Phát triển và hội nhập là một trong những xu thếlớn của thời đ ại. Đối v ới Việt Nam,
nhất là trong giai đo ạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, đưa nền kinh tếđi lên theo
định hướng xã hội ch ủnghĩa, h ội nh ập cùng nền kinh tếthịtrường thếgiới là nhiệm vụrất
quan trọng. Đó không chỉlà thời cơ, điều kiện cần thiết đểsản phẩm hàng hoá của Việt
Nam được có mặt nhiều hơn trên thịtrường quốc tếmà còn là thửthách lớn vềnhiều mặt
đối v ới các doanh nghiệp và doanh nhân Việt Nam.
Tại Đại hội VI ban chấp hành trung ương Đảng đã quy ết đ ịnh một bước ngoặt vĩ đại
đối với đ ất nước đặc biệt là việc quy ết đ ịnh đưa nền kinh tếchuyển sang nền kinh tếthị
trường có sựquản lý của nhà nước theo định hướng XHCN. Đểkhẳng định vai trò quan
trọng của các doanh nghiệp trong phát triển kinh tế, Nhà nước ta đã và đang khuyến khích
thành lập các doanh nghiệp theo hiến pháp và pháp luật Việt Nam quy định. Nhưng khi
chuy ển sang nền kinh tếthịtrường các doanh nghiệp Việt Nam đã gặp rất nhiều khó khăn
tron g việc sản xuất, lưu thông, tìm kiếm đối tác và thịtrường, đòi hỏi nhà nước phải có sự
hỗtrợ, tạo điều kiện cho doanh nghiệp phát triển. Sản xuất đóng vai trò quan trọng trong
hoạt động của doanh nghiệp, trong đó ba vấn đề: sản xuất cái gì? sản xuất như thếnào? sả n
xuất cho ai? đặt ra các doanh nghiệp trong suốt quá trình hoạt động sản xuất, vốn, hàng hoá
hoạt động hiệu quảhay không là do quá trình sản xuất, lưu thông có tuần hoàn không. Vai
trò sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp rất quan trọng, nó tạo ra một cơ sởvật chất
cho chủnghĩa xã hội cho nên đòi hỏi nhà nước phải có sựquản lý hợp lý tạo điều kiện tốt
nhất đ ểdoanh nghiệp cạnh tranh được trên thịtrường quốc tế. Khó khăn rất nhiều và đòi
hỏi ph ải có một cơ sởlý luận đểdẫn đường có tác động tích cực thúc đẩy sản xuất phát
triển, mởrộng. Đó cũng là lý do em chọn đềtài: “Trình bày lý thuyết vềtuần hoàn và chu
chuyển tư bản. ý nghĩa thực tiễn rút ra khi nghiên cứu lý thuyết này đối với việc quản lý
các doanh nghiệp của nước ta khi chuyểnsang nền kinh tếthịtrường định hướng
XHCN” cho đềán Kinh tếchính trị.
Bài viết được chia làm ba phần chính:
A. Phần mởđầu
B. Phần nội dung
C. Phần kết bài.
2
2
Với kiến thức bản thân còn hạn chế, em tựthấy mình còn nhiều thiếu xót em rất
mong được sựđóng góp ý kiến của thầy giáo cho bài viết của em được hoàn chỉnh hơn.
32 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1314 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Bài viết Trình bày lý thuyết về tuần hoàn và chu chuyển tư bản. ý nghĩa thực tiễn rút ra khi nghiên cứu lý thuyết này đối với việc quản lý các doanh nghiệp của nước ta khi chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
1
A. PHẦN MỞ ĐẦU
Phát triển và hội nhập là một trong những xu thế lớn của thời đại. Đối với Việt Nam,
nhất là trong giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, đưa nền kinh tế đi lên theo
định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập cùng nền kinh tế thị trường thế giới là nhiệm vụ rất
quan trọng. Đó không chỉ là thời cơ, điều kiện cần thiết để sản phẩm hàng hoá của Việt
Nam được có mặt nhiều hơn trên thị trường quốc tế mà còn là thử thách lớn về nhiều mặt
đối với các doanh nghiệp và doanh nhân Việt Nam.
Tại Đại hội VI ban chấp hành trung ương Đảng đã quyết định một bước ngoặt vĩ đại
đối với đất nước đặc biệt là việc quyết định đưa nền kinh tế chuyển sang nền kinh tế thị
trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN. Để khẳng định vai trò quan
trọng của các doanh nghiệp trong phát triển kinh tế, Nhà nước ta đã và đang khuyến khích
thành lập các doanh nghiệp theo hiến pháp và pháp luật Việt Nam quy định. Nhưng khi
chuyển sang nền kinh tế thị trường các doanh nghiệp Việt Nam đã gặp rất nhiều khó khăn
trong việc sản xuất, lưu thông, tìm kiếm đối tác và thị trường, đòi hỏi nhà nước phải có sự
hỗ trợ, tạo điều kiện cho doanh nghiệp phát triển. Sản xuất đóng vai trò quan trọng trong
hoạt động của doanh nghiệp, trong đó ba vấn đề: sản xuất cái gì? sản xuất như thế nào? sản
xuất cho ai? đặt ra các doanh nghiệp trong suốt quá trình hoạt động sản xuất, vốn, hàng hoá
hoạt động hiệu quả hay không là do quá trình sản xuất, lưu thông có tuần hoàn không. Vai
trò sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp rất quan trọng, nó tạo ra một cơ sở vật chất
cho chủ nghĩa xã hội cho nên đòi hỏi nhà nước phải có sự quản lý hợp lý tạo điều kiện tốt
nhất để doanh nghiệp cạnh tranh được trên thị trường quốc tế. Khó khăn rất nhiều và đòi
hỏi phải có một cơ sở lý luận để dẫn đường có tác động tích cực thúc đẩy sản xuất phát
triển, mở rộng. Đó cũng là lý do em chọn đề tài: “Trình bày lý thuyết về tuần hoàn và chu
chuyển tư bản. ý nghĩa thực tiễn rút ra khi nghiên cứu lý thuyết này đối với việc quản lý
các doanh nghiệp của nước ta khi chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN” cho đề án Kinh tế chính trị.
Bài viết được chia làm ba phần chính:
A. Phần mở đầu
B. Phần nội dung
C. Phần kết bài.
2
2
Với kiến thức bản thân còn hạn chế, em tự thấy mình còn nhiều thiếu xót em rất
mong được sự đóng góp ý kiến của thầy giáo cho bài viết của em được hoàn chỉnh hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
3
3
B. PHẦN NỘI DUNG
PHẦN I: LÝ THUYẾT CHUNG VỀ TUẦN HOÀN VÀ CHU CHUYỂN TƯ
BẢN
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VẤN ĐỀ TUẦN HOÀN VÀ CHU CHUYỂN CỦA TƯ
BẢN.
1. Quan điểm của Mác - Lênin về tuần hoàn của tư bản.
Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, tư bản luôn luôn vận động và trong quá trình
vận động, nó lớn lên không ngừng. Để đạt được hiệu quả sản xuất kinh doanh nhà tư bản
không được để tư bản nhàn rỗi, mà phải sử dụng triệt để dưới nhiều hình thức, chức năng
khác nhau. Tư bản phải được tuần hoàn và chu chuyển liên tục, hợp lý để kết quả sản xuất
kinh doanh thu được lượng tư bản lớn hơn lượng đầu tư ban đầu. Theo Mác - Lênin thì:
“Tuần hoàn của tư bản là sự biến chuyển liên tiếp của tư bản qua ba giai đoạn, trải qua ba
hình thức, thực hiện ba chức năng tương ứng, để trở về hình thái ban đầu với lượng giá trị
lớn hơn”(1).
2. Ba hình thức tuần hoàn của tư bản.
2.1. Tuần hoàn của tư bản tiền tệ.
Công thức chung của tuần hoàn của tư bản tiền tệ:
T - H...SX... H’ - T’
Giai đoạn đầu T - H tức là nhà tư bản dùng tư bản tiền tệ ứng ra ban đầu để mua
hàng hoá ở trên hai thị trường đó là thị trường sức lao động và thị trường tư liệu sản xuất
(đó là những nhân tố của sản xuất).
Slđ (sức lao động)
T - H
TLSX(tư liệu sản xuất)
Như vậy tiền của nhà tư bản phải chia làm hai phần theo tỷ lệ thích hợp: Một phần
mua sức lao động, một phần mua tư liệu sản xuất. Sau khi mua được hàng hoá (Slđ -
TLSX) thì tư bản đã trút bỏ hình thái tiền tệ mà mang hình thức hiện vật. Với hình thức
hiện vật đó nó không thể tiếp tục lưu thông được. Nhà tư bản phải đưa hàng hoá vào trong
quá trình sản xuất, để tạo ra hàng hoá cung cấp cho thị trường thì toàn bộ công nhân phải
(1) Kinh tế chính trị: NXB giáo dục - 1998, trang 102
4
4
tham gia vào quá trình sản xuất để tạo ra sản phẩm. Kết quả là nhà tư bản có được một số
hàng hoá mới mà giá trị của chúng lớn hơn giá trị của những nhân tố đã dùng để sản xuất
ra số hàng hoá đó. Hàng hoá này (H’) có thể cạnh tranh được ở trên thị trường, đáp ứng
được nhu cầu của người tiêu dùng tức là có giá trị sử dụng cao. Nhà sản xuất mang hàng
hoá (H’) đó ra thị trường để bán nhằm thu về được vốn và lợi nhuận tức là T’ - T’ là hình
thái chuyển hoá của H’, sự chuyển hoá này được thực hiện là do một hành vi đơn giản của
lưu thông hàng hoá, do sự đổi chỗ giữa hình thức hàng hoá và tiền, hình thái lặp lại ở điểm
kết thúc là hình thái bị gây nên, nhưng xét về mặt lượng phải lớn hơn hình thái ban đầu.
Sau một chu kỳ sản xuất nhà tư bản thu về cả vốn lẫn lãi từ T’ một phần trả lương cho
công nhân, một phần dự trữ để tiếp tục đầu tư sản xuất. Quá trình đó cứ lặp đi lặp lại, tuần
hoàn một cách liên tục và hiệu quả sản xuất kinh doanh chính là lợi nhuận thu về ngày
càng tăng nó được quy định bởi một loạt những sự biến hoá hình thái của bản thân tuần
hoàn.
2.2. Tuần hoàn của tư bản sản xuất.
Công thức chung của tuần hoàn của tư bản sản xuất là:
SX... H’ - T’ - H... SX
Tuần hoàn này nói lên sự hoạt động lắp đi lắp lại một cách chu kỳ của tư bản sản
xuất, hay quá trình sản xuất của tư bản, coi là quá trình sản xuất gắn liền với việc tăng
thêm giá trị, nó không những nói lên việc sản xuất mà còn nói lên việc tái sản xuất một
cách chu kỳ giá trị thặng dư nữa, nó nói lên hoạt động của tư bản công nghiệp đang nằm
dưới hình thái sản xuất của nó, hoạt động không phải chỉ có một lần, mà là lắp đi lắp lại
một cách chu kỳ, thành thử sự lắp đi lắp lại đã do chính điểm xuất phát quy định rồi có thể
là một bộ phận của H’ lại trực tiếp gia nhập làm tư liệu sản xuất trong quá trình lao động
đã sản xuất ra nó làm hàng hoá; do đó việc chuyển hoá giá trị của bộ phận jđó thành tiền
hiện thực, hay thành ký hiệu tiền tệ trở thành thừa. Bộ phận giá trị ấy không đi vào lưu
thông. Vậy là có những giá trị gia nhập quá trình sản xuất mà không gia nhập quá trình lưu
thông.
Trong hình thái T - T’ quá trình sản xuất, tức là chức năng sản xuất, sản xuất làm
gián đoạn lưu thông của tư bản tiền tệ và chỉ xuất hiện thành kẻ môi giới giữa hai giai đoạn
của lưu thông là T - H và H’ - T’ và là khâu trung gian giữa tư bản sản xuất mở đầu cuộc
tuần hoàn với tư cách là cực thứ nhất, và tư bản sản xuất kết thúc tuần hoàn đó với tư cách
là cực cuối dưới một hình thái mà tuần hoàn đó mở đầu trở lại sự vận động. Mặt khác toàn
5
5
bộ lưu thông biểu hiện ra dưới hình thái ngược lại với hình thái mà nó mang tròn tuần hoàn
của tư bản tiền tệ.Nến không nói đến đại lượng giá trị thì hình thái của nó trong tuần hoàn
của tư bản tiền tệ là: T - H - T (T - H . H - T); nếu nói đến đại dượng giá trị thì hình thái
của nó là: H - T - H tức là hình thái lưu thông giản đơn của hàng hoá.
Tái sản xuất giản đơn.
Điểm xuất phát của lưu thông giữa hai cực Sx....Sx là tư bản - hàng hoá: H’ = H + h
= Sx + h. Trước kia chức năng của tư bản hàng hoá H’ - T’ là giai đoạn thứ hai của lưu
thông bị gián đoạn và là giai đoạn kết thúc của tổng tuần hoàn. Bây giờ nó là giai đoạn thứ
hai của tuần hoàn nhưng lại là giai đoạn thứ nhất của lưu thông. Tuần hoàn thứ nhất kết
thúc bằng T’ và cũng có thể trở lại mở đầu tuần hoàn thứ hai với tư cách là tư bản - tiền tệ.
Tính chất của tuần hoàn thay đổi các cách giải quyết để biết được công thức mà ta đang xét
đại biểu cho tái sản xuất giản đơn hay mở rộng. Nếu xét tái giản đơn của tư bản sản xuất,
nếu mọi tình hình khác không thay đổi và hàng hoá được mua vào và bán ra theo đúng giá
trị của chúng thì toàn bộ giá trị thặng dư sẽ đi vào tiêu dùng cá nhân của nhà tư bản. Sau
khi tư bản - hàng hoá H’ đã chuyển hoá thành tiền, thì bộ phận của tổng số tiền đại biểu
cho giá trị - tư bản vẫn tiếp lưu thông trong tuần hoàn của tư bản công nghiệp; còn bộ phận
kia, tức giá trị thặng dư đã chuyển hoá thành tiền, thì đi vào lưu thông chung của hàng hoá.
Trong hành vi H’- T’ giá trị tư bản và giá trị thặng dư nằm trong H, cả hai đều có thể
tồn tại tách riêng ra được, tức là tồn tại thành những số tiền riêng biệt; trong cả hai trường
hợp T và t đều là hình thái chuyển hoá của cái giá trị mà lúc đầu, ở H’ với tư cách là giá cả
hàng hoá, có một biểu hiện riêng của nó, một biểu hiện trên ý niệm mà thôi. Lưu thông h -
t - h là một lưu thông giản đơn của hàng hoá; giai đoạn thứ nhất của lưu thông này tức là h
- t thì nằm trong lưu thông của tư bản - hàng hoá H’ - T’, do đó nằm trong trong tuần hoàn
của tư bản; ngược lại đoạn bổ sung của nó t - h thì lại nằm ngoài tuần hoàn ấy, được thực
hiện với tư cách là một hành vi lưu thông chung của hàng hoá tách rời khỏi tuần hoàn âý.
Lưu thông H và h tức là của giá tri tư bản và của giá trị thặng dư, sẽ tách đôi ra sau khi H’
chuyển hoá thành T’. Do đó:
Một là: sau khi tư bản - hàng hoá được thực hiện bằng hành vi H’ - T’ = H’ (T +t) thì
vận động của giá trị - tư bản và vận động giá trị thặng dư trước đó vẫn là một trong H’ - T’
và đều nằm trong cùng một lượng hàng hoá, sẽ có thể tách rời nhau ra, vì từ nay trở đi cả
hai giá trị đó, với tư cách là hai món tiền, đều có hình thái độc lập.
6
6
Hai là: Nếu sự tách rời ấy diễn ra, hơn nữa nếu t bị tiêu đi với tư cách là thu nhập
của nhà tư bản, còn T với tư cách là hình thái chức năng của giá trị tư bản, vẫn tiếp tục đi
theo con đường của nó do tuần hoàn quy định, thì hành vi thứ nhất H’ - T’ xét trong mối
liên hệ của nó với các hành vi kế tiếp là T - H và t - h, có thể biểu hiện thành hai lưu thông
riêng biệt: H - T - H và h - t - h, và cả hai xét về mặt hình thái chung đều phụ thuộc về lưu
thông thông thường của hàng hoá.
Ba là: Nếu vận động của giá trị tư bản và vận động của giá trị thặng dư, lúc đầu còn
là một trong H và T, chỉ tách rời nhau có một phần thôi (thành thử có một phần giá trị
thặng dư bị tiêu đi không phải với tư cách là thu nhập), hoặc hoàn toàn không bị tách rời
nhau thì trong bản thân giá trị - tư bản có một sự thay đổi diễn ra trong nội bộ tuần hoàn
của nó, trước khi tuần hoàn đó hoàn thành.
H’ - T’, giai đoạn thứ hai của lưu thông và giai đoạn cuối cùng của tuần hoàn I
( T...T’), lại là giai đoạn thứ hai của tuần hoàn của chúng ta, và là giai đoạn thứ nhất của
lưu thông hàng hoá. Do đó về mặt lưu thông mà nói thì H - T’ cần được bổ sung bằng T’ -
H’. Nhưng H’ - T’ không những đã xảy ra sau quá trình làm tăng thêm giá trị mà còn là kết
quả của nó, nhờ hành vi ấy sản phẩm - hàng hoá H’ đã được thực hiện rồi. Như vậy là quá
trình làm cho tư bản tăng thêm giá trị, cũng như việc thực hiện sản phẩm - hàng hoá đại
biểu chio giá trị tư bản đã tăng thêm giá trị đều kết thúc bằng H’ - T’.
Trong lưu thông của thu nhập của nhà tư bản, hàng hoá đã được sản xuất ra, tức là h
trên thực tế chỉ được dùng để được chuyển hoá thu nhập ấy trước hết thành tiền, rồi lại từ
tiền thành một hàng hoá khác phục vụ cho tiêu dùng cá nhân. Nhưng ở đây chúng ta không
nên bỏ qua một việc nhỏ này: h là một giá trị hàng hoá không tốt gì cho nhà tư bản cả, nó
là hiện thân của lao động thặng dư, chính vì thế mà nó xuất hiện lúc ban đầu với tư cách là
một thành phần của tư bản - hàng hoá H’. Bởi vậy chỉ có một sự tồn tại của thân nó, h này
cũng đã gắn liền với tuần hoàn của giá trị - tư bản đang tiến hành quá trình của mình; nếu
tuần hoàn ấy bì đình chỉ hoặc xảy ra một sự rối loạn nào đó nói chung, thì không phải chỉ
việc tiêu dùng h, mà đồng thời cả việc tiêu thụ cái loạt hàng hoá đem trao đổi với h, cũng
đều bị thu hẹp lại hoặc đình chỉ hẳn, h - t - h chỉ gia nhập lưu thông của tư bản chừng nào
mà h còn là một phần giá trị của H’.
Mối quan hệ giữa tuần hoàn của tư bản với tư cách là một bộ phận của lưu thông
chung, và tuần hoàn của tư bản với tư cách là một trong những khâu của một lưu thông
độc lập, cũng biểu lộ ra khi chúng ta tiếp tục xem xét lưu thông của T’ = T + t. Là tư bản
7
7
tiền tệ, T tiếp tục tuần hoàn của tư bản; t bị tiêu dùng đi với tư cách là thu nhập (t - h) thì đi
vào lưu thông chung, nhưng lại tách khỏi tuần hoàn của tư bản. Chỉ có bộ phận t hoạt động
làm tư bản - tiền tệ phụ thêm mới gia nhập tuần hoàn này mà thôi. Trong h - t - h tiền chỉ
làm chức năng tiền đúc, mục đích của lưu thông này là sự tiêu dùng cá nhân của nhà tư bản.
Khoa kinh tế chính trị tầm thường cho rằng lưu thông ấy không gia nhập tuần hoàn của tư
bản - tức là lưu thông của bộ phận sản phẩm - giá trị bị tiêu dùng đi với tư cách là thu
nhập - là tuần hoàn đặc trưng của tư bản.
Trong giai đoạn thứ hai, T - H thì giá trị tư bản T = SX lại tái hiện nhưng đã bị tước
mất giá trị thặng dư chỉ, tức là có cùng một lượng giá trị như khi nó ở trong giai đoạn thứ
nhất của tuần hoàn của tư bản - tiền tệ T - H. Mặc dù tư bản tiền tệ ở vào một vị trí khác
trước, nhưng chức năng của số tư bản - tiền tệ mà giờ đây tư bản hàng hoá đã chuyển hoá
thành thì cũng vẫn như cũ: chuyển hoá thành TLSX và SLĐ.
Như vậy chức năng của tư bản - hàng hoá H’ - T’, giá trị tư bản, cùng một lúc với h -
t, đã tiến hành xong giai đoạn H - T và sau đó nó đi vào giai đoạn bổ sung:
Slđ
Tlsx;
Slđ
Tlsx;
Thứ nhất, trong hình thái tuần hoàn T...T’ tư bản tiền tệ T là hình thái ban đầu nó
xuất hiện thành một bộ phận trong giai đoạn lưu thông thứ nhất, do đó ngay từ đầu, nó xuất
hiện thành sự chuyển hoá của tư bản sản xuất sản xuất thành tiền thực hiện được nhờ việc
bán sản phẩm hàng hoá. T’ biểu hiện thành hình thái chuyển hoá của H’, bản thân H’ này
là sản phẩm hoạt động trước đây của Sx, vì thế toán bộ số tiền T’ thể hiện thành biểu hiện
tiền tệ của một lao động đã qua. Slđ
Thứ hai, trong lưu thông H - T - H cũng những đồng tiền ấy thay đổi vị trí
hai lần:
Thoạt tiên nhà tư bản thu chúng với tư cách là người bán, rồi lại bỏ chúng ra với tư
cách là người mua, việc chuyển hoá hàng hoá thành hình thái tiền chỉ là dùng để chuyển
hoá hàng hoá đó từ hình thái tiền trở lại hình thái hàng hoá.
T - H
H- T - H
Tlsx
Do đó tổng lưu thông của nó là
8
8
Thứ ba, vô luận là tư bản tiền tệ được dùng đơn thuần làm phương tiện lưu thông,
hay làm phương tiện thanh toán thì hoạt động của nó cũng chỉ là thay thế H bằng Slđ và
Tlsx.
Muốn cho tuần hoàn được tiến hành bình thường, thì H’ phải bán đúng theo giá trị
của nó và bán toàn bộ. Hơn nữa, H - T - H không những bao hàm việc thay thế một hàng
hoá này bằng một hàng hoá khác, mà còn bao hàm việc thay thế hàng hoá ấy theo những tỷ
lệ giá trị giống nhau. Chúng ta đã giả định rằng ở đây tình hình diễn ra đúng như vậy.
Nhưng trên thực tế, giá trị của tư liệu sản xuất thường thay đổi; điểm cố hữu của nền sản
xuất tư bản chủ nghĩa là ở chỗ có sự biến đổi không ngừng của các tỷ lệ giá trị, do những
thay đổi không ngừng trong năng xuất lao động gây nên, những thay đổi này là nét đặc
trưng của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa. Sự chuyển hoá của các yếu tố sản xuất thành sản
phẩm hàng hoá, tức là việc chuyển hoá từ Sx thành H’, được tiến hành trong lĩnh vực sản
xuất, việc chuyển hoá ngược lại từ H’ thành Sx được tiến hành trong lưu thông. Việc
chuyển hoá trở lại này được chuyển hoá nhờ sự biến hoá hình thái giản đơn của hàng hoá.
Nhưng xét về mặt nội dung của nó thì việc chuyển hoá trở lại này là một yếu tố của quá
trình tái sản xuất.
Trong T...T’, T là hình thái ban đầu của giá trị tư bản; giá trị tư bản trút bỏ hình thái
này đi để rồi sau đó lại mang lấy nó. Trong Sx...H’ - H...Sx, T là một hình thái chỉ hiện ra
trong quá trình tuần hoàn, rồi sau đó lại trút bỏ đi ngay trong giới hạn của chính quá trình
ấy. Nếu sự biến hoá hình thái thứ hai T - H gặp trở ngại thì tuần hoàn tức là tiến hành của
quá trình tái sản xuất, bị đứt quãng, hoàn toàn giống như trong trường hợp tư bản bị đọng
lại dưới hình thái tư bản - hàng hoá. Khi tư bản không còn làm chức năng tư bản tiền tệ thì
nó vẫn luôn luôn là tiền; nhưng nếu nó bị giữ quá lâu trong chức năng tư bản - hàng hoá,
thì nó sẽ không còn là hàng hoá nữa và nói chung không còn là giá trị sử dụng nữa.
Slđ
Trong hình thái I, hành vi T - H Tlsx chỉ chuẩn bị cho sự chuyển hoá
đầu tiên của tư bản tiền tệ thành tư bản sản xuất, trong hình thái II, hành vi ấy chuẩn bị cho
sự chuyển hoá trở lại của tư bản hàng hoá thành tư bản sản xuất. Bởi vậy, ở đây cũng như
trong hình thái I, hành vi này xuất hiện thành giai đoạn chuẩn bị cho quá trình sản xuất
nhưng nó lại thể hiện như là bước quay trở về quá trình ấy, như là việc lặp lại quá trình ấy,
do đó như là bước mở màn cho quá trình tái sản xuất, và vì vậy mở màn cho việc lặp lại
quá trình làm tăng thêm giá trị.
9
9
Một lần nữa T - Slđ là việc mua bán hàng hoá sức lao động dùng để sản xuấta ra giá
trị thặng dư, còn T - Tlsx là một công việc không thể thiếu được về mặt vật chất để đạt
được mục đích đó. Sau khi T - H Slđ
hoàn thành,thì T được chuyển hoá thành tư bản sản xuất thành Sx và tuần hoàn lại bắt đầu
trở lại.
Do đó, hình thái đầy đủ của Sx... H’ - T’ - H... Sx là:
Việc chuyển hoá tư bản - tiền tệ thành tư bản sản xuất là việc mua hàng hoá nhằm
sản xuất ra hàng hoá. Chỉ khi nào sự tiêu dùng là tiêu dùng sản xuất như thế nào thì nó mới
gia nhập vào tuần hoàn của bản thân tư bản; điều kiện của sự tiêu dùng đó bao hàm ở chỗ
nhờ các hàng hoá được tiêu dùng một cách sản xuất mà giá trị thặng dư được tạo ra. Nhưng
đó là một cái gì rất khác với việc sản xuất, và thậm chí với việc sản xuất hàng hoá mà mục
đích là đảm bảo sự tồn tại của người sản xuất; như vậy, việc thay thế một hàng hoá này
bằng một hàng hoá khác, do việc sản xuất ra giá trị thặng dư quyết định, là một việc hoàn
toàn khác hẳn với bản thân việc trao đổi sản phẩm chỉ do tiền làm môi giới.
Ngoài sự tiêu dùng T một cách sản xuất thì tuần hoàn của tư bản còn bao gồm khâu
thứ nhất T - Slđ, khâu này đối với người công nhân là Slđ = H - T. Về phương diện giá trị -
tư bản tiếp tục tuần hoàn của nó, và về phương diện nhà tư bản tiếp tục tiêu dùng giá trị
thặng dư, thì hành vi H’ - T’ chỉ giả định có một điều. H’ được chuyển hoá thành tiền,
được bán đi. Việc tiêu dùng hàng hoá không nằm trong tuần hoàn của tư bản đã sản sinh ra
hàng hoá ấy. Tuần hoàn của giá trị - tư bản mà nhà sản xuất tư bản chủ nghĩa đó là đại biểu
vẫn không bị gián đoạn. Còn nếu quá trình ấy mở rộng - điều này bao hàm việc mở rộng
tiêu dùng sản xuất các tư liệu sản xuất - thì sự tái sản xuất đó của tư bản có thể kèm theo
việc mở rộng tiêu dùng cá nhân của công nhân, vì quá trình đó sở dĩ bắt đầu được và có thể
tiến hành được, là do tiêu dùng sản xuất. Nếu như những hàng hoá Tlsx và Slđ - mà T
chuyển hoá thành để hoàn thành chức năng tư bản - tiền tệ của nó, tức là chức năng của số
giá trị - tư bản phải chuyển hoá ngược trở lại tư bản sản xuất, nếu như những hàng hoá ấy
cần được mua vào hoặc được trả tiền theo những kỳ hạn khác nhau. Trong tuần hoàn của
tư bản công nghiệp tư bản - tiền tệ không thực hiện một chức năng nào khác ngoài chức
năng tiền, và những chức năng tiền này đồng thời có ý nghĩa là những chức năng của tư
H
+
h
T
+
t
-
-
- H
- h
Slđ
TLSx...Sx
TLSX
SX...
H’
10
10
bản, chỉ là do mối liên hệ chung của chúng với các giai đoạn khác của tuần hoàn ấy mà
thôi.
Tích luỹ và tái sản xuất trên quy mô mở rộng.
Vì các tỷ lệ theo đó quá trình sản xuất cos thể mở rộng ra không phải được định đoạt
một cách tuỳ tiện mà là do một nền kỹ thuật nhất định quy định, cho nên giá trị thặng dư đã
thực hiện, tuy được dành để tư bản hoá, nhưng lắm lúc chỉ nhờ sự lắp đi lắp lại của một số
tuần hoàn, mới có thể đạt tới quy mô có