Bài thu hoạchThực trạng và giải pháp nhằm hoàn thiện và nâng cao chất lượng Thanh toán quốc tế bằng phương thức Tín dụng chứng từ tại NHNo&PTNT Chi nhánh Hoàn Kiếm

Cùng với xu thế mở cửa và hội nhập với nền kinh tế thế giới, sự giao lưu ngoại thương với khối lượng hoàg hóa ngày càng lớn đã đòi hỏi hoạt động thanh toán hàng xuất, nhập khẩu phải nhanh chóng, thuận tiện cho các bên. Với vị trí, vai trò quan trọng của thanh toán quốc tế phục vụ kinh tế đối ngoại nên trong những năm qua ngành Ngân hàng đã rất quan tâm đến việc hoàn thiện và nâng cao hiệu quả của mặt nghiệp vụ này, chính vì vậy mà thanh toán quốc tế nói chung và thanh toán quốc tế bằng phương thức tín dụng chứng từ nói riêng đã mang kết quả khả quan, đáp ứng phần lớn nhu cầu thanh toán hàng xuất nhập khẩu của nền kinh tế. Tuy nhiên đây là nghiệp vụ rất phức tạp và đòi hỏi về xử lý kỹ thuật rất cao do vậy nghiệp vụ thanh toán quốc tế bằng phương thức tín dụng chứng từ vẫn còn một số tồn tại cần phải được quan tâm nghiên cứu để có các giải pháp khắc phục những tồn tại đó. Bên cạnh đó, Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn chi nhánh Hoàn Kiếm là một chi nhánh ngân hàng mới được thành lập, nghiệp vụ thanh toán quốc tế bằng phương thức tín dụng chứng từ chưa phát triển, khi tiến hành thực hiện nghiệp vụ này không tránh khỏi gặp nhiều khó khăn. Vì vậy, việc khắc phục những khó khăn để hoàn thiện và phát triển nghiệp vụ thanh toán quốc tế bằng phương thức tín dụng chứng từ là một yêu cầu hết sức cấp thiết đối với Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn chi nhánh Hoàn Kiếm. Từ những lý do nêu trên và cùng với yêu cầu của đợt thực tập tại tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn chi nhánh Hoàn Kiếm., em đã mạnh dạn lựa chọn đề tài “Nâng cao chất lượng hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn chi nhánh Hoàn Kiếm” để làm thu hoạch trong đợt thực tập này của mình.

doc42 trang | Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1222 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Bài thu hoạchThực trạng và giải pháp nhằm hoàn thiện và nâng cao chất lượng Thanh toán quốc tế bằng phương thức Tín dụng chứng từ tại NHNo&PTNT Chi nhánh Hoàn Kiếm, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Cùng với xu thế mở cửa và hội nhập với nền kinh tế thế giới, sự giao lưu ngoại thương với khối lượng hoàg hóa ngày càng lớn đã đòi hỏi hoạt động thanh toán hàng xuất, nhập khẩu phải nhanh chóng, thuận tiện cho các bên. Với vị trí, vai trò quan trọng của thanh toán quốc tế phục vụ kinh tế đối ngoại nên trong những năm qua ngành Ngân hàng đã rất quan tâm đến việc hoàn thiện và nâng cao hiệu quả của mặt nghiệp vụ này, chính vì vậy mà thanh toán quốc tế nói chung và thanh toán quốc tế bằng phương thức tín dụng chứng từ nói riêng đã mang kết quả khả quan, đáp ứng phần lớn nhu cầu thanh toán hàng xuất nhập khẩu của nền kinh tế. Tuy nhiên đây là nghiệp vụ rất phức tạp và đòi hỏi về xử lý kỹ thuật rất cao do vậy nghiệp vụ thanh toán quốc tế bằng phương thức tín dụng chứng từ vẫn còn một số tồn tại cần phải được quan tâm nghiên cứu để có các giải pháp khắc phục những tồn tại đó. Bên cạnh đó, Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn chi nhánh Hoàn Kiếm là một chi nhánh ngân hàng mới được thành lập, nghiệp vụ thanh toán quốc tế bằng phương thức tín dụng chứng từ chưa phát triển, khi tiến hành thực hiện nghiệp vụ này không tránh khỏi gặp nhiều khó khăn. Vì vậy, việc khắc phục những khó khăn để hoàn thiện và phát triển nghiệp vụ thanh toán quốc tế bằng phương thức tín dụng chứng từ là một yêu cầu hết sức cấp thiết đối với Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn chi nhánh Hoàn Kiếm. Từ những lý do nêu trên và cùng với yêu cầu của đợt thực tập tại tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn chi nhánh Hoàn Kiếm., em đã mạnh dạn lựa chọn đề tài “Nâng cao chất lượng hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn chi nhánh Hoàn Kiếm” để làm thu hoạch trong đợt thực tập này của mình. 2. Mục đích, phạm vi nghiên cứu của bài thu hoạch Trong phạm vi nghiên cứu của bài thu hoạch, với một thời gian thực tập ngắn ngủi tại Ngân hàng, vì vậy, trong bài này mục đích nghiên cứu là: Tìm hiểu được cơ bản thực trạng hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt động thanh toán quốc tế bằng phương thức Tín dụng chứng từ nói riêng tại NHNo&PTNT chi nhánh Hoàn Kiếm. Đưa ra được giải pháp, kiến nghị đóng góp nhằm hoàn thiện và nâng cao chất lượng thanh toán quốc tế bằng phương thức Tín dụng chứng từ tại NHNo&PTNT Chi nhánh Hoàn Kiếm. 3. Kết cấu của bài thu hoạch Đề tài: “Thực trạng và giải pháp nhằm hoàn thiện và nâng cao chất lượng Thanh toán quốc tế bằng phương thức Tín dụng chứng từ tại NHNo&PTNT Chi nhánh Hoàn Kiếm” Ngoài phần mở đầu và kết luận, bài thu hoạch được chia thành 3 chương Chương 1. Tổng quan về Thanh toán quốc tế. Chương 2. Thực trạng hoạt động Thanh toán quốc tế bằng phương thức Tín dụng chứng từ tại NHNo&PTNT Chi nhánh Hoàn Kiếm. Chương 3. Giải pháp nhằm hoàn thiện và nâng cao chất lượng của hoạt động Thanh toán quốc tế bằng phương thức Tín dụng chứng từ tại NHNo&PTNT Chi nhánh Hoàn Kiếm. Em xin chân thành cảm ơn cô giáo Thạc sỹ Đặng Thị Lan đã giúp em hoàn thành bài thu hoạch thực tập này. Em xin cảm ơn các cô chú, anh chị tại NHNo&PTNT Chi nhánh Hoàn Kiếm và đặc biệt cảm ơn các anh chị Phòng Thanh toán quốc tế đã tạo điều kiện cho em được tiếp xúc và tham gia thực tế công việc thanh toán quốc tế trong thời gian em thực tập ở đây, những kinh nghiệm thực tế này đã giúp ích cho em rất nhiều để hoàn thành bài thu hoạch thực tập này. Sinh viên thực hiện Nguyễn Duy Hưng CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN VỀ THANH TOÁN QUỐC TẾ 1.1 Khái niệm về thanh toán quốc tế Thanh toán quốc tế là sự vận dụng tổng hợp các điều kiện thanh toán quốc tế trong quan hệ thanh toán giữa các nước, các vấn đềư có liên quan đến quyền lợi và nghĩa vụ mà các bên phải đề ra giải quyết và thực hiện, được quy định lại thành những điều kiện về tiền tệ, điều kiện về địa điểm, điều kiện về thời gian và điều kiện về phương thức thanh toán.[1] Thanh toán quốc tế được hiểu là việc chi trả bằng tiền liên quan đến các hoạt động mua bán hàng hóa, dịch vụ và thực hiện các nghĩa vụ tài chính giữa các tổ chức, các đơn vị kinh tế, các cá nhân giữa nước này với nước khác. Thanh toán quốc tế là khâu rất quan trọng trong quá trình thực hiện buôn bán- trao đổi hàng hóa, dịch vụ giữa các nước. Nó phản ánh sự vận động có tính quy luật của giá trị trong quá trình chu chuyển hàng hóa, tiền tệ giữa các quốc gia và được xem là khâu cuối cùng trong một giao dịch kinh tế. Thanh toán quốc tế không chỉ đơn thuần giống hoạt động thanh toán trong quan hệ giao dịch mua bán trong nước, mà thanh toán quốc tế rất phức tạp. Điều này là do thanh toán quốc tế có liên quan đến nhiều quốc gia khác nhau, với nhiều đồng tiền thanh toán khác nhau. Và hơn nữa, việc thanh toán giữa các nước đều phải tiến hành thông qua các tổ chức tài chính trung gian mà chủ yếu là Ngân hàng. Hoạt động thanh toán thường không dùng tiền mặt, chủ yếu là thanh quyết toán giữa các Ngân hàng. Vì vậy, thanh toán quốc tế có những nét đặc thù riêng.[7] Thanh toán quốc tế là nghiệp vụ quyết định tới hiệu quả của một thương vụ bởi vì nó ảnh hưởng tới quyền lợi và nghĩa vụ của đôi bên. Vì vậy trong hoạt động thanh toán quốc tế, các điều kiện về thanh toán được hình thành nhằm đảm bảo cho việc thanh toán được hợp lý cho cả đôi bên. 1.2 Vai trò của thanh toán quốc tế đối với hoạt động của các ngân hàng thương mại Thanh toán quốc tế là một trong những hoạt động kinh doanh nhằm thu lợi nhuận của ngân hàng. Vì hoạt động của Ngân hàng thương mại chủ yếu dựa trên 3 chức năng chủ yếu: chức năng trung gian tín dụng, chức năng trung gian thanh toán và chức năng sáng tạo ra công cụ lưu thông tín dụng. Hoạt động thanh toán quốc tế thường do các Ngân hàng thương mại tiến hành và về bản chất đây là một hoạt động cung cấp dịch vụ nhằm thu phí. Tiền phí mà Ngân hàng thu thường là một tỷ lệ phần trăm nhất định tính trên tổng giá trị hàng hóa xuất nhập khẩu. Các Ngân hàng có lợi thế tuyệt đối về công nghệ và nhân lực so với các tổ chức tín dụng khác trong việc cung cấp dịch vụ thanh toán quốc tế, chính vì vậy thị phần thanh toán quốc tế của các Ngân hàng cũng lớn hơn nhiều so với các tổ chức tín dụng khác. Do đó, phí thu từ hoạt động thanh toán quốc tế của các Ngân hàng cũng là một nguồn thu đáng kể, nhất là những Ngân hàng chuyên môn phục vụ ngoại thương. Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế đang diễn ra mạnh mẽ như hiện nay, hoạt động xuất nhập khẩu không ngừng tăng trưởng về quy mô giá trị, tốc độ, chủng loại mặt hàng..., hoạt động thanh toán quốc tế của các Ngân hàng vì thế mà cũng lớn mạnh phát triển thêm. Thanh toán quốc tế là công cụ giúp Ngân hàng thương mại thu được ngoại tệ. Thật vậy, bên cạnh hoạt động kinh doanh ngoại tệ trên thị trường ngoại hối thì thanh toán quốc tế cũng là một nguồn thu ngoại tệ của các Ngân hàng thương mại. Khi Ngân hàng thương mại trích phí trên tổng giá trị hàng hóa xuất nhập khẩu thì nếu số tiền đó được tính theo đơn vị là ngoại tệ, Ngân hàng thương mại có thể được hưởng một tỷ lệ phần trăm trên số ngoại tệ đó. Một số quốc gia còn bắt buộc các nhà nhập khẩu khi nhận ngoại tệ về thì phải chuyển đổi một tỷ lệ phần trăm nhất định ra nội tệ, phần còn lại mới được nhận bằng ngoại tệ. Việc làm này nhằm quản lý lượng ngoại tệ di chuyển vào đất nước, giúp cân bằng thị trường ngoại hối. Thanh toán quốc tế qua hệ thống Ngân hàng thương mại giúp Ngân hàng trung ương kiểm soát ngoại tệ. Thật vậy, bằng việc kiểm soát doanh số thanh toán quốc tế của Ngân hàng thương mại, Ngân hàng trung ương có thể biết được lượng ngoại tệ vào ra đất nước và nhờ đó có những can thiệp kịp thời đến thị trường ngoại hối. Chẳng hạn, nếu qua các Ngân hàng thương mại, Ngân hàng trung ương biết rằng nền kinh tế có hiện tượng xuất siêu nghĩa là lượng ngoại tệ vào rất lớn thì Ngân hàng trung ương có thể tung nội tệ ra để mua ngoại tệ vào nhằm làm tăng giá ngoại tệ và giảm giá nội tệ giúp ổn định thị trường ngoại hối và do đó ổn định thị trường tiền tệ. 1.3 Các phương tiện thanh toán quốc tế Các phương tiện thanh toán chủ yếu trong thanh toán quốc tế bao gồm séc, hối phiếu ngân hàng, kỳ phiếu ngân hàng, chứng chỉ tiền gửi, thư tín dụng, thư bảo lãnh, thẻ tín dụng ... và phần lớn trong các phương tiện đó thực hiện một số chức năng của tiền như là phương tiên lưu thông và phương tiện thanh toán tức là nó có khả năng chuyển nhượng, mua, bán từ tay người này sang tay người khác bằng cách chuyển giao không cần ký chuyển nhượng hay ký chuyển nhượng và người thụ hưởng phương tiện đó là người chủ hợp pháp của phương tiện đó. 1.4 Các phương thức thanh toán quốc tế chủ yếu Phương thức chuyển tiền Phương thức ghi sổ Phương thức bảo lãnh Phương thức nhờ thu Phương thức thanh toán tín dụng chứng từ Trong phạm vi có giới hạn cho phép của bài thu hoạch thực tập, sau đây em xin trình bày về một trong những phương thức thanh toán quốc tế chủ yếu trên, đó là phương thức tín dụng chứng từ. 1.5 Phương thức thanh toán tín dụng chứng từ 1.5.1 Cơ sở ra đời của tín dụng chứng từ Trên thực tế, tín dụng chứng từ ra đời từ sự không chắc chắn của người bán và cả người mua. Người bán vừa muốn giao hàng vừa muốn biết chắc chắn được thanh toán. ngược lại, người mua vừa muốn thanh toán vừa muốn chắc chắn nhận được hàng. Do đó, người mua sẽ đề nghị Ngân hàng của mình mở một thư tín dụng. Đó là cam kết của người thứ ba (Ngân hàng), một cam kết về khả năng chắc chắn thanh toán của người mua. Ngân hàng cam kết sẽ thanh toán hàng nhập khẩu nếu người xuất khẩu xuất trình một số chứng từ đã yêu cầu trong lúc mở thư tín dụng – có tên là chứng từ tín dụng. Tín dụng chứng từ là một hình thức tín dụng buộc Ngân hàng phải can thiệp bằng cách hỗ trợ cho một giao dịch không có một sự tin tưởng chắc chắn giữa người cung cấp và khách hàng. Vì lợi ích của khách hàng và uy tín của Ngân hàng, chủ Ngân hàng hứa thanh toán cho người bán trong trường hợp các chứng từ nêu trong thư tín dụng sẽ được xuất trình để đổi lấy sự thanh toán đó. Cũng vì do không quen biết, người bán đã đưa cho người mua một bảo đảm, với nghĩa người bán không chỉ có một mình mà được hỗ trợ bởi một Ngân hàng quen biết cam kết thanh toán trực tiếp vào tài khoản của người bán. Người mua đã thực hiện bước một là đã đạt được sự bảo đảm rằng việc thanh toán bởi Ngân hàng vào tài khoản của anh ta sẽ được tiến hành với điều kiện có xuất trình một số chứng từ chủ yếu khẳng định quyền sở hữu hàng hóa của người mua. Nhưng do người bán không luôn luôn hài lòng với bảo đảm duy nhất đó,và một bước đi mới ra đời bởi sự can thiệp của một nhân vật mới Ngân hàng người bán. Theo định nghĩa cũng như thực tiễn, Ngân hàng người bán được thành lập ở nước người bán cam kết hiểu biết về khả năng thanh toán của người bán. Ngân hàng của người bán có thể làm người bán thỏa mãn hơn nữa bằng cách xác nhận khoản tín dụng đó. Ngân hàng người bán xác nhận nghiệp vụ đó, nghĩa là cam kết thanh toán cho người bán để đổi lấy việc xuất trình chứng từ. Như vậy, điều tiên quyết hình thành tín dụng chứng từ là do không có sự tin tưởng của người mua và người bán (người nhập khẩu và người xuất khẩu). Khi một người mua và người bán ở hai nước khác nhau muốn thiết lập quan hệ, một vấn đề cơ bản được đặt ra trước tiên đó là vấn đề lòng tin, khi quan hệ chưa được thiện chí. Trên thị trường quốc tế, việc tự tìm kiếm thông tin về đối tác là rất khó khăn. Thực tế đòi hỏi một hình thức tín dụng mà trong mọi giải pháp đều làm hài lòng các bên. Tín dụng chứng từ là hình thức tín dụng mà trong đó các Ngân hàng hỗ trợ để hình thành nên một giao dịch không có một chút lòng tin cần thiết nào giữa người cung cấp và khách hàng chưa quen biết hoặc quen biết quá ít ở hai nước khác nhau. Trong hình thức thanh toán này, thường chỉ có bốn thành viên tham gia giao dịch : người bán – người mua – Ngân hàng người bán – Ngân hàng người mua. 1.5.2 Khái niệm Phương thức thanh toán tín dụng chứng từ là phương thức thanh toán, trong đó một ngân hàng (ngân hàng mở thư tín dụng), theo yêu cầu của khách hàng (người yêu cầu mở thư tín dụng) cam kết sẽ trả tiền cho người thứ ba (người hưởng lợi), hoặc trả tiền cho bất cứ người nào theo lệnh của người thứ ba; hoặc sẽ trả tiền, chấp nhận, chiết khấu hối phiếu do người hưởng lợi phát hành; hoặc cho phép một ngân hàng khác trả tiền, chấp nhận hay chiết khấu hối phiếu đó khi các chứng từ được xuất trình đầy đủ và phù hợp với các điều khoản, điều kiện của thư tín dụng.[1] 1.5.3 Các bên tham gia trong phương thức tín dụng chứng từ Người yêu cầu mở thư tín dụng là Người nhập khẩu hoặc là Người nhập khẩu uỷ thác cho một người khác. Ngân hàng phát hàn thư tín dụng là Ngân hàng của người nhập khẩu, nó cấp tín dụng cho Người nhập khẩu. Người hưởng lợi thư tín dụng là người xuất khẩu hay bất cứ người nào khác mà người hưởng lợi chỉ định. Ngân hàng thông báo thư tín dụng là Ngân hàng đại lý của Ngân hàng phát hành ở nước Nguời hưởng lợi. 1.5.4 Quy trình tiến hành nghiệp vụ phương thức tín dụng chứng từ Trong phương thức thanh toán quốc tế theo nghiệp vụ tín dụng chứng từ bắt buộc phải cần sự tham gia hợp tác rất chặt chẽ và hệ thống của tất cả các bên tham gia gồm: Ngân hàng thông báo, Ngân hàng phát hành, Người xuất khẩu và Người nhập khẩu. Mỗi thành viên trong hệ thống đều thực hiện những nhiệm vụ cụ thể nhất định của riêng mình và có sự tác động qua lại giữa các thành viên trong hệ thống. ( Xem hình 1). Hình 1: Trình tự nghiệp vụ phương thức tín dụng chứng từ Ngân hàng thông báo Ngân hàng Phát hành Người hưởng lợi( XK) Người yêu cầu (NK) Chi nhánh Ngân hàng phát hành 8 5 2 1 6 7 8 5 3 1 1 6 7 4 Nguồn:[1], trang 324 (1). Gửi đơn yêu cầu phát hành thư tín dụng và tiến hành ký quỹ. (2). Phát hành L/C qua Ngân hàng đại lý cho Người xuất khẩu hưởng lợi. (3). Ngân hàng thông báo tiến hành thông báo L/C và chuyển bản gốc L/C cho Người hưởng lợi. (4). Giao hàng. (5). Xuất trình chứng từ đòi tiền Ngân hàng phát hành L/C. (6). Ngân hàng phát hành thông báo kết quả kiểm tra chứng từ cho Người yêu cầu. (7). Người yêu cầu chấp nhận hay từ chối thanh toán. (8). Ngân hàng phát hành thông báo chấp nhận hay từ chối chứng từ. 1.6 Thư tín dụng 1.6.1 Khái niệm Thư tín dụng thương mại ( Letter of Credit. L/C) là một chứng thư (điện hoặc chứng chỉ), trong đó Ngân hàng phát hành L/C sẽ cam kết trả tiền cho Người xuất khẩu nếu họ xuất trình được các chứng từ phù hợp với các điều kiện và điều khoản quy định trong L/C.[1] 1.6.2 Nội dung thư tín dụng Mặc dù có nhiều loại thư tín dụng, tuy nhiên mỗi loại thư tín dụng đều chứa đựng những nội dung chủ yếu và đã được chuẩn hoá theo thông lệ quốc tế. Sau đây là những nội dung chủ yếu của thư tín dụng đã được chuẩn hóa trong các trường của mẫu điện MT 700 – Issue of a Documentary Credit mà các ngân hàng sử dụng khi tham gia vào mạng thanh toán quốc tế SWIFT.[4] Số hiệu thư tín dụng (20 /Documentary Credit number): Mỗi thư tín dụng đều có số hiệu riêng, nhằm tạo thuận tiện trong việc trao đổi thông tin, xác nhận giữa các bên có liên quan trong quá trình giao dịch thanh toán. Ngày mở thư tín dụng (31C /Date of Issue): Địa điểm mở thư tín dụng là nơi ngân hàng phát hành thư tín dụng, có ý nghĩa quan trọng vì liên quan đến việc tham chiếu luật lệ áp dụng, để giải quyết những tranh chấp xảy ra (nếu có). Ngày mở thư tín dụng là ngày bắt đầu bắt đầu phát sinh và có hiệu lực về sự cam kết của ngân hàng mở thư tín dụng với người hưởng lợi; là ngày ngân hàng mở chính thức chấp nhận đơn xin mở thư tín dụng của người nhập khẩu; là ngày bắt đầu tính thời hạn hiệu lực của thư tín dụng và cũng là căn cứ để người xuất khẩu kiểm tra xem người nhập khẩu có thực hiện việc mở thư tín dụng đúng thời hạn như thoả thuận trong Hợp đồng thương mại không. Loại thư tín dụng (40A /Form of Documentary Credit): Mỗi loại thư tín dụng đều có tính chất khác nhau do đó quyền lợi và nghĩa vụ những thành phần liên quan cũng rất khác nhau. Do đó, khi mở thư tín dụng, người yêu cầu mở phải xác định cụ thể loại thư tín dụng cần mở. Tên, địa chỉ của những người liên quan: Người yêu cầu mở thư tín dụng (50 /Applicant) Người hưởng lợi (59 /Beneficiary) Ngân hàng mở thư tín dụng (51 /Applicant Bank) ....... Số tiền, loại tiền của thư tín dụng (32B /Currency Code, Amount) Thời hạn, và địa điểm hết hạn hiệu lực của thư tín dụng (31D /Date and Place of expiry): là thời hạn mà ngân hàng mở cam kết trả tiền cho người hưởng lợi, nếu người này xuất trình được bộ chứng từ trong thời hạn và phù hợp với thư tín dụng. Trong trường hợp thư tín dụng không quy định cụ thể ngày xuất trình chứng từ thì UCP 500 quy định là 21 ngày kể từ ngày giao hàng. Thời hạn giao hàng (44C /Latest date of shipment): được quy định trong thư tín dụng và do hợp đồng thương mại quy định. Đây là thời hạn bên bán phải giao hàng cho bên mua kể từ khi thư tín dụng có hiệu lực.[10] Những nội dung mô tả hàng hoá (45A /Description of Goods and/or services): gồm tên hàng, số lượng, trọng lượng, giá cả, quy cách phẩm chất, ký mã hiệu... đây là những nội dung rất quan trọng và ngân hàng căn cứ vào đó để kiểm tra chứng từ xuất trình, nếu thấy khác biệt trong những nội dung này so với quy định của L/C, ngân hàng có quyền từ chối thanh toán. Ngoài ra chi tiết cụ thể của hàng hoá có thể được dẫn chiếu đến hợp đồng ngoại. Các chứng từ mà người hưởng lợi phải xuất trình (46A /Documents required): đây cũng là những nội dung hết sức quan trọng trong L/C, bộ chứng từ chỉ được coi là đầy đủ nếu người người hưởng lợi xuất trình toàn bộ các chứng từ quy định trong L/C. Bộ chứng từ đầy đủ và hoàn hảo thể hiện việc người xuất khẩu đã thực hiện hoàn tất các nghĩa vụ của mình, và do đó quyền lợi của người nhập khẩu được đảm bảo. Thông thường bộ chứng từ gồm có: Hối phiếu (Bill of exchange) Hoá đơn thương mại (Commercial Invoice) Vận đơn (Bill of Lading) Chứng nhận bảo hiểm (Insurance Certificate/Policy) Chứng nhận xuất xứ (Certificate of Origin) Chứng nhận chất lượng, số lượng (Certificate of Quality, Quantity) Phiếu đóng gói (Packing list) ....... Chỉ thị của ngân hàng phát hành tới ngân hàng thanh toán/ chấp nhận/ chiết khấu (78 /Instructions to the Paying/ Accepting/ Negotiating Bank): là những ràng buộc mang tính chất pháp lý giữa các ngân hàng, cam kết thanh toán của ngân hàng phát hành khi nhận được bộ chứng từ hoàn hảo. 1.6.3 Thư tín dụng Thư tín dụng có thể huỷ ngang (Revocable Credit): là loại thư tín dụng mà người yêu cầu mở có toàn quyền đề nghị ngân hàng mở thư tín dụng sửa đổi, bổ sung hoặc huỷ bỏ mà không cần thông báo cho người hưởng lợi biết. Như vậy loại thư tín dụng này không đảm bảo quyền lợi của bên bán vì người mở có thể huỷ bỏ khi bên bán đã giao hàng. Do vậy loại thư tín dụng này ít được sử dụng trong thương mại quốc tế.[1] Thư tín dụng không thể huỷ ngang (Irrevocable L/C): là loại thư tín dụng sau khi đã được mở, mọi việc liên quan đến sửa đổi, bổ sung hoặc huỷ bỏ chỉ có thể được tiến hành trên cơ sở có sự thoả thuận, thống nhất của các bên liên quan. Nếu không có sự nhất trí của người hưởng lợi thì ngân hàng mở không được phép thực hiện theo yêu cầu đơn phương của người yêu cầu mở. Quyền lợi của bên bán được đảm bảo do đó đây là loại thư tín dụng được áp dụng phổ biến trong thương mại quốc tế hiện nay. Theo quy định trong UCP 500: Nếu không có ghi chú gì khác về loại thư tín dụng được mở thì ngân hàng được quyền hiểu đó là thư tín dụng không thể huỷ ngang. Thư tín dụng không thể huỷ ngang có xác nhận (Confirmed Irrevocable L/C): là loại thư tín dụng không huỷ ngang được ngân hàng khác trả tiền cho người thụ hưởng trong trường hợp ngân hàng mở không thể trả tiền. Do có 2 ngân hàng đứng ra cam kết trả tiền cho người hưởng lợi nên loại thư tín dụng này rất đảm bảo quyền lợi cho bên bán. Thư tín dụng không thể huỷ ngang miễn truy đòi (Irrevocable without recourse L/C): là loại thư tín dụng không huỷ ngang mà sau khi người thụ hưởng đã được trả tiền, ngân hàng mở không có quyền đòi lại tiền trong bất kỳ trường hợp nào. Thư tín dụng không huỷ ngang có thể chuyển nhượng (Irrevocable transferable L/C): là loại thư tín dụng không huỷ ngang mà ngân hàng trả tiền được phép trả toàn bộ hay một phần s
Tài liệu liên quan