Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh là một báo cáo tài chính quan trọng trong
hệ thống báo cáo tài chính tại doanh nghiệp nói chung và công ty chứng khoán nói
riêng, do vậy, báo cáo này thường được đưa vào phân tích nhằm cung cấp thông
tin về kết quả và hiệu quả kinh doanh cho các đối tượng sử dụng
6 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1413 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Báo cáo Hoàn thiện dữ liệu và nội dung phân tích kết quả hoạt động kinh doanh tại các công ty chứng khoán Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
HOÀN THIỆN DỮ LIỆU VÀ NỘI DUNG
PHÂN TÍCH BÁO CÁO KẾT QUẢ HOẠT
ĐỘNG KINH DOANH TẠI CÁC CÔNG TY
CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM
Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh là một báo cáo tài chính quan trọng trong
hệ thống báo cáo tài chính tại doanh nghiệp nói chung và công ty chứng khoán nói
riêng, do vậy, báo cáo này thường được đưa vào phân tích nhằm cung cấp thông
tin về kết quả và hiệu quả kinh doanh cho các đối tượng sử dụng
Tuy nhiên, dữ liệu và nội dung phân tích Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh tại các
công ty chứng khoán thời gian qua vẫn còn nhiều thiếu sót. Vì vậy, trong bài viết này,
chúng tôi đề cập đến thực trạng và hướng hoàn thiện cơ sở dữ liệu và nội dung phân tích
Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh.
1. Thực trạng cơ sở dữ liệu và nội dung phân tích Báo cáo kết quả hoạt động kinh
doanh tại các công ty chứng khoán Việt Nam
Việc phân tích báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh sẽ cung cấp cho các đối
tượng sử dụng thông tin về tình hình tăng giảm qui mô kết quả sản xuất, kết quả tài chính
của doanh nghiệp, cung cấp những thông tin về hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp, giúp các đối tượng sử dụng thông tin có tầm nhìn chiến lược đối với doanh
nghiệp. Qua tìm hiểu thực tế nội dung phân tích báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh tại
một số công ty chứng khoán như: Công ty Cổ phần Chứng khoán Sài Gòn (SSI), Công ty
Cổ phần Chứng khoán Bảo Việt (BVS), Công ty Cổ phần Chứng khoán Ngân hàng Công
Thương Việt Nam (CTS), Công ty Cổ phần Chứng khoán TP.HCM (HCM), Công ty Cổ
phần Chứng khoán Kim Long (KLS), Công ty Cổ phần Chứng khoán Sài Gòn – Hà Nội
(SHS), Công ty Cổ phần Chứng khoán Alpha (APSC), Công ty Cổ phần Chứng khoán
phố Wall (WSS),…thời gian qua, chúng tôi thấy nổi lên một số điểm nổi bật sau:
- Về dữ liệu phân tích:
Dữ liệu được các công ty chứng khoán sử dụng chủ yếu dể phân tích là Báo cáo
kết quả hoạt động kinh doanh của năm. Mặc dù các công ty chứng khoán có lập Báo cáo
kết quả hoạt động kinh doanh giữa niên độ (quí 1, quí 2 và quí 3) nhưng việc sử dụng
Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh giữa niên độ để phân tích rất hãn hữu và thiếu
thường xuyên. Do vậy, các thông tin công bố từ phân tích Báo cáo kết quả hoạt động kinh
doanh không phản ánh được nhịp điệu tăng trưởng và xu hướng tăng trưởng của các chỉ
tiêu tại công ty theo thời gian. Hơn nữa, việc công bố báo cáo tài chính năm của các công
ty chứng khoán cũng quá chậm trễ cũng phần nào hạn chế tác dụng của báo cáo. Theo qui
định hiện hành, các công ty chứng khoán phải công bố báo cáo tài chính năm (đã được
kiểm toán) trong vòng 90 ngày kể từ khi kết thúc năm tài chính nhưng trên thực tế, tính
đến thời điểm ngày 07/04/2010 mới có một số công ty chứng khoán thực hiện việc công
bố báo cáo tài chính năm 2009 như: Công ty Cổ phần Chứng khoán Châu Á-Thái Bình
Dương, Công ty Cổ phần Chứng khoán Alpha, Công ty Cổ phần Chứng khoán Kim
Long, Công ty Cổ phần Chứng khoán Sài Gòn – Hà Nội, Công ty Cổ phần Chứng khoán
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam; còn lại hầu hết các công ty
chứng khoán khác mới chỉ cung cấp báo cáo tài chính giữa niên độ. Vì thế, với những
công ty này, các đối tượng sử dụng thông tin từ báo cáo tài chính không có cơ sở và dữ
liệu để phân tích hay thẩm định thông tin mà công ty cung cấp.
Ngoài ra, một số công ty chứng khoán chưa trình bày chỉ tiêu “Lãi cơ bản trên cổ
phiếu” trên Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh trên cả Báo cáo kết quả hoạt động kinh
doanh giữa niên độ lẫn Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh năm. Việc không trình bày
chỉ tiêu “Lãi cơ bản trên cổ phiếu” ở Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh không được
các công ty chứng khoán giải thích ở Thuyết minh báo cáo tài chính. Sự thiếu sót và
không tuân thủ qui định của Chế độ báo cáo tài chính đã gây khó khăn cho người sử dụng
trong việc tiếp cận Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh, gây cản trở cho việc phân tích
báo cáo này; từ đó, hạn chế những thông tin cung cấp về kết quả và hiệu quả kinh doanh
của công ty chứng khoán.
- Về nội dung phân tích:
Nội dung được hầu hết các công ty chứng khoán sử dụng để phân tích là khả
năng sinh lợi của doanh thu thuần thông qua chỉ tiêu “Tỷ suất sinh lợi của doanh thu
thuần” (Return on sales - ROS). Chỉ tiêu này cho biết, trong kỳ kinh doanh, một đơn vị
doanh thu thuần kinh doanh đem lại mấy đơn vị lợi nhuận sau thuế. Ngoài ra, kết hợp với
Bảng cân đối kế toán, các công ty còn tiến hành phân tích khả năng sinh lợi của tài sản và
khả năng sinh lợi của vốn chủ sở hữu thông qua các chỉ tiêu tương ứng “Tỷ suất sinh lợi
của tài sản” (Return on assets - ROA) và “Tỷ suất sinh lợi của vốn chủ sở hữu” (Return
on equity - ROE). Bằng cách so sánh trị số của các chỉ tiêu ROS, ROA và ROE năm nay
so với năm trước, căn cứ vào kết quả so sánh, các nhà phân tích sẽ đưa ra kết luận về khả
năng sinh lợi của công ty. Khi các chỉ tiêu này có trị số dương và có xu hướng tăng lên
theo thời gian được xem là tín hiệu tốt về hiệu quả kinh doanh của công ty chứng khoán
và ngược lại.
2. Một số giải pháp hoàn thiện cơ sở dữ liệu và nội dung phân tích Báo cáo kết quả
hoạt động kinh doanh của các công ty chứng khoán
Thực trạng về cơ sở dữ liệu và nội dung phân tích Báo cáo kết quả hoạt động
kinh doanh tại các công ty chứng khoán Việt Nam đã phần nào hạn chế tác dụng của Báo
cáo kết quả hoạt động kinh doanh nói riêng và báo cáo tài chính nói chung đối với công
tác quản lý. Vì thế, để Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh mang lại những thông tin
đầy đủ và hữu ích hơn đối với các đối tượng sử dụng, chúng tôi đề xuất một số giải pháp
cơ bản liên quan đến cơ sở dữ liệu và nội dung phân tích Báo cáo kết quả hoạt động kinh
doanh sau đây:
- Về cơ sở dữ liệu:
Để có thông tin liên tục về tình hình tăng trưởng và biến động kết quả và hiệu
quả kinh doanh theo thời gian, theo chúng tôi, khi phân tích cần thiết phải sử dụng Báo
cáo kết quả hoạt động kinh doanh của nhiều kỳ, ít nhất cũng phải sử dụng tất cả Báo cáo
kết quả hoạt động kinh doanh trong năm (Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh năm và
các Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh giữa niên độ). Mặt khác, các chỉ tiêu trên Báo
cáo kết quả hoạt động kinh doanh phải được lập đầy đủ và được kiểm tra kỹ càng nhằm
bảo đảm tính chính xác của thông tin. Có như vậy, các kết luận rút ra qua xem xét và
phân tích Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh mới đáng tin cậy, mới có thể sử dụng
hữu ích trong quản lý.
- Về nội dung phân tích:
Nội dung phân tích Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh hiện nay trong các
công ty chứng khoán còn quá nghèo nàn, chưa thể hiện được kết quả và hiệu quả trên các
mặt hoạt động kinh doanh của công ty. Vì thế, theo chúng tôi, các công ty chứng khoán
cần tiến hành phân tích bổ sung một số nội dung sau:
+ Phân tích sự biến động theo thời gian của từng chỉ tiêu:
Bằng cách so sánh, xem xét sự biến động cả về số tuyệt đối và số tương đối theo
thời gian của từng chỉ tiêu không những cung cấp cho những người sử dụng thông tin biết
được mức độ tăng trưởng của từng chỉ tiêu mà còn cho biết tình hình tăng trưởng cụ thể
cả về xu hướng tăng trưởng và nhịp điệu tăng trưởng. Qua đó, những người sử dụng
thông tin có căn cứ xác đáng để đánh giá chính xác, kịp thời về kết quả kinh doanh mà
công ty đã đạt được.
+ Phân tích tình hình biến động về doanh thu:
Theo Thông tư số 95/2008/TT-BTC ngày 24/10/2008 của Bộ Tài chính, khoản
mục doanh thu chứng khoán trên báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của công ty
chứng khoán có thể hiện chi tiết tất cả các khoản mục doanh thu từ các hoạt động mà
công ty chứng khoán được phép kinh doanh. Điểm khác biệt này so với báo cáo kết quả
hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp khác thể hiện sự quản lý chặt chẽ của cơ
quan quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh doanh chứng khoán. Kinh doanh chứng
khoán là loại hình kinh doanh có điều kiện và rất nhạy cảm, ứng với mỗi hoạt động kinh
doanh mà công ty đăng ký sẽ có một mức vốn pháp định khác nhau mà không phải mọi
công ty chứng khoán đều có khả năng và năng lực tài chính đê thực hiện tất cả các hoạt
động. Vì thế, để nắm được các lĩnh vực kinh doanh và doanh thu thu được tương ứng với
từng lĩnh vực kinh doanh mà công ty tiến hành, cần thiết phải phân tích tình hình biến
động về doanh thu hoạt động chứng khoán theo thời gian cả về qui mô, cơ cấu doanh thu.
Mặt khác, nội dung phân tích này cũng giúp làm rõ hơn trong số các hoạt động mà công
ty chứng khoán đang tiến hành, hoạt động nào là chủ yếu, mang lại doanh thu và thu nhập
cao nhất. Cũng qua đó, công ty có thể xác định thế mạnh nhất của mình để lựa chọn
phương án kinh doanh và đầu tư đúng đắn nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh. Đồng
thời, các đối tác có căn cứ để lựa chọn đúng công ty chứng khoán nhằm thỏa mãn các
dịch vụ mà họ cần.
+ Phân tích tình hình biến động về lợi nhuận và tỷ suất lợi nhuận:
Các hoạt động kinh doanh khác nhau sẽ đem lại một mức doanh thu thuần và lợi
nhuận khác nhau. Vì thế, bên cạnh phân tích tình hình biến động doanh thu thuần cả về
qui mô và cơ cấu, các công ty cần thiết phải tiến hành phân tích lợi nhuận và tỷ suất lợi
nhuận trên doanh thu thuần cả về qui mô biến động và cơ cấu. Qua đó, có căn cứ để đánh
giá được hiệu quả kinh doanh của từng hoạt động mà công ty tiến hành một cách chính
xác. Nhờ nội dung phân tích này, những người sử dụng thông tin biết được hoạt động nào
mang lại hiệu quả cao nhất, có tính ổn định và tăng trưởng bền vững nhất. Từ đó, có
những quyết định đúng đắn trong chiến lược phát triển kinh doanh của mình.
+ Phân tích tình hình biến động của lãi cơ bản trên cổ phiếu:
“Lãi cơ bản trên cổ phiếu” là chỉ tiêu riêng có đối với các công ty cổ phần. Chỉ
tiêu này cho biết cứ một đồng cổ phiếu phổ thông sẽ tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận sau
thuế. Trị số của chỉ tiêu này càng cao, càng hấp dẫn các nhà đầu tư nênchỉ tiêu này rất
được các nhà đầu tư quan tâm. Để tạo niềm tin và những đánh giá chính xác của nhà đầu
tư dành cho cổ phiếu công ty, cần thiết phải tiến hành phân tích chỉ tiêu này cả về qui mô
tăng trưởng lẫn xu hướng và nhịp điệu tăng trưởng theo thời gian. Qua đó, chỉ rõ các
nguyên nhân ảnh hưởng đến sự biến động của chỉ tiêu. “Lãi cơ bản trên cổ phiếu” thay
đổi do sự thay đổi của lợi nhuận sau thuế, của mức cổ tức trả cho cổ phiếu ưu đãi, của số
lượng cổ phiếu phổ thông đã phát hành bình quân trong kỳ. Nếu chỉ tiêu này tăng do tốc
độ tăng của lợi nhuận sau thuế lớn hơn tốc độ tăng của số lượng cổ phiếu phổ thông phát
hành chứng tỏ công ty chứng khoán đang kinh doanh hiệu quả, nhà đầu tư đặt kỳ vọng
vào khả năng sinh lợi của cổ phiếu mà họ đầu tư; tuy nhiên, nếu chỉ tiêu này giảm xuống
chủ yếu do trong kỳ công ty chứng khoán tăng số lượng phát hành cổ phiếu phổ thông để
tăng vốn, trong khi đó lợi nhuận sau thuế lại tăng với tốc độ nhỏ hơn thì chưa hẳn đã là
tín hiệu không tốt. Điều quan trọng là nhà đầu tư cần xác định nguyên nhân thực sự và
quan trọng làm cho lãi cơ bản trên cổ phiếu thay đổi, nó còn gắn với lộ trình tăng vốn của
từng công ty chứng khoán cũng như biến động của nền kinh tế và thị trường chứng
khoán. Vì vậy, nhà đầu tư không chỉ đơn thuần xem xét giá trị số học của chỉ tiêu này mà
còn biết phân tích đánh giá những bộ phận cấu thành nên giá trị đó để có kế hoạch đầu tư
hợp lý.
Như vậy, bên cạnh các nội dung phân tích như phân tích sức sinh lời của doanh
thu, sức sinh lời của tài sản, sức sinh lời của vốn chủ sở hữu; các công ty chứng khoán
cần bổ sung thêm các nội dung phân tích như đã trình bày ở trên. Khi đó sẽ cung cấp
những thông tin đầy đủ hơn và hữu dụng hơn về tình hình kinh doanh, kết quả kinh doanh
của cả công ty chứng khoán và của từng hoạt động riêng lẽ mà công ty chứng khoán cung
cấp cho khách hàng theo thời gian, từ đó có những nhận định về tiềm năng phát triển
trong tương lai.
***
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Chuẩn mực kế toán Việt Nam số 30 ban hành theo Quyết định số 100/2005/QĐ-BTC
ngày 28/12/2005 của Bộ Tài chính.
2. PGS.TS Nguyễn Văn Công (2009), Giáo trình phân tích kinh doanh, NXB Đại học
Kinh tế quốc dân, Hà Nội.
3. PGS.TS Nguyễn Năng Phúc (2008), Giáo trình phân tích báo cáo tài chính, NXB Đại
học Kinh tế quốc dân.
4. www.ssc.gov.vn
5…