gần như nguyên vẹn, được các nhà khoa học đặt tên theo mẫu tự Alphabet từ A đến N. Trải qua một thời gian dài và nhất là qua hai cuộc chiến tranh khốc liệt, khu di tích Mỹ Sơn đã bị tàn phá nặng nề, cùng với yếu tố về thời gian, điều kiện tự nhiên khắc nghiệt ( như khí hậu, dòng chảy...) và những hành động vô thức của con người đã làm hư hại các khu tháp của quần thể di tích. Đến thời điểm hiện tại khu di tích Mỹ Sơn chỉ còn lại khoảng 20 công trình kiến trúc và phần lớn không còn nguyên vẹn. Hầu hết các di tích đều bị bom đạn chia cắt thành từng mảng, phá thủng, đánh sập, vùi lấp trong những đống đất, rạn nứt, xiêu vẹo; chấn động của bom đạn làm mất liên kết giữa các viên gạch và các bộ phận chịu lực. Gạch và đá bị phong hóa do độ ẩm cao và sự khắc nghiệt của khí hậu. Cỏ cây xâm thực khắp mọi nơi, mọi chỗ trên toàn bộ khu di tích. Hầu hết các hệ mái đều sụp, hư hại nặng. Tất cả đều ở trong tình trạng kĩ thuất rất xấu, các đền tháp chưa được trùng tu có nguy cơ sụp đổ bất cứ lúc nào. Năm 1996, sau trận lũ đầu mùa sập một nửa tiền sảnh tháp G1, năm 1997 sập ba phần tư tường nam tháp E6, năm 1998 sập vòm trước tháp E7... năm 2003 một mảng gạch tháp E7 bị rơi xuống do ngấm nước lâu ngày,... Nhóm A: Tháp A12 mặt nam và mặt bắc có xu hướng đổ ngã; A13 mặt bắc có trang trí chim thần Garuda có nguy cơ sạt xuống bất cứ lúc nào. Nhóm B: Tháp B2 phát hiện mảng tường phía bắc bị tách đôi, vòm cửa tây nghiêng; B3 tháp nghiênh 5 độ về phía tây-nam. Đây là tháp có nguy cơ đổ sập cao nhất. Thân tháp rạn nứt, vết nứt sâu từ 5-7cm, rộng 3-4 cm, toàn bộ khung cửa chính lệch về phía nam 3 độ; B4 linto cửa đông gãy làm ba đoạn, dấu hiệu dễ dàng rơi xuống... Nhóm C: Tháp C3 (kiến trúc duy nhất gần như còn nguyên vẹn) trụ cửa bị nứt, hai linto trong ngoài đều gãy; khung cửa bên trong biến dạng thành hình bình hành... Và nhóm D... Nhóm E... Nhóm G... Sự hư hại, xuống cấp không loại trừ nhóm tháp nào, đều được miêu tả khá tỷ mỷ trong báo cáo "Thực trạng và giải pháp bảo tồn di sản Mỹ Sơn" của Ban quản lý di tích Mỹ Sơn gửi đến các cấp liên quan. Theo cách kết luận của văn bản này thì các di tích của Mỹ Sơn đang "thấp hơn và nhỏ lại". Quá trình trùng tu: Thánh địa là cả một quần thể kiến trúc lớn.Tuy nhiên, Mỹ Sơn có số phận bi thảm hơn rất nhiều so với các cụm tháp Chăm còn tồn tại rải rác từ Thừa Thiên – Huế đến Ninh Thuận.. Sau gần 30 năm trùng tu và bảo vệ, Mỹ Sơn và tất cả các tháp Chăm tại Việt Nam đang ở trong tình trạng sập đổ nhưng không có phương án trùng tu nào hiệu quả. Hàng chục công trình nghiên cứu về chất liệu gạch xây tháp Chăm đã được công bố để rồi lại thất bại. Các loại gạch Chăm mới đưa vào trùng tu đều không hiệu quả. Sau hơn 100 năm, kể từ ngày các nhà khảo cổ, nghiên cứu văn hóa người Pháp tiến hành trùng tu ngôi đền A1 Mỹ Sơn, đến nay ngành bảo tồn bảo tàng nước ta vẫn chưa thống nhất, xác định được phương pháp và chuẩn mực phù hợp trong công tác bảo tồn, trùng tu di tích. 12 - 1999, Mỹ Sơn đã chính thức được công nhận là Di sản Văn hoá Thế giới. Tiếp đó, theo thoả thuận của ba bên Việt Nam, UNESCO và Chính phủ Italia, Ban quản lý Di tích Mỹ Sơn hợp tác với đoàn chuyên gia Italia nghiên cứu toàn diện về Mỹ Sơn. Từ đó, đã vẽ được bản đồ thực trạng khu vực di tích. Nhận định chung của các chuyên gia cho rằng: "Đối xử với di tích phải hết sức dè dặt, phải nghiên cứu kỹ về vật liệu xây dựng vì người xưa không chỉ để lại những giá trị mỹ thuật và lịch sử mà còn có cả kỹ thuật vật liệu". Trong khi đó, hiện tại ở Mỹ Sơn, việc trùng tu, tôn tạo di sản này vẫn chỉ mới dừng lại ở các công việc khảo sát, khai quật, thu thập cứ liệu và... còn đang phải tiếp tục nghiên cứu tìm vật liệu, phương pháp trùng tu. Chính vì vậy, nghịch lý thừa kinh phí trùng tu khẩn cấp di sản này đã xảy ra. Dự án bảo tồn, tu bổ cấp thiết một số hạng mục di tích, giai đoạn 2001 -2002 của Bộ VHTT với tổng nguồn vốn đầu tư hơn 6,9 tỉ đồng, được giao cho UBND huyện Duy Xuyên làm chủ đầu tư, đến nay vẫn còn nhiều hạng mục không thể thực hiện, vốn còn lại hơn 2,7 tỉ đồng không được giải ngân. II. Thực trạng khai thác phục vụ du lịch 1. Tình hình phát triển du lịch ở Mỹ Sơn a) Những kết quả đạt được : Mỹ Sơn sau khi được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa thế giới (12-1999) càng có sức hút với khách du lịch, lượng khách du lịch đến với thánh địa Mỹ Sơn đã tăng rõ rệt. Giai đoạn 1997-2004, lượng du khách từ 22.272 lượt người tăng lên 107.512 lượt, trong đó khách quốc tế tăng 3,7 lần; khách nội địa tăng 9 lần. Năm 2006, hơn 140.000 lượt khách, doanh thu gần 6,2 tỷ đồng. Năm 2010, có hơn 200.000 lượt khách đến Mỹ Sơn, doanh thu đạt 10,5 tỷ đồng. Hiện nay, khu du lịch Mỹ Sơn thu hút khoảng 500.000 lượt khách mỗi năm. Hình ảnh du lịch của Mỹ Sơn đang được quảng bá tích cực thông qua những hoạt động về du lịch của tỉnh Quảng Nam nói riêng và cả nước nói chung. Chương trình “Hành trình văn hóa” được tổ chức định kì 2 năm một lần, nhằm quảng bá hình ảnh của Mỹ Sơn nó