Bản lĩnh của người việt trong thời kỳ đấu tranh chống phong kiến Bắc Thuộc

Kể từ sau khi cuộc kháng chiến chống Triệu Đà của An Dương Vương thất bại - năm 179 trước công nguyên - đến năm 938 là thời kì đất nước ta bị ách đô hộ, cai trị của các triều đại phong kiến phương Bắc mà lịch sử vẫn gọi đó là thời kì Bắc thuộc. Năm 938 là mốc son chói lọi bằng vàng, chấm dứt hoàn oàn ách đô hộ, áp bức bóc lột của ngoại bang, nhưng những mầm mống đầu tiên cho sự ra đời của một nhà nước độc lập, đã có từ năm 905, khi Khúc Thừa Dụ bắt đầu công cuộc tự chủ. Hiếm thấy trong lịch sử, một quốc gia nào khác trên thế giới, lại bị mất nước và bị đô hộ kéo dài lâu như vậy - 1117 năm, mà cuối cùng lại giành lại được độc lập. Và cũng hiếm có một nước nào có lịch sử chống giặc ngoại xâm nhiều như vậy. Nếu xếp hạng, thì Việt Nam sẽ xếp hàng đầu các quốc gia như thế, hàng đầu những ai chịu cái nhục mất nước, cái nhục làm nô lệ. Phải chăng? Chính tạo hoá đã vô tình khi đặt Việt Nam là một nước nhỏ bé bên cạnh một ông khổng lồ và có một vị trí địa lý quan trọng như thế. Sẵn sàng trước mối đe doạ của giặc ngoại xâm vốn đã mang tính thường trực, Việt Nam luôn luôn bị các nước lớn tìm cách cấu xé, ăn tươi nuốt sống. Hoặc là tồn tại, hoặc là chết, đã đặt ra cho con người Việt Nam bắt buộc không còn con đường nào khác. Quyết không chết mà sẽ tồn tại! Đó chính là bản lĩnh của người Việt. Thời kì Bắc thuộc là thử thách, cũng là điều kiện làm cho bản lĩnh ấy trở thành chất thép!

doc30 trang | Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 4431 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Bản lĩnh của người việt trong thời kỳ đấu tranh chống phong kiến Bắc Thuộc, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN KHOA LỊCH SỬ ------  ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC BỘ MÔN: LỊCH SỬ VIỆT NAM BẢN LĨNH CỦA NGƯỜI VIỆT TRONG THỜI KỲ ĐẤU TRANH CHỐNG PHONG KIẾN BẮC THUỘC PHÁC THẢO ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC “BẢN LĨNH CỦA NGƯỜI VIỆT TRONG THỜI KÌ ĐẤU TRANH CHỐNG PHONG KIẾN BẮC THUỘC” A. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI Nhằm tìm hiểu thêm, khám phá những tri thức mới về lịch sử Việt Nam, đề tài tập trung vào một giai đoạn lịch sử đầy thử thách của dân tộc cách đây hơn một thiên niên kỷ. Đây là một đề tài hấp dẫn, khơi gợi về ý thức tự hào dân tộc về cha ông ta xưa dựng nước và giữ nước. B. PHẠM VI ĐỀ TÀI Là thời kỳ Bắc thuộc được xác định từ năm 179 tr. CN (Triệu Đà đánh chiếm Âu Lạc) đến trận chung kết toàn thắng - chiến thắng Bạch Đằng - 938. Con người Việt thời kì Bắc thuộc với chống đô hộ và chống đồng hoá của phong kiến phương Bắc. C. PHẠM VI ĐỀ TÀI Đã được ngiên cứu, khảo sát nhiều lần nhưng chưa thành một hệ thống. Được trình bày trong các tham luận, các sách giáo trình và cả các bài báo song cũng chưa thật hoàn chỉnh và dầy đủ. D. TÀI LIỆU THAM KHẢO Chủ yếu là từ sách, báo, sách giáo trình và các tư liệu lịch sử. Tiến trình lịch sử Việt Nam - PGS.TS Nguyễn Quang Ngọc. Đại cương lịch sử Việt Nam (Tập I) - Trương Hữu Quýnh, Phan Đại Doãn, Nguyễn Cảnh Minh. Trung Quốc lịch sử giản biên - Phạm Văn Lan. Tập chí Xưa và nay Truyền thống dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam. Các tài liệu khác… E. BỐ CỤC CỦA ĐỀ TÀI NGIÊN CỨU Được chia làm ba phần: I. Lời nói đầu II. Nội dung đề tài Vị trí địa lí và nguy cơ bị xâm lăng của ngoại bang Những tiền đề đầu tiên của người Việt Sự hình thành nhà nước Văn Lang - Âu Lạc Sự hình thành ý thức độc lập dân tộc + Chủ quyền dân tộc + Văn hoá Bản lĩnh của người Việt Con người và các bộ tộc người Việt ở phía Nam Trung Hoa Chính sách bành trướng của phương Bắc với đô hộ và Hán Hoá. Chính sách đồng hoá người Việt của chính quyền phong kiến phương Bắc Quá trình giao thoa văn hoá + Cưỡng bức + Tự nguyện. Sự bảo tồn các di sản văn hoá của dân tộc Đấu tranh vũ trang giành độc lập dân tộc. Ý thức đấu tranh Các cuộc khởi nghĩa. III. Nhận xét chung - kết luận. Bản lĩnh người Việt trong thời kì này. Những giá trị bền vững trường tồn với thời gian, tạo tiền đề cho thắng lợi của dân tộc sau này. Những truyền thống của người Việt từ xưa cho đến nay. LỜI NÓI ĐẦU Kể từ sau khi cuộc kháng chiến chống Triệu Đà của An Dương Vương thất bại - năm 179 trước công nguyên - đến năm 938 là thời kì đất nước ta bị ách đô hộ, cai trị của các triều đại phong kiến phương Bắc mà lịch sử vẫn gọi đó là thời kì Bắc thuộc. Năm 938 là mốc son chói lọi bằng vàng, chấm dứt hoàn oàn ách đô hộ, áp bức bóc lột của ngoại bang, nhưng những mầm mống đầu tiên cho sự ra đời của một nhà nước độc lập, đã có từ năm 905, khi Khúc Thừa Dụ bắt đầu công cuộc tự chủ. Hiếm thấy trong lịch sử, một quốc gia nào khác trên thế giới, lại bị mất nước và bị đô hộ kéo dài lâu như vậy - 1117 năm, mà cuối cùng lại giành lại được độc lập. Và cũng hiếm có một nước nào có lịch sử chống giặc ngoại xâm nhiều như vậy. Nếu xếp hạng, thì Việt Nam sẽ xếp hàng đầu các quốc gia như thế, hàng đầu những ai chịu cái nhục mất nước, cái nhục làm nô lệ. Phải chăng? Chính tạo hoá đã vô tình khi đặt Việt Nam là một nước nhỏ bé bên cạnh một ông khổng lồ và có một vị trí địa lý quan trọng như thế. Sẵn sàng trước mối đe doạ của giặc ngoại xâm vốn đã mang tính thường trực, Việt Nam luôn luôn bị các nước lớn tìm cách cấu xé, ăn tươi nuốt sống. Hoặc là tồn tại, hoặc là chết, đã đặt ra cho con người Việt Nam bắt buộc không còn con đường nào khác. Quyết không chết mà sẽ tồn tại! Đó chính là bản lĩnh của người Việt. Thời kì Bắc thuộc là thử thách, cũng là điều kiện làm cho bản lĩnh ấy trở thành chất thép! CHƯƠNG I CÁI NÔI BẢN LĨNH CỦA NGƯỜI VIỆT I. Vị trí địa lí và nguy cơ xâm lược của ngoại bang Đất nước ta nằm ở phía Đông Nam của châu Á với diện tích không lớn (khoảng 329.000 km2) và dân số không đông lắm. Song lại có vị trí địa lí hết sức quan trọng và chiến lược. Phía Bắc: giáp Trung Quốc. Tây: giáp Lào và Campuchia Đông và Đông Nam: giáp biển Đông. Là cầu nối giữa Đông Nam Á lục địa và Đông Nam Á hải đảo; giữa Ấn Độ Dương với Thái Bình Dương, là con đường giao thông, đi lại, và là luồng di cư của nhiều bộ lạc trên thế giới, giao lưu buôn bán mang tầm cỡ quốc tế. Chính vì ở trên ngã ba đường thông thương quốc tế Bắc, Nam, Đông, Tây ấy mà Việt Nam luôn luôn bị dòm ngó bởi các quốc gia lớn. Hơn nữa, nước ta nằm trong miền nhiệt đới, gió mùa, khí hậu ẩm ướt, có núi cao, rừng rậm, sông ngòi, hồ đầm , đồng bằng và biển cả. Rừng chiếm phần lớn diện tích-3/4 diện tích - đất đai, hệ thực vật và động vật phát triển rất phong phú và đa dạng. Có nhiều loại cây, các giống chim, thú rừng quý hiếm. Bên cạnh đó, còn có nhiều loại khoáng sản như vàng, bạc..., đất đai thì màu mỡ, thuận lợi cho cây trồng sinh trưởng, mặc dù đồng bằng nhỏ hẹp. Tóm lại, ở vị thế địa lí và tự nhiên như thế, Việt Nam khác nào miếng thịt ngon phơi trước mồm hổ đói, tránh đâu khỏi sự xâu xé, bị xâm lược, nhất là phong kiến phương Bắc lúc bấy giờ. II. NHỮNG TIỀN ĐỀ ĐẦU TIÊN CỦA NGƯỜI VIỆT 1. Sự xuất hiện những nền văn hoá cổ và những thành tựu to lớn đã đạt được của người Việt xưa Người Việt cổ sớm quần cư ở các dòng sông lớn như sông Hồng, sông Mã và tập trung dần dần thành các bộ tộc, bộ lạc, cuộc sống chủ yếu dựa vào nông nghiệp còn mang tính chất sơ khai. Trải qua một thời gian dài cùng với sự xuất hiện của thuật luyện kim, đã khiến cho cuộc sống của các bộ lạc Việt cổ ngày càng phát triển. Từ đó đã hình thành nên các nền văn hoá cổ phán ánh sự sáng tạo của người Việt ở mỗi giai đoạn nhất định trong quá trình phát triển của mình:Văn hoá Sơn Vi, Văn hoá Hoà Bình, Bắc Sơn, Quỳnh Văn… đặc biệt đỉnh cao là văn hoá Đông Sơn. Chính các nền văn hoá đó đã mang đậm tính cách, cuộc sống, tâm hồn của người Việt. Đó là quá trình phát triển về vật chất thúc đẩy cho đời sống tinh thần của người Việt nảy nở. Các thành tựu của các nền văn hoá cổ là một minh chứng rõ ràng nhất. Kỹ thuật cải tiến công cụ, nghệ thuật đúc đồng của người Việt đã đến trình độ điêu luyện, có ảnh hưởng sâu rộng đối với sản xuất nông ngiệp và những hoạt động tinh thần, điển hình là trống đồng Đông Sơn, với những nét văn hoá trang trí vô cùng tinh xảo, thể hiện một đời sống tinh thần của riêng người Việt. Đồ gốm với hoa văn trang trí ngày càng uyển chuyển và mềm mại, đa dạng và phong phú. Đồ gốm Phùng nguyên là tiêu biểu nhất, phản ánh không chỉ tính sáng tạo mà còn phản ánh tư tưởng, suy nghĩ riêng của người Việt. 2. Sự ra đời của Nhà nước Văn Lang - Âu Lạc Sự phát triển của công cụ lao động đã dẫn đến những biến đổi to lớn trong sản xuất và xã hội. Công cụ bằng kim loại phát triển và sản xuất riêng lẻ theo từng gia đình, thời cổ đã góp phần đẩy mạnh năng suất lao động, xuất hiện sản phẩm thừa và trong xã hội có kẻ giàu- người nghèo. Mâu thuẫn nảy sinh nhưng không gay gắt giữa quý tộc và người dân. Bấy giờ 15 bộ lạc ở lưu vực các dòng sông lớn do nhu cầu về thuỷ lợi, về quản lý xã hội cùng với nhu cầu liên hệ chống xâm lấn đã dẫn đến sự ra đời của Nhà nước đầu tiên: Nhà nước Văn Lang, kế tiếp nước Âu Lạc ra đời và phát triển. Sự đánh dấu chủ quyền của người Việt ở đây đã được xác định. Ngay từ khi ra đời, các vua Hùng đã phải đương đầu với sự xâm lấn của ngoại xâm. Từ giặc “mũi đỏ”, “giặc Ân”, đến đạo quân xâm lược vô cùng to lớn của đế chế Tần, 50 vạn quân. Tất cả đều đã bị đánh tan. Nhân dân Âu Lạc cũng nhiều lần đánh đuổi được quân xâm lược nhà Triệu. Lãnh thổ của người Việt được bảo tồn, nhà nước Văn Lang - Âu Lạc được giữ vững, củng cố và phát triển. Nhân dân thời vua Hùng, vua Thục đã xây dựng được một nếp sống, với những phong tục tập quán riêng: tục nhuộm răng, ăn trầu, tục giã bánh giầy, gói bánh chưng, tục thờ cúng tổ tiên… Thành Cổ Loa với nhiều vòng thành và hào liên tiếp là một thành tựu to lớn về khoa học kĩ thuật quân sự của ông cha ta thời kì này. Tiêu biểu cho ý thức dân tộc, bảo vệ chủ quyền của người Việt. Như vậy, bản lĩnh của người Việt gắn liền với sự phát triển về mặt nhận thức, suy nghĩ của người Việt và xã hội của họ. Bắt đầu từ tính sáng tạo ra các nền văn hoá cổ của riêng mình, đến ý thức cộng đồng khi có sự ra đời của Nhà nước. Trải qua nhiều năm sinh sống, lao động và chiến đấu, người Việt nảy nở những tình cảm cộng đồng. Họ thấy cần phải nương tựa vào nhau, thương yêu nhau, đùm bọc nhau mới an cư lập nghiệp được. Từ tình cảm cộng đồng dẫn đến ý thức cộng đồng. Họ bước đầu hiểu được mối quan hệ giữa thiên nhiên với con người; hiểu được nguồn gốc của mình, biết sự tích của các vị anh hùng; biết những phong tục tập quán cần bảo tồn. Và hơn hết, họ thấy rõ sức mạnh của cộng đồng trong việc làm thủy lợi, trao đổi sản phẩm và đấu tranh giữ gìn làng bản, đất nước. Từ đó, họ có ý thức chung về lối sống, về dân tộc, về lãnh thổ. Bản lĩnh của họ dã được hình thành hoàn toàn một cách tự nhiên và ngày càng trưởng thành hơn. Nó có cơ sở vững chắc để bước vào thử thách “ngàn năm Bắc thuộc”. 3. Con người và các bộ tộc người Việt ở phía Nam Trung Quốc Buổi ban đầu lãnh thổ người Việt chủ yếu là phần đất bắc Bộ và Bắc Trung bộ và lãnh thổ Trung Quốc bấy giờ chủ yếu là vùng phía Bắc sông Dương Tử còn phía Nam là nơi sinh sống và cư trú của khối cộng đồng cư dân Bách Việt bao gồm nhiều tộc người khác. Người Việt sống chủ yếu dựa vào nông nghiệp. Bữa ăn hàng ngày là cơm - rau - cá. Ăn trầu, nhuộm răng là những tục lệ phổ biến, bánh chưng (tượng trưng cho mặt đất), bánh giầy (tượng trưng cho vòm trời) là hai loại bánh thờ cúng tổ tiên độc đáo. Họ ăn mặc giản dị: đàn ông đóng khố, đàn bà mặc váy (ngày lạnh có thêm áo chui đầu). Họ sống tập trung ở các làng bản, ở nhà sàn, do tập trung ở ven đồi, gần suối hoặc ở những dải đất cao ven sông nên phương tiện đi lại chủ yếu bằng thuyền . Người Việt rất thích ca hát, người dân ăn mặc đẹp, vui chơi nhảy múa… Mọi sinh hoạt đều gắn với điều cầu mong thiết thực của cuộc sống: mong mưa thuận gió hoà, mông được mùa, yên ổn làm ăn. Họ thờ cúng các thế lực tự nhiên (thần sông, thần núi…) và các con vật thiêng (chim, rồng, hổ). Đặc biệt là người Việt biết thờ cúng tổ tiên và những người anh hùng có công với làng bản. Con người Việt làm nên bản lĩnh người Việt. Do sống ở vùng đấ mà điều kiện tự nhiên ô cùng đa dạng và cũng phức tạp cộng với những yếu tố xã hội đã làm cho con người Việt Nam luôn luôn phải thích nghi để sống và đi lên. Vì thế bản lĩnh của người Việt đã được hình thành từ sớm, cũng vì thế khi bước vào thời kì Bắc thuộc, người Việt đã có một tư tưởng và một ý thức hệ về độc lập dân tộc với một nền văn hoá riêng của quá trình thích nghi và phát triển. Bởi lẽ ấy mà người Việt với bản lĩnh của mình có đủ tự tin để đối chọi lại ách đô hộ và đồng hoá kéo dài hơn một thiên niên kỷ. CHƯƠNG II QUÁ TRÌNH THỬ THÁCH BẢN LĨNH CỦA NGƯỜI VIỆT I. CHÍNH SÁCH BÀNH TRƯỚNG VÀ ĐÔ HỘ CỦA PHONG KIẾN PHƯƠNG BẮC 1. Nước ta rơi vào ách đô hộ Nhân lúc nhà Tần suy yếu, một viên quan cũ của nhà Tần là Triệu Đà đã chiếm cứ ba quận phía Nam (tương ứng với Quảng Đông, Quảng Tây) lập ra nước Việt Nam - năm 206 tr.Cn. Sau khi thành lập nước Việt Nam, Triệu Đà đã nhiều lần đem quân xâm lược hòng thôn tính Âu Lạc. quân dân Âu Lạc, với vũ khí tốt và thành Cổ Loa kiên cố, dưới sự chỉ huy của những tướng tài như Cao Lỗ, Nồi Hầu đã nhiều lần đánh bại quân Triệu. Thấy không thể thắng được Âu Lạc, Triệu Đà giả vờ xin hoà rồi dùng mưu mô quỷ quyệt kết hợp với tấn công quân sự. An Dương Vương thiếu phòng bị nên đã bị thất bại nhanh chóng (khoảng năm 179 tr.CN). Theo truyền thuyết thì một mặt Triệu Đà giảng hoà và dùng của cải mua thuộc quý tộc Âu Lạc, mặt khác cho con trai là Trọng Thuỷ sang làm rể Âu Lạc. Nhiều người đã can ngăn vua đừng gả Mị Châu cho Trọng Thuỷ nhưng An Dương Vương không nghe, lại còn duổi cả trung thần đi (Cao Lỗ). Trọng Thuỷ vừa ở rể vừa dò la phép chế nỏ của người Âu Lạc cùng với sự bố trí phòng ngự của thành Cổ Loa. Sau đó, lấy cớ về thăm cha, Trọng Thuỷ đã nói cho Triệu Đà biết tình hình Âu Lạc, Triệu Đà lập tức cho chế nỏ, rồi bất ngờ đem quân đánh vào thành Cổ Loa. Không giữ được thành An Dương Vương cùng con gái phi ngựa chạy về phía Nam, đến bờ biển, cùng đường vua chém Mị Châu, rồi nhảy xuống biển (chuyện Rùa vàng). Đến năm 111 tr.CN, nhà Hán lên thay nhà Tần đã thôn tính cả Nam Việt, Âu Lạc từ tay nhà Triệu lại lọt vào tay nhà Hán. Nước Âu Lạc của người Việt tồn tại không lâu-gần 60 năm thì bị thôn tính. Người Việt đã anh dũng, đứng lên chiến đấu chống lại quân xâm lược, kiên quyết bảo vệ chủ quyền độc lập của mình song đã thất bại. Xét về nguyên nhân khách quan thì Triệu Đà có lực lượng mạnh hơn hẳn Âu Lạc và lại gian xảo, quỷ quyệt, đất nước ta tuy hiểm trở, có thành Cổ Loa kiên cố nhưng yếu hơn, tiềm lực vật chất không bằng được. Từ đây bắt đầu quá trình thử thách bản lĩnh của người Việt đầy khó khăn và gian khổ. Quá trình đó kéo dài đến 1200 năm đô hộ của các triều đại Bắc quốc: Hán, Đường, không diệt mất, chẳng những không diệt mất mà còn tự mình vùng lên lật đổ Bắc quốc, đạt được một chiến thắng hiếm có ở bất kì nơi nào của thời kỳ cổ đại. 2. Chính sách cai trị của phong kiến phương Bắc 2.1. Chính quyền đô hộ thiết lập bộ máy cai trị Sau khi bị thôn tính, đất đai Âu Lạc bị sát nhập vào đất Trung Quốc và được chia thành quận huyện. Trải qua nhiều thời kì, Âu Lạc đã bị chia đi chia lại nhiều lần song nhìn chung, mục đích chính của bọn đô hộ là tổ chức được bộ máy cai trị để dễ dàng bóc lột và đô hộ nhân dân ta, luôn luôn muốn sát nhập đất nước ta trở thành một quận huyện của chúng. 2.1.1. Thời kì Nhà Triệu và Hán Nhà Triệu chia Âu Lạc làm hai quận: Giao Chỉ (Bắc Bộ) và Cửu Chân (Thanh, Nghệ Tĩnh). Nhà Hán đặt thêm quận Nhật Nam (Từ Đèo Ngang và đến Quảng Nam, Đà Nẵng). Nhà Hán lại còn nhập ba quận này với 6 quận khác ở đảo Hải Nam và đất liền Trung Quốc lập thành châu Giao. Đứng đầu châu Giao là một thứ sử, mỗi quận có một Thái thú coi việc cai trị và một đô uý coi việc quân sự. Ở các huyện (tương đương với bộ thời An Dương Vương), chúng duy trì phương thức cai trị rất thâm độc “lấy người Di trị người Di”, “dùng người Việt trị người Việt”, nhằm biến các lạc tướng, quý tộc bản địa thành chỗ dựa cho chính quyền đô hộ, giữ nguyên nguyên tắc tổ chức chính trị cũ của Âu Lạc ở các địa phương để sử dụng nó vào mục đích bóc lột. Như thế vừa đảm bảo được nguồn cung cấp, vừa ít động chạm đến quyền lợi của quý tộc bản địa. 2.1.2 Thời kì từ sau Trưng Vương đến trước Lí Nam Đế Sau thất bại của Trưng Vương, nước ta lại bị rơi vào ách đô hộ của các triều đại phong kiến Trung Quốc. Nhà Hán, Tấn, Ngô, Trần, Lương thay nhau làm chủ Trung Quốc và cũng vì thế mà nước ta bị chia đi chia lại, chia ra nhập vào nhiều lần. Nhìn chung miền đất Âu Lạc cũ gọi là châu Giao gồm có ba quận là Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam, khoảng 50 huyện. Đứng đầu Châu vẫn là thứ sử từ Trung Quốc cử sang. Thứ sử có quyền cắt đặt quan lại, điều động quân lính ở trong Châu. Ở mỗi quận có chức thái thú và những chức quan khác giúp việc, cũng là người Hán. Bên dưới quận là huyện. Chế độ lạc tướng cha truyền con nối của người Việt ở cấp huyện bị bãi bỏ. Thay cho các lạc tướng người Việt là những tên huyện lệnh người Hán. Huyện Lệnh cho xây thành luỹ và đóng quân ở đây. Chính quyền đô hộ còn ra sức sửa sang, làm thêm đường xá nối liền quận lị, huyện lị với Long Biên - nơi tập trung các cơ quan cai trị và quân lính. Luật cũ của người Việt bị bãi bỏ, dân ta buộc phải theo Luật Hán. Đây là một trong những thủ đoạn quan trọng trong việc tổ chức bộ máy cai trị của phong kiến phương Bắc. Dần dần thiết chặt bộ máy cai trị toàn do người Hán cai trị, đẩy người Việt xuống lớp đáy, phải lệ thuộc và chịu sự bóc lột. 2.1.3. Thời kỳ nhà Đường Năm 618, nhà Đường thay nhà Tuỳ thống trị ở Trung Quốc. Đất nước ta lại rơi vào ách đô hộ của nhà Đường. Nhà Đường hùng mạnh, kế tiếp bao triều đại Trung Hoa, có chính sách cai trị rất khôn khéo, xảo quyệt. Thiết lập bộ máy cai trị rất chặt chẽ và hệ thống. Nhà Đường đổi Giao Châu thành An Nam đô hộ phủ (679), chia An Nam đô hộ thành 12 châu trong đó: Giao Châu, Phong Châu, Trường Châu (Bắc Bộ); Ái Châu, Phúc Lộc Châu, Diễn Châu, Hoan Châu (Bắc Trung Bộ). Nhà Đường sắp đặt bộ máy cai trị từ trên xuống dưới. Ngoài việc đất nước ta bị chia thành các châu quận huyện thì nhà Đường còn chú ý tăng cường củng cố bộ máy cai trị của mình. Dưới huyện là hương và xã. Các hương và xã được chia theo số hộ. Xã nhỏ có 10 đến 30 hộ. Xã lớn có từ 40 đến 60 hộ. Hương nhỏ có từ 70 - 150 hộ. Hương lớn có từ 160 - 540 hộ. Đứng đầu phủ là một viên đô hộ thâu tóm mọi quyền hành. Đứng đầu mỗi châu là một viên thứ sử. ở huyện có huyện lệnh... Nhà Đường còn lập ra 41 châu ki-mi (vùng dân tộc ít người, hẻo lánh, chính quyền không trực tiếp cai quản) cho các tù trưởng địa phương cai quản. Trụ sở của bọn đô hộ đặt ở Tống Bình (Hà Nội). Đường giao thông thuỷ bộ từ Tống Bình đi các địa phương sang Trung Quốc được sửa sang và làm thêm. Ở Tống Bình, cũng như các châu và huyện quan trọng, bọn đô hộ xây thêm thành, đắp thêm luỹ và tăng cường quân đóng giữ: Dưới thời thuộc Đường, đất nước ta đã trở thành một đơn vị hành chính có tổ chức cai trị thống nhất. Dù vậy, về mặt hình thức, chúng lại tỏ ra “ràng buộc”, mua chuộc phần nào tầng lớp trên của xã hội để đối phó với phong trào của nhân dân hòng khuất phục nhân dân ta. Nhà Đường trong quá trình tiến hành tổ chức bộ máy cai trị đã tiến hành thêm một bước mới đó là thiết lập bộ máy cai trị đến tận hương, xã nhằm trực tiếp khống chế xóm làng của người Việt. Nhưng không hề đơn giản như chúng nghĩ, chúng mới chỉ nắm đến châu, huyện chứ chưa bao giờ can thiệp được vào cơ cấu xóm làng của xã hội nước ta. Vậy là hơn 1000 năm đô hộ nước ta, trải qua nhiều triều đại từ Triệu đến Đường, mặc dù triều đại nào cũng ra sức củng cố chế độ cai trị của mình bằng cách thiết lập một bộ máy cai trị ngày càng chặt chẽ và có hệ thống hơn, mục đích chính là để bóc lột nhân dân ta, thống trị lâu dài nước ta. Chúng chỉ thực hiện được một phần kế hoạch đó mà thôi. Cuối cùng không có một triều đại nào thiết lập được nền đô hộ của chúng lên các làng xã người Việt, không thể khống chế hoàn toàn được toàn bộ lãnh thổ của người Việt.Lại càng không thể nào áp đặt được “sự đô hộ” lên bản lĩnh vốn có của người Việt, hay làm cho bản lĩnh của người Việt bị khống chế, bị kìm hãm mà ngày càng phát triển tinh tuý hơn, đẹp đẽ hơn. 2.2. Chính sách đồng hoá người Việt của bọn đô hộ Hòng thôn tinh đát nước ta, duy trì bộ máy cai trị và xoá sổ nươc ta trên bản đồ, bọn phong kiến phương Bắc đã sử dụng nhiều thứ “vũ khí”, trong đó đồng hoá là “vũ khí chủ lực” sau chiến tranh. Đông Á là vùng đất có cư dân sớm. Ở trung tâm, trên lưu vực sông Hoàng Hà, dân tộc Hán sớm lập nghiệp, văn hoá của người Hán vì thế mà phát triển mạnh mẽ, đạt được nhiều thành tựu to lớn và có một nền văn hoá, một trình độ hiểu biết cao hơn các dân tộc xung quanh. Các dân tộc nhỏ, văn hoá thấp hơn bị người Hán coi là “Nam Man”, “Đông Di”, “Bắc Địch” và “Tây Nhung”. Có một số lần Di, Địch, Nhung đã xâm nhập đất Hán nhưng thường nhất là Hán bung ra đánh chiếm xung quanh. Trong khi đô hộ, phong kiến Hán để nhiều công sức đồng hoá, Hán hoá các dân tộc bị trị. Đồng hoá là “đặc sắc nổi bật” của phong kiến Hán, các triều đại sau tiếp tục theo đuổi chính sách này: đồng hoá người Việt chúng ta mà chúng gọi là Nam Man. Để thực thi chính sách đồng hoá, nhằm vĩnh viễn biến các vùng đất mà chúng thống trị thành vùng đất mới, sát nhập vào Đại Hán, dân chúng ở đây sẽ sống và sinh hoạt theo lối Hán. Rồi từ đó mà chẳng cần cai trị thì tự nhiên lãnh thổ của người Việt sẽ là của Trung Quốc. Bắc Quốc nắm được hai ưu thế lớn, một là dân số đông, hai là văn hoá lớn hơn. Và chính vì lẽ đó mà chính sách Hán hoá diễn ra hết sức bài bản và thâm độc. Ban đầu, đồng hoá đi đôi với việc chiếm lĩnh đất đai và tuyên truyền đối với người Việt. Phong kiến đô