Báo cáo Khảo sát hiện trạng hệ thống các nhà vệ sinh công cộng tại một số quận nội thành của Thành phố Hồ Chí Minh

Trong mỗi gia đình – công trình phụ là một phần không thể thiếu và tại các thành phố lớn – nhà vệ sinh công cộng có vai trò rất quan trọng. Là công trình phụ nhưng không hề phụ trong việc phục vụ, nâng cao chất lượng cuộc sống. Tuy nhiên, ở một số nơi, công trình phụ và nhà vệ sinh công cộng chưa được đầu tư, quan tâm đúng mức. Chưa nói đến sự kém ý thức, coi thường việc bảo vệ môi trường sống của một số người. Thành phố Hồ Chí Minh là một trong những thành phố lớn của nước ta nhưng hiện trạng nhà vệ sinh công cộng vẫn còn nhiều bất cập về cả số lượng lẫn chất lượng. Để cải thiện chất lượng cuộc sống đô thị ngoài việc nâng cao các điều kiện ăn, ở thì cũng không thể quên việc xây dựng mới và cải thiện các nhà vệ sinh công cộng đã có tạo điều kiện để người dân thể hiện lối sống văn minh, lịch sự. Tuy nhiên, không phải cư dân nào cũng có điều kiện tiếp cận được với nhà vệ sinh công cộng để chứng tỏ sự văn minh của mình, bởi trên địa bàn thành phố còn quá thiếu nhà vệ sinh công công và không ít người dân còn e ngại khi bước chân vào một nhà vệ sinh công cộng chưa thực hợp vệ sinh môi trường. Rõ ràng chất lượng cuộc sống đô thị chưa thể nâng cao nếu cư dân đô thị đi ra đường mà không có nơi giải quyết “chuyện tế nhị hàng ngày”. Vả lại phải ngửi mùi hôi từ các điểm có đặt nhà vệ sinh công cộng trên một số nẻo đường thì khó nói chất lượng cuộc sống được nâng cao. Trên thực tế, từ nhiều năm qua Tp Hồ Chí Minh đã nổ lực gia tăng số lượng nhà vệ sinh nhưng kết quả vẫn chưa được như ý muốn. Nằm trong nổ lực chung để nâng cao hiệu quả sử dụng nhà vệ sinh công cộng tại đô thị lớn nhất cả nước là thành phố Hồ Chí Minh, trước hết cần có bức tranh tổng thể về tình trạng các nhà vệ sinh công cộng tại toàn thành phố và ít nhất là tại các quận nội thành tập trung đông dân cư của thành phố Hồ Chí Minh, đề tài “khảo sát hiện trạng hệ thống các nhà vệ sinh công cộng tại một số quận nội thành của thành phố Hồ Chí Minh” đã ra đời với mong muốn phản ánh kịp thời và đầy đủ về tình hình thực tế của các nhà vệ sinh công cộng hiện nay.

doc56 trang | Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1814 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Báo cáo Khảo sát hiện trạng hệ thống các nhà vệ sinh công cộng tại một số quận nội thành của Thành phố Hồ Chí Minh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC DANH MỤC BẢNG BIỂU Bảng 2.1: Phân loại nhà vệ sinh công cộng theo nguyên tắc xử lý phân 17 Bảng2.2: Các điểm đô thị phải có nhà vệ sinh công cộng 21 Bảng 3.1: Thống kê số lượng nhà vệ sinh trên địa bàn quận 1 22 Bảng 3.2: Thống kê số lượng nhà vệ sinh trên địa bàn quận 3 25 Bảng 3.3: Thống kê số lượng nhà vệ sinh trên địa bàn quận 5 27 Bảng 3.4: Thống kê số lượng nhà vệ sinh trên địa bàn quận 6 29 Bảng 3.5: Thống kê số lượng nhà vệ sinh trên địa bàn quận 10 31 DANH MỤC CÁC HÌNH SƠ ĐỒ Hình 1.1: Bản đồ hành chính thành phố Hồ Chí Minh 9 Hình 3.1: Vị trí các nhà vệ sinh tại quận 1 – TP Hồ Chí Minh 24 Hình 3.2: Vị trí các nhà vệ sinh tại quận 3 – TP Hồ Chí Minh 26 Hình 3.3: Vị trí các nhà vệ sinh tại quận 5 – TP Hồ Chí Minh 28 Hình 3.4: Vị trí các nhà vệ sinh tại quận 6– TP Hồ Chí Minh 30 Hình 3.5: Vị trí các nhà vệ sinh tại quận 10 – TP Hồ Chí Minh 32 Hình 3.6: Thùng rác tại nhà vệ sinh công cộng trong công viên 23/9, Q1 36 Hình 3.7: Bồn cầu ngồi trong nhà vệ sinh ở cv Quách Thị Trang, Q1 37 Hình 3.8: Bồn rửa tay của nhà vệ sinh trên đường An Dương Vương, Q5 37 Hình 3.9: Bàn cầu ngồi trong nhà vệ sinh tại chợi Nguyễn Văn Trỗi, Q10 38 Hình 3.10: Bồn tiểu tự động ở nhà vệ sinh trên đường Lý Thái Tổ, Q10 38 Hình 3.11: Bồn cầu bệt ở nhà vệ sinh công cộng trong công viên Văn Hóa Phú Lâm, Q6 39 Hình 3.12: Nhà vệ sinh do công ty dịch vụ công ích thanh niên xung phong quản lý trên đường Nguyễn Văn Cừ, Q5 40 Hình 3.13: Nhà vệ sinh trên đường Ngô Nhân Tịnh, Q6 40 Hình 3.14: Nhà vệ sinh công cộng trên đường Lê Quang Sung, Q6 41 Hình 3.15: Nhà vệ sinh công cộng trên đường An Dương Vương, Q5 41 LỜI MỞ ĐẦU Đặt vấn đề Trong mỗi gia đình – công trình phụ là một phần không thể thiếu và tại các thành phố lớn – nhà vệ sinh công cộng có vai trò rất quan trọng. Là công trình phụ nhưng không hề phụ trong việc phục vụ, nâng cao chất lượng cuộc sống. Tuy nhiên, ở một số nơi, công trình phụ và nhà vệ sinh công cộng chưa được đầu tư, quan tâm đúng mức. Chưa nói đến sự kém ý thức, coi thường việc bảo vệ môi trường sống của một số người. Thành phố Hồ Chí Minh là một trong những thành phố lớn của nước ta nhưng hiện trạng nhà vệ sinh công cộng vẫn còn nhiều bất cập về cả số lượng lẫn chất lượng. Để cải thiện chất lượng cuộc sống đô thị ngoài việc nâng cao các điều kiện ăn, ở thì cũng không thể quên việc xây dựng mới và cải thiện các nhà vệ sinh công cộng đã có tạo điều kiện để người dân thể hiện lối sống văn minh, lịch sự. Tuy nhiên, không phải cư dân nào cũng có điều kiện tiếp cận được với nhà vệ sinh công cộng để chứng tỏ sự văn minh của mình, bởi trên địa bàn thành phố còn quá thiếu nhà vệ sinh công công và không ít người dân còn e ngại khi bước chân vào một nhà vệ sinh công cộng chưa thực hợp vệ sinh môi trường. Rõ ràng chất lượng cuộc sống đô thị chưa thể nâng cao nếu cư dân đô thị đi ra đường mà không có nơi giải quyết “chuyện tế nhị hàng ngày”. Vả lại phải ngửi mùi hôi từ các điểm có đặt nhà vệ sinh công cộng trên một số nẻo đường thì khó nói chất lượng cuộc sống được nâng cao. Trên thực tế, từ nhiều năm qua Tp Hồ Chí Minh đã nổ lực gia tăng số lượng nhà vệ sinh nhưng kết quả vẫn chưa được như ý muốn. Nằm trong nổ lực chung để nâng cao hiệu quả sử dụng nhà vệ sinh công cộng tại đô thị lớn nhất cả nước là thành phố Hồ Chí Minh, trước hết cần có bức tranh tổng thể về tình trạng các nhà vệ sinh công cộng tại toàn thành phố và ít nhất là tại các quận nội thành tập trung đông dân cư của thành phố Hồ Chí Minh, đề tài “khảo sát hiện trạng hệ thống các nhà vệ sinh công cộng tại một số quận nội thành của thành phố Hồ Chí Minh” đã ra đời với mong muốn phản ánh kịp thời và đầy đủ về tình hình thực tế của các nhà vệ sinh công cộng hiện nay. Mục đích đề tài Khảo sát hiện trạng nhà vệ sinh công cộng tại một số quận thuộc khu vực nội thành của thành phố Hồ Chí Minh nhằm đánh giá công tác quản lý và xử lý chất thải từ các nhà vệ sinh công cộng nói trên, đồng thời đề xuất một số phương án cải thiện chất lượng vệ sinh môi trường của hệ thống nhà vệ sinh công cộng của khu vực nội thành thành phố. Phạm vi nghiên cứu Địa điểm: Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu, đánh giá hệ thống nhà vệ sinh công cộng tại một số quận nội thành của khu vực thành phố Hồ Chí Minh bao gồm: quận 1, quận 3, quận 5, quận 6 và quận 10. Thời gian: đề tài được thực hiện từ ngày 09/05/2011 đến ngày 04/07/2011. Nội dung nghiên cứu Tìm hiểu về số lượng, mật độ phân bố nhà vệ sinh công công. Khảo sát và đánh giá hiện trạng sử dụng và chất lượng vệ sinh môi trường của nhà vệ sinh công cộng trong khu vực nghiên cứu. Đề xuất các phương án cải thiện và nâng cao hiệu quả sử dụng hệ thống nhà vệ sinh công cộng tại thành phố Hồ Chí Minh. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp luận Dựa vào hiện trạng môi trường và hệ thống nhà vệ sinh công cộng tại khu vực Tp Hồ Chí Minh, các dữ liệu cơ sỡ phải được nghiên cứu, thu thập chính xác, khách quan. Từ đó, đánh giá phương án thực hiện cần thiết nhằm thực hiện việc quản lý xây dựng nhà vệ sinh công cộng đạt hiệu quả. Phương pháp cụ thể Thu thập số liệu về điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội, môi trường trên địa bàn Tp Hồ Chí Minh. Khảo sát, đánh giá, tìm hiểu các vấn đề có liên quan đến nhà vệ sinh công cộng. Ý nghĩa của đề tài Khảo sát, đánh giá tác động của nhà vệ sinh công cộng đến người dân. Từ đó, đưa ra phương án quản lý tốt hơn cho nhà vệ sinh công cộng tại một số quận nội thành của khu vực thành phố Hồ Chí Minh và góp phần cải thiện cảnh quan đô thị cho thành phố. CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ KHU VỰC TP. HỒ CHÍ MINH 1.1 Đặc điểm tự nhiên 1.1.1 Vị trí địa lí Thành phố Hồ Chí Minh có tọa độ 10010’ – 10038’ Bắc và 106022’ – 106054’ Đông, nằm ở khu vực trung tâm nam bộ. Phía bắc giáp Bình Dương, phía tây giáp Tây Ninh, phía đông và đông bắc giáp Đồng Nai, phía đông nam giáp Bà Rịa – Vũng Tàu, tây và tây nam giáp Long An, Tiền Giang. Nam giáp biển Đông với đường bờ biển dài 15km. Hình 1.1: Bản đồ hành chính Tp Hồ Chí Minh Hiện nay. TP có 12 quận nội thành, gồm các quận: 1,3,4,5,6,8,10,11, Gò Vấp, Phú Nhuận, Bình Thạnh, Tân Bình với 182 phường; và 6 huyện ngoại thành: Củ Chi, Hooc Môn, Thủ Đức, Bình Chánh, Nhà Bè, Cần Giờ với 100 xã và thị trấn. Diện tích tự nhiên TP: 209.100 ha, trong đó nội thành 14.030 ha, chiếm 6,7%, ngoại thành 195.070 ha chiếm 69,9%. Dân số TP năm 1995 có 7.162.864 người ( chiếm 8,345 dân số Việt Nam), mật độ trung bình 3.419 người/ km2 TP. Hồ Chí Minh là thành phố Cảng, một đầu mối giao thông lớn, nối liền với các địa phương trong nước và quốc tế. Hệ thống thương cảng quốc tế Sài Gòn nối liền với các Cảng trong nước và thế giới, có thể tiếp nhận tàu từ 15-20 ngàn tấn, với năng lực 10 triệu tấn/ năm và có thể mở rộng, nâng cấp lên đến 17 – 20 triệu tấn/ năm Hệ thống đường bộ có: quốc lộ 1A nối liền TP với các tỉnh phía Bắc, với các tỉnh Đồng Bằng Sông Cửu Long, quốc lộ 22 đi Tây Ninh, nối liền với Campuchia, quốc lộ 13 qua Bình Dương nối liền với quốc lộ 14 kéo dài suốt Tây Nguyên, quốc lộ 51 nối liền với Đồng Nai và Bà Rịa – Vũng Tàu, quốc lộ 50 đi Long An, Tiền Giang và nhiều tỉnh lộ nối trực tiếp với các tỉnh xung quanh. TP. Hồ Chí Minh là đầu mối cuối cùng của đường sắt thống nhất Bắc – Nam, sân bay Tân Sơn Nhất là một trong các sân bay quốc tế lớn trong khu vực Đông Nam Á. Hiện tại có 12 đường bay trong nước, 20 đường bay quốc tế với khoảng 3 triệu hành khách và 50 tấn hàng hóa/ năm. Nằm trong vùng chuyển tiếp giữa miền Đông Nam Bộ và đồng bằng Sông Cửu Long, địa hình thành phố thấp dần từ Bắc xuống Nam và từ Đông sang Tây. Vùng cao nằm ở phía Bắc-Đông Bắc và một phần Tây Bắc, trung bình 10 đến 25 mét. Xen kẽ một số gò đồi, cao nhất lên đến 32 mét nhưng đồi Long Bình ở quận 9. Ngược lại, vùng trũng nằm ở phía Nam – Tây Nam và Đông Nam thành phố, có độ cao trung bình trên dưới 1 mét, nơi thấp nhất 0,5 mét. Các khu vực trung tâm, một phần các quận Thủ Đức, quận 2, toàn bộ huyện Hooc Môn và quận 12 có độ cao trung bình khoảng 5 – 10 mét. 1.1.2 Điều kiện khí tượng Nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa cận xích đạo, thành phố Hồ Chí Minh có nhiệt độ cao đều trong năm và hai mùa mưa – khô rõ rệt. Mùa mưa được bắt đầu từ tháng 5 tới tháng 11, còn mùa khô từ tháng 12 tới tháng 4 năm sau. Trung bình, thành phố Hồ Chí Minh lên tới 400C, thấp nhât xuống 13,80C. Hàng năm, thành phố có 330 ngày nhiệt độ trung bình tới 25 – 280C. Lượng mưa trung bình của thành phố đạt 1.949 mm/năm, trong đó năm 1908 đạt cao nhất 2.718mm thấp nhất xuống 1.392 mm vào năm 1958. Một năm,ở thành phố có trung bình 159 ngày mưa, tập trung nhiều nhất vào các tháng từ 5 đến 11, chiếm khoảng 90%. Đặc biệt hai tháng 6 và 9. Trên phạm vi không gian thành phố, lượng mưa phân bố không đều, khuynh hướng tăng theo trục Tây Nam – Đông Bắc. Các quận nội thành và các huyện phía Bắc có lượng mưa cao hơn khu vực còn lại. Thành phố Hồ Chí Minh chịu ảnh hưởng bởi hai hướng gió chính là gió mùa Tây – Tây Nam và Bắc – Đông Bắc. Gió Tây – Tây Nam từ Ấn Độ Dương, tốc độ trung bình 3,6 m/s vào mùa mưa. Gió Bắc – Đông Bắc từ biển Đông tốc độ trung bình 2,4 m.s, vào mùa khô. Ngoài ra, còn có gió tín phong theo hướng Nam – Đông Nam vào khoảng tháng 3 tới tháng 5, trung bình 3,7 m/s. Có thể nói Thành phố Hồ Chí Minh thuộc vùng không có gió bão. Cũng như lượng mưa, độ ẩm không khí ở thành phố lên cao vào mùa mưa là: 80% và xuống thấp vào mùa khô là: 74,5%. Trung bình, độ ẩm không khí đạt bình quân/ năm 79,5%. 1.1.3 Địa hình – địa chất Địa chất thành phố Hồ Chí Minh bao gồm chủ yếu là hai hướng trầm tích Pleistocen và Holocen lộ ra trên bề mặt. Trầm tích Pleistocen chiếm hầu hết phần Bắc, Tây Bắc và Đông Bắc thành phố. Dưới tác động của các yếu tố tự nhiên và hoạt động của con người, trầm tích phù sa cổ hình thành nhóm đất đặc trưng riêng: đất xám. Với hơn 45 nghìn ha, tức khoảng 23,4% diện tích thành phố, đất xám ở thành phố Hồ Chí Minh có ba loại: đát xám cao, đất xám có tầng loang lổ đỏ vàng và hiếm hơn là đất xám gley. Trầm tích Holocen ở thành phố Hồ Chí Minh có nhiều nguồn gốc: biển, vũng vịnh, sông biển, bãi bồi... hình thành nhiều loại đất khác nhau: nhóm đất phù sa biển với 15.100 ha, nhóm đất phèn với 40.800 ha và đất phèn mặn với 45.500 ha. Ngoài ra, còn có một diện tích khoảng hơn 400 ha là giồng cát gần biển và đất feralite vàng nâu bị xói mòn trơ sỏi đá ở vùng đồi gò. 1.1.4 Điều kiện thủy văn Về thủy văn, nằm ở vùng hạ lưu hệ thống sông Đồng Nai - Sài Gòn, thành phố Hồ Chí Minh có mạng lưới sông ngòi kênh rạch rất đa dạng. Sông Đồng Nai bắt nguồn từ cao nguyên Lâm Viên, hợp lưu bởi nhiều sông khác, có lưu vực lớn khoảng 45.000 km2. . Với lưu lượng bình quân 20 – 500m3/s, hàng năm cung cấp 15 tỷ m3 nước, sông Đồng Nai trở thành nguồn nước ngọt chính của thành phố. Sông Sài Gòn bắt nguồn từ vùng Hớn Quản, chảy qua thủ Dầu Một đến thành phố Hồ Chí Minh, với chiều dài 200km và chảy doc trên địa phận thành phố dài 80km. Sông Sài Gòn có lưu lượng trung bình vào khoảng 54m3/s, bề rộng tại thành phố dài 80km. Sông Sài Gòn có lưu lượng trung bình vào khoảng 54m3, bề rộng tại thành phố khoảng 225m đến 370m, độ sâu tới 20m. Nhờ hệ thông kênh Rạch Chiếc, hai con sông Đồng Nai và Sài Gòn nối thông ở phần nội thành mở rộng. Một con sông nữa của thành phố Hồ Chí Minh là Sông Nhà Bè, hình thành ở nơi hợp lưu hai sông Đồng Nai và Sài Gòn, chảy ra biển Đông bởi hai ngả chính Soài Rạp và Gành Rái. Trong đó, ngả Gành rái chính là đường thủy chính cho tàu ra vào bến Cảng Sài Gòn. Ngoài các con sông chính, thành phố Hồ Chí Minh còn có một hệ thống kênh rạch chằng chịt: Láng The, Bàu Nông, Rạch Tra, Bến Cát, An Hạ, Tham Lương, Cầu Bông, Nhiêu Lộc – Thị Nghè, Bến Nghe, Lò Gốm, Kênh Tẻ, Tàu Hủ, Kênh Đôi... Hệ thống sông, kênh rạch giúp thành phố Hồ Chí Minh trong việc tưới tiêu, nhưng do chịu ảnh hưởng dao động triều bán nhật của biển Đông, thủy triều thâm nhập sâu đã gây nên những tác động xấu tới sản xuất nông nghiệp và hạn chế việc tiêu thoát nước ở khu vực nội thành. Nhờ trầm tích Pleistocen, khu vực phía Bắc thành phố Hồ Chí Minh có được lượng nước ngầm khá phong phú. Nhưng về phía Nam, trên trầm tích Holocen, nước ngầm thường bị nhiễm phèn, nhiễm mặn. Khu vực nội thành cũ có lượng nước ngầm đáng kể, tuy chất lượng không thực sự tốt, vẫn được khai thác chủ yếu ở ba tầng: 0 – 20 m, 60 – 90 m và 170 – 200 m (tầng trầm tích Miocen). Tại quận 12, các huyện Hooc Môn và Củ Chi, chất lượng nước tốt, trữ lượng dồi dào, thường được khai thác ở tầng 60 – 90 m, trở thành nguồn nước bổ sung quan trọng. 1.2 Tình hình kinh tế - xã hội 1.2.1 Tình hình kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh giữ vai trò đầu tàu kinh tế của cả Việt Nam. Thành phố chiếm 0,6% diện tích và 8,34% dân số cua Việt Nam nhưng chiếm tới 20,2% tổng sản phẩm, 27,9% giá trị sản xuất công nghiệp và 34,9% dự án nước ngoài. Vào năm 2005. Tp Hồ Chí Minh có 4.344.000 lao động, trong đó 139 nghìn người ngoài độ tuổi lao động nhưng vấn đang tham gia làm việc. Năm 2010, thu nhập bình quân đầu người ở thành phố đạt 2.800 USD/ năm, cao hơn nhiều so với trung bình cả nước là 1168USD/ năm. Tổng GDP cả năm 2010 đạt 418.053 tỷ đồng, tốc độ tăng trưởng đạt 11.8% Nền kinh tế của thành phố Hồ Chí Minh đa dạng về lĩnh vực, từ khai thác mỏ, thủy sản, nông nghiệp, công nghiệp chế biên, xây dựng đến du lịch, tài chính... Cơ cấu kinh tế của thành phố: khu vực nhà nước chiếm 33,3%, ngoài quốc doanh chiếm 44,6%, phần còn lại là khu vực có vốn đầu từ nước ngoài. Về các ngành kinh tế, dịch vụ chiếm tỷ trọng cao nhất 51,1%. Phần còn lại, công nghiệp và xây dựng chiếm 47,7%, nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản chiếm 1,2% Tính đến giữa năm 2006, 3 khu chế xuất và 12 khu công nghiệp Tp Hồ Chí Minh đã thu hút được 1.092 dự án đầu từ, trong đó có 452 dự án có vốn đầu tư nước ngoài với tổng vốn đầu tư hơn 1,9 tỷ USD và 19,5 nghìn tỉ VND. Thành phố cũng đứng đầu Việt Nam tổng lượng vôn đầu tư trực tiếp nước ngoài với 2.530 dự án FDI, tổng vốn 16,6 ti USD vào cuối năm 2007. Riêng trong năm 2007, thành phố thu hút hơn 400 dự án với gần 3 tỉ USD. Tuy vậy nền kinh tế của thành phố Hồ Chí Minh vẫn phải đối mặt với nhiều khó khăn. Toàn thành phố chỉ có 10% cơ sở công nghiệp có trình độ công nghệ hiện đại. Trong đó, có 21/212 cơ sở ngành dệt may, 4/40 cơ sở ngành da giày, 6/68 cơ sở ngành hóa chất, 14/144 cơ sở chế biến thực phẩm, 18/96 cơ sở cao su nhựa, 5/46 cơ sở chế tạo máy... có trình độ công nghệ, kỹ thuật tiên tiến. Cơ sỡ hạ tậng của thành phố lạc hậu, quá tải, chỉ giá tiêu dùng cao, tệ nạn xã hội, hành chính phức tạp... cũng gây khó khăn cho nền kinh tế. 1.2.2 Tình hình xã hội Dân cư Theo kết quả điều tra dân số ngày 01/04/2009 Tp Hồ Chí Minh có dân số 7.162.864 người, gồm 1.824.822 hộ dân trong đó 1.509.930 hộ tại thành thị và 314.892 hộ tại nông thông, bình quân 3,93 người/hộ. Phân theo giới tính: Nam có 3.435.734 người chiếm 47,97%, nữ có 3.727.130 người chiếm 52,03%. Dân số thành phố tăng nhanh, trong 10 năm từ 1999-2009, dân số tăng thêm 2.125.709 người, bình quân tăn 212.000 người/năm, tốc độ tăng 3,54% /năm chiếm 22,32% số dân tăng thêm hàng năm của cả nước trong vòng 10 năm. Với 572.12 người tương đương với số dân một số tỉnh như : Quảng Trị, Ninh Thuận- quận Bình Tân có dân số lớn nhất trong số các quận của cả nước. Tương tự, huyện Bình Chánh với 402.109 dân là huyện có dân số lớn nhất trong số các huyện của cả nước. Khi đó huyện Cần Giờ với 68.846 người, có dân số thấp nhất trong sô các quận, huyện của thành phố. Không chỉ là thành phố đông dân nhất Việt Nam quy mô dân số Tp Hồ Chí Minh còn hơn phần lớn các thủ đô ở Châu Âu ngoại trừ Moscow và London. Theo số liệu thống kê năm 2009, 83,32% dân cư sống trong khu vực thành thị. Thành phố Hồ Chí Minh có một phần ba là dân nhập cư từ các tỉnh khác. Cơ cấu dân tộc, người Kinh 6.699.124 người chiếm 93,52% dân số thành phố, tiếp theo tới người Hoa với 414.045 người chiểm 5,78%, còn lại các dân tộc Chăm 7.819 người. Khmer 24.268 người...Tổng cộng có đến 52/54 dân tộc được công nhân tại Việt Nam có người cư trú tại thành phố. Ngoài ra, còn có 1.128 người được phân loại là người nước ngoài có nguồn gốc từ các quốc gia khác nhau ( India, Pakistan, Indonesia, Pháp..). Những người Hoa ở Tp Hồ Chí Minh cư trú khắp các quận huyện nhưng tập trung nhiều nhất ở quận 5,6,8,10,11 và có những đóng góp đáng kể cho nền kinh tế thành phố. Cũng theo số liệu điều tra dân số năm 2009, 1.983.048 người ( 27,68% tổng số dân thành phố) kê khai có tôm giáo; trong đó những tôn giáo có nhiều tín đồ là : Phật giáo 1.164.930 người chiếm 16,26%, Công giáo có 745.283 người chiếm 10,4%, Cao đài 31.633 người chiếm 0.44%, Tin lành 27.016 người chiếm 0,37%. Hồi giáo 6.580 người chiếm 0,09%. Sự phân bố dân cư ở TP Hồ Chí Minh không đồng đều, ngay cả các quận nội ô. Trong khi các quận 3,4,5 hay 10, 11 có mật độ lên tới 40.00 người/km2 thì các quận 2, 9,12 chỉ khoảng 2.00 tới 6.000 người/km2. ở các huyện ngoại thành, mật độ dân số rất thấp như Cần Giờ chỉ có 96 người/km2. Về mức độ gia tăng dân số, trong khi tỷ lệ tăng tự nhiên 1,07% thì tỷ lệ tăng cơ học lên tới 1,9%. Theo ước tính năm 2005, trung bình một ngày có khoảng 1 triệu khách vãn lai tại Tp Hồ Chí Minh. Đến năm 2010 con số này lên đến 2 triệu Mặc dù Tp Hồ Chí Minh có thu nhập bình quân đầu người rất cao so với mức bình quân của cả Việt nam nhưng khoảng cách giàu nghèo ngày càng lớn do những tác động của nền kinh tế thị trường. Những người hoạt động trong lĩnh vực thương mại cao hơn nhiều so với ngành sản xuất. Sự khac biệt xã hội vẫn còn thể hiện rõ giữa các quận nội ô so với các huyện ngoại thành. Y tế Thành phố Hồ Chí minh vơi dân số đông, mật độ cao trong nội thành, cộng thêm một lượng lớn dân vãng lai, đã phát sinh nhu cầu lớn về y tế và chăm sóc sức khỏe. Các tệ nạn xã hội như mại dâm, ma túy, tình trạng ô nhiễm môi trường... gây ảnh hưởng lớn tới sức khỏe dân cư thành phố. Những bệnh truyền nhiễm phổ biến ở các nước đang phát triển như: sốt rét, sốt xuất huyết, tả, thương hàn... hay các bệnh của những quốc gia công nghiệp phát triễn như : tim mạch, tăng huyết ao, ung thư, tâm thần, bệnh nghề nghiệp... đều xuất hiện ở Tp Hồ Chí Minh. Tuổi thọ trung bình của nam giới là 71,19 còn ở nữ giới là 75. Giáo dục Hệ thống các trường từ bậc mầm non tới trung học trải đều khắp thành phố. Trong khi đó, những cơ sở xóa mù chữ, phổ cập giáo dục tập trung chủ yếu vào bốn huyện ngoại thành Củ Chi, Bình Chánh, Nhà Bè, Cần Giờ. Các trường ngoại ngữ ở Tp Hồ Chí Minh không chỉ giảng dạy những ngôn ngữ phổ biến mà còn một trường dạy quốc tế ngữ, một trường dạy Hán Nôm, bốn trường dạy tiếng việt cho người nước ngoài. Tp Hồ Chí Minh hiện nay cũng có 40 trường quốc tế do các lãnh sự quán, cpp ty giáo dục đầu tư. Giáo dục bậc đại học, trên địa bàn thành phố có trên 80 trường, đa số do Bộ Giáo Dục và Đào Tạo quản lý, trong đó chỉ có 2 trường đại học công lập (Trường Đại Học Sài Gòn và Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch) do thành phố quản lý. Là thành phố lớn nhất Việt Nam, thành phố Hồ Chí Minh cũng là trung tâm giáo dục bậc đại học lớn bậc nhất cùng với Hà Nội, đại học Quốc Gia Thành Phố Hồ Chí Minh với năm đại học thành viên. Nhiều đai học lớn khác của thành phố như: đại học Kiến Trúc, đại học Y Dược, đại học Ngân Hàng, đại học Luật, đại học Bách Khoa, đại học Kinh Tế.... đều là các đại học quan trọng của Việt Nam. Trong số học sinh, sinh viên đang theo học tại các trường đại học, cao đẳng của thành phố, 40% đến từ các tỉnh khác của cả nước. CHƯƠNG 2. TỔNG QUAN VỀ NHÀ VỆ SINH 2.1 Định nghĩa nhà vệ sinh và nhà vệ sinh công cộng Theo Bách khoa toàn thư mở: “ công trình vệ sinh là nơi mà trong đó có hệ thống thải dành cho các chất thải cơ thể như phân, nước tiểu.” Bộ luật về sức khỏe môi trường của Singapore định nghĩa: nhà vệ sinh công cộng là nhà vệ sinh ở siêu thị, chợ búa, nơi ăn uống (nhà hàng, quán ăn, quán cà phê...), các trung tâm hội nghị, nhà hát, rạp chiếu phim, công viên, trạm đổ xăng, sân vận động, hồ bơi công cộng ... 2.2 Phân loại nhà vệ sinh Có 3 dạng nhà vệ sinh chủ yếu được sử dụng hiện nay gồm: nhà vệ sinh tự hoại, nhà vệ sinh tự thấm, nhà vệ sinh dạng khô. Ưu nhược điểm của mỗi loại nhà vệ sinh được trình bày ngắn g

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docBao cao de tai NVSCC final 3-7-2011.doc
  • docbìa.doc
  • doccam đoan.doc
  • pdfTONG HOP BAO CAO DE AN TOT NGHIEP.pdf
Tài liệu liên quan