Bài viết Những giải pháp cơ bản về cơ chế giám sát thị trường tài chính Việt Nam nhằm phòng ngừa, hạn chế rủi ro trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.

Thị trường tài chính là nơi tụ tập các giao dịch mua bán, trao đổi các tài sản tài chính hay nguồn lực tài chính. Thông qua thị trường này, lãi suất và giá cả các loại tài sản tài chính - các chứng khoán được hình thành. Trong nền kinh tế thị trường, thị trường tài chính được coi là cơ chế tạo thuận lợi trong việc chuyển tiền từ những người tiết kiệm cho những người vay tiền. thị trường tài chính được vận hành theo quan hệ cung cầu và thông qua hệ thống các định chế tài chính trung gian của thị trường. Hệ thống các định chế này bao gôm các ngân hàng thương mại, công ty tài chính, quỹ đầu tư, công ty bảo hiểm, các công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ, quỹ đầu tư,. Giám sát thị trường tài chính là việc theo dõi, kiểm tra hoạt động của cả 3 bộ phận là thị trường tín dụng - ngân hàng; thị trường chứng khoán và thị trường bảo hiểm thông qua hệ thống thông tin, báo cáo nhằm xác định thực trạng của nó, từ đó phát hiện sớm các vấn đề và có hướng xử lý kịp thời.

pdf33 trang | Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1278 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Bài viết Những giải pháp cơ bản về cơ chế giám sát thị trường tài chính Việt Nam nhằm phòng ngừa, hạn chế rủi ro trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế., để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Những giải pháp cơ bản về cơ chế giám sát thị trường tài chính Việt Nam nhằm phòng ngừa, hạn chế rủi ro trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Thị trường tài chính là nơi tụ tập các giao dịch mua bán, trao đổi các tài sản tài chính hay nguồn lực tài chính. Thông qua thị trường này, lãi suất và giá cả các loại tài sản tài chính - các chứng khoán được hình thành. Trong nền kinh tế thị trường, thị trường tài chính được coi là cơ chế tạo thuận lợi trong việc chuyển tiền từ những người tiết kiệm cho những người vay tiền. thị trường tài chính được vận hành theo quan hệ cung cầu và thông qua hệ thống các định chế tài chính trung gian của thị trường. Hệ thống các định chế này bao gôm các ngân hàng thương mại, công ty tài chính, quỹ đầu tư, công ty bảo hiểm, các công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ, quỹ đầu tư,... Giám sát thị trường tài chính là việc theo dõi, kiểm tra hoạt động của cả 3 bộ phận là thị trường tín dụng - ngân hàng; thị trường chứng khoán và thị trường bảo hiểm thông qua hệ thống thông tin, báo cáo nhằm xác định thực trạng của nó, từ đó phát hiện sớm các vấn đề và có hướng xử lý kịp thời. Hoạt động của thị trường tài chính chịu ảnh hưởng bởi nhiều nhân tố chủ quan lẫn khách quan, bên trong và bên ngoài; tích cực lẫn tiêu cực gây biến động, làm mất an ninh của thị trường náy. Từ đó có thể tác động xấu đến cả hệ thống và nền kinh tế quốc dân. Để phát triển thị trường tài chính có hiệu quả cần phải có cơ chế và biện pháp giám sát các hoạt động của thị trường nhằm phòng ngừa hạn chế rủi ro. Thực trạng của thị trường tài chính Việt Nam Cúng với cải cách kinh tế, thị trường tài chính Việt Nam đã có những bước phát triển nhất định. Sau hơn mười năm cải thiện hệ thống tài chính, các bộ phận cơ bản của thị trường tài chính đã được hình thành tương đối đầy đủ, mặc dù mức độ phát triển của từng thị trường cấu thành là không giống nhau. Hệ thống các định chế về tài chính được phát triển cả về số lượng và chất lượng, từng bước hoàn thiện khuôn khổ pháp lý cho sự phát triển của thị trường tài chính cho phù hợp với thông lệ quốc tế. Về quản lý Nhà nước đối với thị trường tài chính được thể chế hóa tường bước. Các cơ quan quản lý Nhà nước về hoạt động của thị trường tài chính ngày càng được phối hợp một cách tốt hơn. Sau hơn 2 năm Việt Nam trở thành thành viên chính thức của tổ chức WTO không chỉ khiến số lượng các định chế tài chính tăng lên, mà các loại hình dịch vụ tài chính cũng phát triển mạnh cả về lượng và chất. Tính đến 31/7/2008, Việt Nam có 4 NHTMNN, ngân hàng chính sách xã hội, ngân hàng phát triển Việt Nam, 6 ngân hàng liên doanh, 37 ngân hàng thương mại cổ phần, 44 chi nhánh ngân hàng nước ngoài, 14 công ty tài chính, 13 công ty cho thuê tài chính và 998 quỹ tín dụng nhân dân cơ sở. Việc mở rộng các chức năng hoạt động ngân hàng cho các tổ chức tài chính phi ngân hàng, các quỹ tín dụng, các hội, các đoàn thể và một số Bộ, ngành và một số tổ chức thực hiện dự án có nguồn vốn hỗ trợ từ nước ngoài hay các tổ chức phi Chính phủ... Điều này đã tạo cho thị trường tài chính Việt Nam hoạt động mở rộng về quy mô và đa dạng hóa các loại hình. Tuy nhiên, thị trường tài chính Việt Nam thời gian qua còn kém phát triển, chủ yếu vào ngân hàng hay do ngân hàng chi phối. Đọ sâu tài chính được đo bằng tỉ lệ của tổng phương tiện thanh toán (M2)/GPD và tổng tín dụng trong nước/GDP. Nếu so với các nước trong khu vực, những chỉ số này chỉ tương đương vào những năm đầu của thập niên 1990. Thị trường tiền tệ Thị trường tiền tệ, theo Luật ngân hàng Nhà nước Việt Nam, là thị trường vốn ngắn hạn, là nới mua bán các giấy tờ có giá ngắn hạn dưới một năm. Thị trường tiền tệ bao gồm thị trường nội tệ liên ngân hàng (được thành lập và đi vào hoạt động năm 1993); thị trường ngoại tệ liên ngân hàng chính thức đi vào hoạt động từ 10/1994; thị trường đấu thầu tín phiếu kho bạc bắt đầu vận hành năm 1995 và nghiệp vụ thị trường mở chính thức vận hành vào tháng 7/2002. Chức năng của thị trường tiền tệ là tài trợ vốn ngắn hạn cho doanh nghiệp, đảm bảo vốn khả dụng cho các tổ chức tín dụng và là nơi để NHNN Việt Nam thực thi các công cụ chính sách tiền tệ. Thị trường tiền tệ diễn ra chủ yếu thông qua hoạt động của hệ thống ngân hàng, vì các ngân hàng là chủ thể quan trọng nhất trong việc cung cấp và sử dụng vốn ngắn hạn. Tham gia thị trường tiền tệ ở Việt Nam hiện nay là hệ thống các tổ chức tín dụng, gồm có: các NHTM, các công ty tài chính, các công ty cho thuê tài chính, các quỹ tín dụng nhân dân. Nhìn lại hoạt động của ngân hàng và các tổ chức tín dụng của Việt Nam trong những năm qua, vẫn là khu vực cung cấp phần lớn các nguồn vốn đầu tư cho nền kinh tế Việt Nam. Điều này thể hiện về quy mô vốn luân chuyển qua các lĩnh vực ngân hàng, các tổ chức tín dụng không ngừng tăng và mở rộng. Bên cạnh những kết quả đã dặt được trong lĩnh vực thị trường dịch vụ ngân hàng ở Việt Nam như đã nêu trên, còn một số tồn tại, cần được khắc phục trong thời gian tới, đó là: - Nhiều loại hình dịch vụ cung cấp của các tổ chức tín dụng còn hạn chế, hầu hết các dịch vụ ngân hàng cung cấp chỉ mới ở mức tiếp cận với các dịch vụ truyền thống như của các nước. Chất lượng dịch vụ còn thấp, chưa có tác dụng trong việc hỗ trợ cho việc phát triển lành mạnh của thị trường tài chính và hoạt động sản xuất kinh doanh, trong cơ cấu doanh thu từ cho vay chiếm tới hơn 70%, còn thu từ các dịch vụ ngân hàng chỉ chiếm dưới 30%. - Hiện nay các NHTM Nhà nước Việt Nam hiện chiếm trên 70% thị phần huy động tiền gửi và tín dụng của toàn hệ thống ngân hàng Việt Nam. Còn đối tượng khách hàng chủ yếu của NHTM cổ phần là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Khách hàng của các NH liên doanh và chi nhánh ngân hàng nước ngoài chủ yếu là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. - về mặt rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng cho thấy tỷ lệ nợ xấu vẫn còn tồn tại. Theo công bố của hệ thống NHTM về tủ lệ nợ quá hạn so với tổng dư nợ tuy đã giảm chỉ còn trên 3% năm 2007 so với 14.6% năm 1997. - Trên thực tế tỷ trọng nguồn vốn huy động không kỳ hạn và ngắn hạn vẫn chiếm khoảng trên dưới 3/4, do vậy sự sai lệch về cơ cấu thời hạn bảng cân đối tài sản của hệ thống NHTM là tương đói lớn... Mặc dầu trong vài năm gần đây sự sai lệch về cơ cấu đồng tiền tuy có giảm, nhưng vẫn còn ở mức độ rất lớn trong điều kiện lạm phát tương đối cao trong những năm gần đây, đặc biệt là năm 2008 và trong môi trường đô la hóa cao như ở Việt Nam hiện nay. - Hoạt động của các NHTM chủ yếu dựa trên nguồn thu chênh lệch giữa lãi suất huy động và lãi suất cho vay, điều đó sẽ làm cho hoạt động của các NHTM có rủi ro lớn, tuy răng trong vài năm gần đây các NHTM đã có thêm nhiều dịch vụ mới. Hiện nay phần lớn các khoản vay được thế chấp bằng bất động sản, trong khi thị trường bất động sản đang nguội lạnh và có những biến động không bình thường. Còn các khoản vay được thế chấp chứng khoán tuy tỷ trọng còn nhỏ, song cũng đáng cảnh báo và lo ngại về năng lực của các nhà đầu tư các nhân còn thấp và thị trường trứng khoán Việt Nam còn tiềm ẩn nhiều yếu tố biến động về giá. Nhìn lại sau hơn hai năm gia nhập WTO dòng vốn chu chuyển qua ngân hàng tăng trưởng cao nhất từ trước đến nay và vượt xa dự báo từ đầu năm của các nhà quản lý và quản trị ngân hàng... Thị trường chứng khoán Thị trường chứng khoán Việt Nam cho đến nay vẫn chưa là “hàn thử biểu” của nền kinh tế và chưa là kênh huy động vốn của các doanh nghiệp. Chức năng cung ứng vốn dài hạn cho nền kinh tế của thị trường chứng khoán Việt Nam vẫn chưa thể hiện rõ. Vốn dài hạn vẫn chủ yếu được thực hiện thông qua thị trường tiền tệ. Đó là điểm bất cập không phù hợp với sự phát triển của thị trường tài chính. Nhìn lại thị trường chứng khoán Việt Nam sau hơn 8 năm hoạt động, còn nhiều tồn tại đó là: - Về quy mô so với các nước trong khu vực còn nhỏ, tuy vốn hóa thị trường tăng nhanh đạt 45%GDP. Giá chứng khoán (chỉ số giá cổ phiếu VN-index) tăng giảm thấp thường, thị trường chứng khoán trong thời gian qua vẫn chưa đảm bảo sự bền vững lành mạnh. - Về hoạt động của các tổ chức trung gian và hỗ trợ thị trường còn nhiều bất cập về tài chính. Mặc dầu các công ty chứng khoán đã phát hành thêm cổ phiếu, trái phiếu để tăng quy mô vốn hoạt động hoặc vốn điều lệ từ các chủ sở hữu vốn (đối với các công ty trứng khoán trực thuộc ngân hàng thương mại), nhưng nhìn chung vốn điều lệ vẫn còn thấp, điều đó đã làm ảnh hưởng đến khả năng tham gia thị trường của các công ty chỉ đóng vai trò đầu tư dẫn dắt thị trường hoặc rủi ro do mức vốn khả dụng thấp. - Về cơ sở vật chất, kỹ thuật và hạ tầng công nghệ thông tin còn hạn chế. Đội ngũ về nhân sự hành nghề có chuyên môn có giấy phép hành nghề, đặc biệt về chất lượng vè nhân sự lãnh đạo công ty còn thiếu và yếu chủ yếu về nghiệp vụ chuyên môn kinh doanh chứng khoán cũng như tư vấn pháp luật về chuyển đổi doanh nghiệp. Trên thực tế hiện nay số lượng công ty chứng khoán ở nước ta vượt quá quy mô thị trường, nếu so sánh với các nước trong khu vực (Trung Quốc 107 công ty, Malaysia 37 công ty, Thái Lan 41 công ty, Singgapor 27 công ty và Hàn Quốc trên 50 công ty). - Tuy số lượng tài khoản đầu tư tăng nhanh, nhưng chủ yếu là tài khoản các nhân, mua bán cổ phiếu ngắn hạn và bị tác động chi phối bởi các nhà đầu tư lớn trên thị trường. Những nhà đầu tư này lại thiếu kỹ năng phân tích đầu tư, phân tích thị trường, do vậy ảnh hưởng tới sự ổn định của thị trường. Những nhà đầu tư chuyên nghiệp chiếm tỷ trọng còn khiêm tốn, một số nhà đầu tư lớn nước ngoài mở tài khoản nhưng chưa tham gia đầu tư. Các quỹ đầu tư nước ngoài tham gia thị trường trong nước thông qua các tài khoản ủy thác cá nhân và đầu tư trung lập vào cổ phiếu các doanh nghiệp cổ phần hóa, chưa tham gia đầu tư trên Sàn giao dịch chứng khoán Tp.Hồ Chí Minh và trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội. - Tuy Luật Chứng khoán được ra đời thay thế Nghị định 144/2003/NĐ-CP, ngày 28/11/2003 của Chính phủ về Chứng khoán và Thị trường chứng khoán, song hệ thống pháp luật về thị trường chứng khoán còn bất cập và chưa được hoàn thiện. So với yêu cầu đòi hỏi của thực tế của sự phát triển thị trường tài chính và các định chế tài chính trong nề kinh tế thị trường với năng lực quản lý và sự phối hợp của các cơ quan quản lý Nhà nước còn hạn chế. Cơ quan quản lý Nhà nước, SGDK và TTGDCK, các công ty chứng khoán, công ty niêm yết trong công tác quản lý, điều hành hoạt động của thị trường chứng khoán còn thiếu kinh nghiệm thực tiễn và nhiều bất cập. Thị trường bảo hiểm Trước đây, thị trường bảo hiểm duy nhất chỉ có 1 doanh nghiệp. Kể từ năm 1933, khi Chính phủ ban hành Nghị định số 100/CP, đặc biệt là khi Luật kinh doanh bảo hiểm ra đời, hoạt động kinh doanh bảo hiểm đã đạt được những kết quả quan trọng sau: - Quy mô và phạm vi hoạt động của thị trường bảo hiểm đã phát triển mạnh mẽ, với tốc độ cao, bên cạnh việc đảm bảo ổn định, chống lại các nguy cơ rủi ro, thị trường bảo hiểm còn đóng vai trò quan trọng trong việc huy động các nguồn lực tài chính đầu tư dài hạn của nên kinh tế. Các doanh nghiệp bảo hiểm đã tạo lập nguồn vốn lớn và dài hạn cho đầu tư phát triển kinh tế xã hội. Bảo hiểm đã góp phần tích cực đến ổn định và phát triển kinh tế xã hội và đời sống nhân dân. - Các loại sản phẩm bảo hiểm được phát triển đa dạng, phong phú với gần 70 sản phẩm bảo hiểm nhận thọ và phi nhân thọ thuộc cả lĩnh vực bảo hiểm con người, bảo hiểm tài sản và bảo hiểm trách nhiệm. Cơ cấu bảo hiểm đã chuyển dần từ ngắn hạn sang dài hạn. - Xét trên phương diện pháp lý, thị trường bảo hiểm Việt Nam được vận hành trong khuôn khổ pháp lý tương đối đồng bộ, chặt chẽ và áp dụng nguyên tắc phù hợp với thông lệ và chuẩn mực quốc tế. Bên cạnh những kết quả đạt được, thị trường bảo hiểm còn một số tồn tại: - Quy mô thị trường còn nhỏ, chưa tương xứng với tiềm năng và thấp hơn so với các nước trong khu vực. - Thị trường bảo hiểm phát triển chưa cân đối, các loại hình sản phẩm chưa đa dạng; năng lực cạnh tranh còn nhiều hạn chế và biểu hiện cạnh tranh không lành mạnh vẫn còn tồn tại; hoạt động môi giới bảo hiểm còn chậm phát triển; một số cơ chế chính sách hiện nay chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển của thị trường bảo hiểm; công tác quản lý giám sát còn nhiều bất cập,... Nhìn lại thực trạng của thị trường tài chính Việt Nam, đặc biệt lá từ sau những năm đổi mới kinh tế và sau hơn 2 năm gia nhập WTO của Việt Nam, đã có những thành công. Bên cạnh những kết quả dật được, cũng còn nhiều hạn chế và tồn tại, đó là: - Hạn chế trong việc huy động nguồn lực tài chính cho đầu tư phát triển, thể hiện: thị trường tài chính có quy mô nhỏ, các thể chế trên thị trường chưa hoàn chỉnh, nhiều định chế tài chính trung gian cần tiếp tục hoàn thiện; sản phẩm hoàng hóa của thị trường chưa nhiều, phạm vi cung cấp dịch vụ chủ yếu mới tập trung tại khu vực thành thị; sự phối hợp giữa các kênh huy động vốn còn chưa đồng bộ; khung pháp lý mới được xây dựng và hình thành, các nguyên tắc quản lý và chuẩn mực quốc tế về tính minh bạch, công khai tuy đã được áo dụng, song còn nhiều vấn đề cần được hoàn thiện; năng lực cung ứng dịch vụ tài chính còn hạn chế - Vấn đề quản lý, điều hành của Nhà nước còn những mặt hạn chế, chưa có sự phân định rõ chức năng quản lý Nhà nước đối với thị trường tài chính và dịch vụ tài chính; còn có tình trạng cơ quan quản lý Nhà nước can thiệp vào các hoạt động của chủ thể, trong khi đó lại buông lỏng giám sát thị trường, sự phối hợp quản lý và điều hành giữa các kênh huy động, giữa các loại thị trường (thị trường tiền tệ, thị trường vốn, thị trường bất động sản...) còn thiếu đồng bộ; năng lực cán bộ quản lý Nhà nước chưa được nâng cao phù hợp với đòi hỏi của sự phát triển của nền kinh tế trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế; công tác quản lý giám sát để giảm thiểu rủi ro còn nhiều bất cập. Những giải pháp cơ bản về cơ chế giám sát thị trường tài chính Việt Nam nhằm phòng ngừa, hạn chế rủi ro trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế Để phát triển thị trường tài chính Việt Nam hoạt động an toàn và hiệu quả, đảm bảo an ninh tài chính quốc gia; có cơ chế kiểm tra giám sát các luồng vốn; mở cửa khu vực tài chính theo các cam kết quốc tế, cần có những giải pháp cơ bản cơ chế và giám sát thị trường tài chính nhằm phòng ngừa hạn chế và rủi ro: Một là, hoàn thiện và bổ sung các quy định về luật pháp, tạo môi trường pháp lý động bộ thông thoáng về hoạt động tài chính tiền tệ cho hoạt động của thị trường tài chính Với quan điểm Nhà nước không can thiệp trực tiếp vào thị trường, nhưng sẽ giám sát chặt chẽ thị trường tài chính thông qua khuôn khổ luật pháp và tạo môi trường pháp lý đồng bộ thông thoáng về hoạt động tài chính, tiền tệ. Đồng thời cải thiện tính minh bạch và phát triển tính đa dạng của thị trường. - Cần rà soát lại nội dung của Luật các tổ chức tín dụng; phân định rõ ranh giới, phạm vi hoạt động của thị trường vốn, thị trường tiền tệ; đồng thời xây dựng cơ chế phối hợp giữa các thị trường, đảm bảo huy động tối đa nguồn lực tài chính và giảm thiểu rủi ro của thị trường. Tách bạch hoạt động tín dụng chính sách với tín dụng thương mại, ngân hàng chính sách xã hội để chuyên thực hiện tín dụng chính sách theo quy định ưu tiên của Chính phủ. Đối với hoạt động của ngân hàng cần nâng cao tính độc lập của NHNN trong việc hoạch định và thực thi chính sách tiền tệ. Cũng như các định chế tài chính, thị trường tiền tệ là định chế quan trọng trong cơ chế chuyền dẫn của chính sách tiền tệ. Một thị trường tiền tệ kém phát triển khó có thể chuyền dẫn chính xác các quyết định của NHTW và ngược lại NHTW khó có thể nhận được các tín hiệu của thị trường để đưa ra các quyết định chính xác nhằm đạt được mục tiêu. Tạo điều kiện thực hiện các công cụ mới của chính sách tiền tệ, đặc biệt là các công cụ gián tiếp như nghiệp vụ thị trường mở, hoàn thiện thị trường liên ngân hàng nội tệ và ngoại tệ. Các tổ chức tín dụng hoàn toàn tự xác định lãi suất trên cơ sở lãi suất cơ bản. khi lãi suất được tự do hoàn toàn thì đó là tín hiệu phản ánh đúng đắn quan hệ cung cầu. Xây dựng một số NHTW khu vực mới chức năng thực hiện cơ bản toàn bộ nghiệp vụ NHTW, đồng thời đảm bảo cung ứng đầy đủ các dịch vụ tài chính cần có trên địa bàn. NHNN cần tăng cường phối hợp với các NHTW và các tổ chức tài chính quốc tế để ngăn ngừa rủi ro, qua đó hạn chế biến động của các thị trường tài chính trong nước và đảm bảo an toàn cho hệ thống NH Việt Nam, hệ thống NHTM và thị trường tiền tệ hoạt động an toàn và hiệu quả tọa điều kiện thuận lợi cho việc nâng cao hiệu lực và hiệu quả của chính sách tiền tệ. Đa dạng hóa dịch vụ ngân hàng có chất lượng cao cho thị trường tài chính. Đối với các dịch vụ ngân hàng truyền thống, hiện cần có cải tiến cải tiến quy trình nghiệp vụ huy động vốn; tăng cường trang thiết bị chương trình phần mềm để mở rộng phạm vi hệ thống thanh toán; mở rộng mạng lưới giao dịch; cần cải tiến nghiệp vụ sử dụng vốn; mở rộng các dịch vụ hiện có, đồng thời triển khai các dịch vụ mới như: dịch vụ về huy động vốn, phát triển dịch vụ chiết khấu thương phiếu, cho vay thấu chi,... Tăng cường năng lực tài chính cho các NHTM. Đối với NHTM Nhà nước cần giải quyết căn bản vấn đề vốn bằng 2 giải pháp cơ bản sau: Một là, cổ phần hóa các NHTM Nhà nước, Nhà nước chỉ nắm giữ cổ phần chi phối. Hai là, hình thành và phát triển tập đoàn tài chính ngân hàng trên cơ sở sắp xếp và cơ cấu lại hoạt động của các NHTM Nhà nước hiện hành. Đối với NHTM cổ phần cần có cơ chế khuyến khích tăng vốn điều lệ. Mặc dù trong thực tế vừa qua, các NHTM cổ phần đã chủ động trong việc tăng vốn điều lệ với tốc độ khá cao. - Luật chứng khoán đã được Quốc hội khóa XI, kỳ họp thứ 9 thông qua. Luật chứng khoán ra đời đã tạo kênh huy động vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế. Chính phủ cần có lộ trình cho việc phát hành chứng khoán lần đầu (IPO) thuật hợp lý đối với các doanh nghiệp cổ phần hóa và các doanh nghiệp phát hành thêm cổ phiếu. Về địa vị của UBCKNN, hiện nay vẫn còn là cơ quan trong Bộ Tài chính có chức năng và thẩm quyền, đảm bảo tính độc lập cần thiết và thực hiện trong việc xử lý các vấn đề nghiệp vụ chứng khoán. Về lâu dài, theo chúng tôi khi thị trường chứng khoán đã phát triển ổn định sẽ sắp xếp lại cho phù hợp với yêu cầu của kinh tế thị trường. Qua 8 năm hoạt động của thị trường chứng khoán và 2 năm thực hiện Luật chứng khoán cũng cần xem xét loại bỏ các thủ tục hành chính, các loại giấy phép không cần thiết, nhưng cũng đảm bảo yêu cầu của quản lý Nhà nước để thị trường này phát triển an toàn, ổn định. Hoạt động kinh doanh chứng khoán là lĩnh vực kinh doanh có điều kiện, còn mới đối với Việt Nam, có nhiều rủi ro. Vì vậy trong quá trình thực hiện Luật chứng khoán phải luôn xem xét và đánh giá tính khả thi và những nội dung của Luật đã đi vào cuộc sống và còn những điều gì bất cập cần phải hoàn thiện và sửa đổi cho phù hợp với điều kiện cũng như đặc thù thể chế của Việt Nam, nhưng cũng đồng thời phải phù hợp với cam kết và thông lệ quốc tế. - Để thực hiện mục tiêu phát triển thị trường bảo hiểm toàn diện nhằm đáp ứng nhu cầu bảo hiểm của nên kinh tế; nâng cao năng lực tài chính kinh doanh của các doanh nghiệp bảo hiểm; nâng cao năng lực cạnh tranh và hội nhập quốc tế các giải pháp về cơ chế và giám sát thị trường bảo hiểm: + Về cơ chế chính sách: tiếp tục hoàn thiện và bổ sung các quy định của Luật kinh doanh bảo hiểm và các văn bản có liên quan phù hợp với thực tiễn Việt Nam và thông lệ quốc tế theo hướng đảm bảo sự vận hoành an toàn, lành mạnh, năng cao tính chủ động và tự chịu trách nhiệm của các doanh nghiệp bảo hiểm;khuyến khích mọi đối tượng tham gia bả
Tài liệu liên quan