Bức tranh nhiều mảnh ghép của hệ thống ngân hàng Việt Namcho thấy còn rất
nhiều điều phải làm. Với lợi thế đi sau, phần đông có cùng suy nghĩ ngành ngân
hàng Việt Nam có thể "đi tắt, đón đầu'' và nhanh chóng làm chủ các công nghệ
kiếm tiền tiên tiến nhất. Các sản phẩm cho vay bán lẻ, thu phí thanh toán và phổ
cập sử dụng thẻ tín dụng. được xem như tương lai và tiềm năng đột phá. Có thể
không phải vậy khi nhìn vào quá trình phát triển hệ thống ngân hàng quốc tế từ khi
những hoạt động tín dụng manh nha được hình thành vào thế kỷ 18 trước Công
nguyên.
Những dịch vụ ngân hàng đầu tiên không dành cho đông đảo người dân bình
thường. Các hoàng tộc, vương triều và một số ít nhà buôn giàu mới là đối tượng
phục vụ của ngân hàng nguyên thủy.
Ngân hàng là tổ chức tài chính nhận tiền gửi vàcung cấp các khoản vay. Những
ngân hàng đầu tiên được biết tới trong lịch sử nhân loại là các đền thờ cổ đại.
22 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1395 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Báo cáo Lịch sử ngành ngân hàng thế giới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lịch sử ngành ngân hàng thế giới
Bức tranh nhiều mảnh ghép của hệ thống ngân hàng Việt Nam cho thấy còn rất
nhiều điều phải làm. Với lợi thế đi sau, phần đông có cùng suy nghĩ ngành ngân
hàng Việt Nam có thể "đi tắt, đón đầu'' và nhanh chóng làm chủ các công nghệ
kiếm tiền tiên tiến nhất. Các sản phẩm cho vay bán lẻ, thu phí thanh toán và phổ
cập sử dụng thẻ tín dụng... được xem như tương lai và tiềm năng đột phá. Có thể
không phải vậy khi nhìn vào quá trình phát triển hệ thống ngân hàng quốc tế từ khi
những hoạt động tín dụng manh nha được hình thành vào thế kỷ 18 trước Công
nguyên.
Những dịch vụ ngân hàng đầu tiên không dành cho đông đảo người dân bình
thường. Các hoàng tộc, vương triều và một số ít nhà buôn giàu mới là đối tượng
phục vụ của ngân hàng nguyên thủy.
Ngân hàng là tổ chức tài chính nhận tiền gửi và cung cấp các khoản vay. Những
ngân hàng đầu tiên được biết tới trong lịch sử nhân loại là các đền thờ cổ đại.
Nơi cất trữ an toàn: thế kỷ 18 trước công nguyên
Vào khoảng ba nghìn năm trước Công nguyên. Hình thức ngân hàng sơ khai được
nhiều nhà sử học cho rằng đã hình thành trước khi con người phát minh ra tiền.
Ban đầu, tài sản gửi tại "ngân hàng'' là các loại ngũ cốc, sau đó là gia cầm, nông
sản, rồi đến kim loại quý như vàng. Đền thờ là nơi an toàn để cất trữ tài sản. Đó là
các công trình được xây dựng kiên cố, thường xuyên có người tới hành lễ. Và xét
về tâm linh thì ngay những tên trộm táo tợn nhất cũng có ý tránh chốn linh thiêng
này.
Tại Ai Cập và Mesopotamia, vàng được gửi vào các đền thờ. Nhưng những tài sản
quý giá này lại ngủ yên trong đó, trong khi, ở bên ngoài xã hội, các nhóm thương
nhân và hoàng tộc lại rất cần sử dụng chúng. Các nhà khảo cổ học tìm được những
tàng tích cho thấy tới đầu thế kỷ 18 trước công nguyên, tại Babylon, dưới thời trị
vì của Hammurabi, thầy tu trông giữ đền thờ bắt đầu cho các nhà buôn mượn tài
sản cất trữ trong đền. Khái niệm ngân hàng ra đời.
Hy Lạp và La Mã: thế kỷ thứ 4 trước công nguyên
Người Hy Lạp cổ đại nắm giữ những bằng chứng xa xưa nhất về hoạt động ngân
hàng. Các ngân hàng của người Hy Lạp vận hành đa dạng và phức tạp hơn bất kỳ
xã hội nào trước đó. Các đền thờ Hy Lạp cũng như các cá nhân và tổ chức hành
chính tại các thành đô đã biết tới những giao dịch tài chính như cho vay, gửi tài
sản, trao đổi tiền tệ, và định giá tiền đúc thông qua xác định khối lượng và mức độ
thuần khiết của kim loại. Thậm chí, người Hy Lạp đã sử dụng các giao dịch tín
dụng ghi sổ. Tại các hải cảng, nơi tập trung nhiều hoạt động giao thương, người
cho mượn tiền viết giấy tín dụng cho người cần sử dụng tiền. Người cầm giấy này
có thể "đổi'' lại thành tiền khi đến thành phố khác. Nhờ vậy mà người ta tránh
được việc phải mang theo một lượng tiền lớn trong các chuyến buôn bán giữa các
thành bang.
Pythius nổi tiếng là người lập ra và điều hành ngân hàng thương nhân (merchant
bank) khắp vùng Tiểu Á đầu thế kỷ thứ 5 trước công nguyên. Nhân vật này được
các nhà sử coi là nhà ngân hàng tư nhân đầu tiên. Một điểm đáng chú ý là tại các
thành bang Hy Lạp, rất đông chủ ngân hàng là người lai hoặc người nước ngoài.
Vào khoảng năm 371 trước công nguyên, Pasion, một nô lệ, đã trở thành nhà ngân
hàng Hy Lạp giàu có và nổi tiếng nhất, đã được tự do và được công nhận tư cách
công dân của Athena. Dường như người Hy Lạp, với trình độ phát triển khoa học
cao, đã xem nhẹ lĩnh vực kinh doanh tiền tệ. Điều này giúp lý giải việc Hy Lạp đạt
tới nền văn minh đỉnh cao từ rất sớm nhưng không có đóng góp hiểu biết đáng kể
trong lĩnh vực kinh tế đương đại.
Hoạt động tín dụng ngân hàng phát triển mạnh mẽ trong thế kỷ thứ 4 trước công
nguyên ở vùng Địa Trung Hải. Tại Ai Cập, từ rất sớm, ngũ cốc đã được sử dụng
như một loại tiền tệ bên cạnh kim loại quý (vàng và bạc). Các kho chứa ngũ cốc
của triều đình thực hiện chức năng của ngân hàng. Khi đế chế Hy Lạp chinh phục
Ai Cập, thời kỳ trị vì của hoàng gia Ptolemies (330-323 B.C.), những kho chứa
nằm rải rác được tổ chức lại thành một hệ thống ngân hàng ngũ cốc, và được quản
lý tập trung tại Alexandria- nơi ghi chép và lưu trữ tài khoản của các tất cả các
ngân hàng ngũ cốc. Mạng lưới ngân hàng này hoạt động như hệ thống tín dụng
thương mại, trong đó, việc thanh toán được thực hiện bằng ghi sổ từ tài khoản này
sang tài khoản khác mà không cần chuyển tiền trên thực tế. Đây chính là bản chất
và hình thức đầu rõ ràng nhất của các nghiệp vụ bù trừ hay thanh toán điện tử của
các ngân hàng hiện đại.
Cuối thế kỷ thứ ba trước Công nguyên, đảo Delos ở vùng đất Aegean cằn cỗi, trở
thành trung tâm ngân hàng quan trọng của vùng Địa Trung Hải. Nơi đây cũng nổi
tiếng với hải cảng sầm uất và đền thờ thần Apollo tráng lệ. Cũng giống như tại Ai
Cập, giao dịch bằng tiền được thay thế bởi các hóa đơn tín dụng và việc thanh toán
được thực hiện dựa trên những chỉ dẫn đơn giản với các tài khoản giữ riêng cho
mỗi khách hàng. Sau khi người La Mã chinh phạt các đối thủ cạnh tranh là
Carthage và Corinth, Delos càng trở nên quan trọng. Hệ thống ngân hàng của
Delos gần như được các ngân hàng ở Rome sao chép lại.
Thành Rome cổ đại đã hoàn thiện các qui tắc và thủ tục hành chính của ngân hàng,
cũng như các tổ chức và giao dịch tài chính. Lãi suất tiền vay và lãi tiền gửi được
sử dụng rộng rãi với kỹ thuật tính toán phát triển và trong môi trường cạnh tranh.
Trong thế kỷ thứ 2 sau Công nguyên, các khoản nợ được coi là đã chính thức
thanh toán sau khi số tiền tương ứng đã chuyển tới ngân hàng. Nhà nước La Mã bổ
nhiệm công chứng viên ghi nhận các giao dịch ngân hàng. Tuy vậy, sự phát triển
của các ngân hàng La Mã gặp phải cản trở lớn từ thói quen sử dụng tiền mặt trong
giao dịch của người La Mã. Trong thời gian trị vì của Gallienus (260-268 sau
Công nguyên), hệ thống ngân hàng La Mã từng bị gián đoạn sau khi các ngân
hàng từ chối tiền bằng đồng mà vị Hoàng đế cho đúc ra.
Khi đế chế La Mã suy vong, các hoạt động thương mại giảm đáng kể nên các ngân
hàng cũng không còn cần thiết. Thêm vào đó, giáo lý Cơ đốc cổ ngăn cấm thực
hiện các giao dịch ngân hàng và coi việc tính lãi (cả với tiền gửi và tiền cho vay)
là không có đạo đức. Sau khi La Mã sụp đổ, hoạt động ngân hàng bị cấm tại tây
Âu và chỉ được phục hồi trở lại vào thời điểm các cuộc thập tự chinh xuất hiện.
Tôn giáo và ngân hàng: thế kỷ 12 và 13
Phần lớn các tôn giáo có nguồn gốc tại vùng Cận Đông không cản trở hành vi cho
vay nặng lãi. Các xã hội này tin rằng những thực thể vô tri giác có đời sống giống
như cây cỏ và động vật, và do đó, cũng có khả năng tự tái tạo. Tại các vùng châu
thổ lưỡng hà (Mesopotamia), vùng đất khởi thủy của đạo Do Thái Hitties, vùng
Canaan và Ai Cập, việc tính lãi vay được coi là hợp pháp và triều đình thường đặt
ra một mức lãi suất cố định. Chỉ có một sự khác biệt trong đạo lý của người Do
Thái. Trong phần cuối của kinh Hebrew, người Do Thái không được tính lãi trong
các khoản vay với người Do Thái. Lãi suất chỉ được áp dụng trong giao dịch với
những kẻ vô thần hoặc không thuộc Do Thái giáo.
Người theo đạo Cơ đốc không được phép cho vay nặng lãi. Và đó là cơ hội cho
các nhà ngân hàng thuộc tôn giáo khác. Khi cuộc Thập tự chinh bắt đầu đầu, các
vương triều châu Âu thịnh vượng cần các hoạt động tài chính. Người Do Thái,
xuất hiện ở hầu khắp các lĩnh vực và nghiệp nghiệp, đáp ứng nhu cầu này. Nhưng
sự thành công của họ, sự hiện hiện đông đảo những người cùng tôn giáo Do Thái
mang lại nhiều nguy hiểm cho chính họ.
Một nhóm khác cũng nổi lên trong thời kỳ này là các Hiệp sĩ thánh chiến (Knights
Templar), những người sau vài năm đã trở thành các nhà ngân hàng hùng mạnh ở
khắp châu Âu và Trung Đông. Cũng giống như người Do Thái, các Hiệp sĩ có
những nghi lễ tôn giáo riêng và dễ dàng trở thành nạn nhân của lời đồn tai tiếng,
ngờ vực và ruồng bố.
Việc kinh doanh ngân hàng mang lại nhiều lợi nhuận dần được chuyển sang tay
`những người anh em' có nguồn gốc Cơ đốc giáo, được biết tới đầu tiên là những
người Lombards. Lombard, tiếng Latinh viết là Langobardi, còn được gọi biết tới
với tên Langobards hay Longobards, là nhóm người có nguồn gốc chủng tộc
German, đến từ phía bắc châu Âu và định cư tại vùng lưu vực sông Danube. Tới
năm 568, dưới sự chỉ huy của vua Alboin tiến vào nước Italia và lập nên Vương
triều riêng, tồn tại tới năm 774. Hậu duệ của người Lombards, các thương nhân tại
Genoa, Milan, Venice và Florence là những người đầu tiên lập nên hệ thống ngân
hàng hiện đại và đưa và thực hành các nghiệp vụ quan trọng.
Ngân hàng cho các Hoàng đế châu Âu: thế kỷ 13 và 14
Trong suốt thế kỷ 13, các nhà ngân hàng ở bắc Italy, được biết tới tên gọi chung
''những người Lombards'', dần thay thế vai trò của người Do Thái trong hoạt động
truyền thống: cung cấp tiền bạc cho những người giàu có và quyền lực, các hoàng
gia châu Âu. Kỹ năng kinh doanh của ngân hàng được phát triển với phát kiến về
nghiệp vụ ghi sổ kép và cách thức bù trừ nghĩa vụ tín dụng của khách hàng trên
ghi chép sổ sách giữa các ngân hàng trong hệ thống, vốn được các ngân hàng ở
Genoa áp dụng từ thế kỷ 12. Cách thức kế toán sáng tạo này giúp họp tránh được
``tội lỗi'' cho vay nặng lãi được qui định trong giáo lý Cơ đốc. Lợi nhuận của
khoản vay được ghi trong các tài khoản dưới dạng quà tặng tự nguyện của người
vay hoặc phần thưởng cho những rủi ro mà nhà ngân hàng đã trải qua. Hẳn nhiên,
những món quà và phần thưởng của các hoàng tộc đứng đầu châu Âu không bao
giờ có giá trị nhỏ.
Các ngân hàng tại Siena và Lucca, Milan và Genoa đều thu lợi từ những thương
vụ mới này. Nhưng xứ Florence mới thực sự chiếm phần lớn nhất. Hệ thống ngân
hàng Florence thống lĩnh hệ thống tài chính quốc tế nhờ đồng tiền vàng florin nổi
tiếng. Được đúc lần đầu tiên vào năm 1252, đồng florin nhanh chóng nhận được
sự tín nhiệm và công nhận rộng rãi, thực sự trở thành đồng tiền mạnh (hard
currency) vào thời đó.
Tới đầu thế kỷ 14, hai dòng họ Bardi và Peruzzi là những người giàu có nhất tại
Florence nhờ vào việc cung cấp các dịch vụ tài chính. Họ tổ chức việc thu và
chuyển tiền dựa trên các hệ thống phong kiến quyền lực nhất, đặc biệt là nhờ Đức
Giáo hoàng. Hoạt động buôn bán và trao đổi hàng hóa trở nên thuận tiện với
những hóa đơn trao đổi (bill of exchange) mà nhà Bardi và Peruzzi cấp cho các
thương nhân. Khi xuất trình những hóa đơn này, thương nhân có thể nhận được
tiền ở bất kỳ ngân hàng trong hệ thống. (Đây là hình thức tương đồng với việc sử
dụng cheque ngày nay).
Các ngân hàng xứ Florence đảm bảo dịch vụ này nhờ số lượng chi nhánh ở khắp
nước Italia và tại các trung tâm buôn bán lớn của châu Âu. Tới đầu thế kỷ 14, hệ
thống ngân hàng Bardi đã hiện diện tại Barcelona, Seville và Majorca; Paris,
Avignon, Nice và Marseilles; London, Bruges, Constantinople, Rhodes, Cyprus và
Jerusalem.
Quyền lực của xứ Florence còn được củng có bởi những khoản nợ lớn mà các chủ
ngân hàng ở đây đang nắm giữ. Con nợ, không ai xa lạ, chính là các vị Hoàng đế
uy quyền bậc nhất châu Âu. Cũng chính vì lẽ đó, không lâu sau, các ngân hàng
này rơi vào cảnh tồi tệ.
Năm 1340, vua Edward III của nước Anh thực hiện thương vụ cực kỳ tốn kém:
cuộc chiến với nước Pháp, sự khởi đầu của một thế kỷ chiến tranh. Vị Hoàng đế
vay rất nhiều tiền từ xứ Florence. Nhà Peruzzi cho vua Edward III vay 600.000
florin vàng còn nhà Bardi cung cấp khoản vay 900.000 florin vàng. Tới năm 1345,
nhà vua vỡ nợ và cả hai dòng họ ngân hàng Florence cũng lâm vào cảnh phá sản.
Tuy vậy, vai trò trung tâm ngân hàng châu Âu của xứ Florence vẫn tiếp tục sau
thảm họa này. Nửa thế kỷ sau, những gia tài lớn nhất lại được các gia tộc ngân
hàng ở đây tạo dựng. Lần này hai dòng họ lừng danh của thế kỷ 15: Pazzi và
Medici.
Đế chế Fugger: thế kỷ 15-16
Vào đầu thế kỷ 15, nhà Medici xứ Florence là đế chế ngân hàng lớn nhất châu Âu.
Về sau, vì theo đuổi quyền lực chính trị, nhà Medici đã không tập trung cao nhất
cho các hoạt động kinh doanh tạo ra tiền. Sau Lorenzo Vĩ đại, tình trạng tài chính
của gia tộc ngày càng trở nên tồi tệ.
Một trong những cái tên được biết tới nhiều nhất trong thời kỳ đầu của lịch sử
ngân hàng thế giới là dòng họ Medici ở xứ Florence. Xuất thân từ những người
nông dân, rồi tham gia các hoạt động buôn bán và ngân hàng, dòng họ Medici dần
trở thành một trong các gia đình quyền lực nhất châu Âu trong suốt thời gian từ
giữa thế kỷ 14 đến 1748. Dưới sự dẫn dắt của Giovanni Medici từ đầu thế kỷ 15 và
sau đó là Cosimo, dòng họ xứ Toscan (thuộc Italia) dần mở rộng các hoạt động
ngân hàng ra ngoài ranh giới xứ Florence với các chi nhánh tại Milan, Geneva,
Bruges, Ancona, Pisa, London và Avignon. Chi nhánh tại Rome quản lý tài khoản
của Đức giáo hoàng.
Tại Florence, ngân hàng Medici nhận tiền gửi của những người Florence giàu có.
Các khoản tiền gửi này có thể được rút ra theo định kỳ từ ba tháng đến một năm và
hưởng mức lãi suất khoảng 10 phần trăm mỗi năm. Dòng họ Medici cũng dần
quản lý xứ Florence, thể hiện sức mạnh kết hợp giữa tài chính và chính trị. Sự kết
hợp này đã vô cùng hữu ích vào năm 1452 khi cả hai xứ Naples và Venice gây
chiến với Florence. Đối mặt cùng lúc với hai mối hiểm hoạ, Cosimo đã cho đòi
các khoản nợ tại hai thành phố thù địch khiến cho chiến tranh không thể nổ ra bởi
hai thành phố này không còn đủ nguồn tài chính để thuê quân lính.
"Dòng họ Medici đạt tới đỉnh cao dưới thời Lorenzo (1449-1492), cháu trai của
Cosimo. Lorenzo được coi là hình ảnh mẫu mực của một quý ông thời kỳ Phục
Hưng. Ông là người trị vì xứ Florence, nhà thơ, học giả, một người say mê nghệ
thuật, và một chủ ngân hàng. Danh tiếng này, tuy vậy, cũng có giá của nó. Dưới
thời kỳ Lorenzo, dòng họ Medici đã cho vua nước Anh Edward IV vay tiền để tài
trợ cho Cuộc chiến Hoa hồng (Wars of the Roses). Khi vị vua nước Anh không thể
trả nợ, ngân hàng đã bị mất một số tiền lớn và buộc phải đóng cửa chi nhánh tại
London. Dòng họ Medici cũng tham gia tích cực các hoạt động chính trị tại Nhà
thờ Thiên chúa Giáo, và rất có uy tín với các thế lực ngầm. Dòng họ Medici luôn
là những chủ ngân hàng đầy thủ đoạn, sẵn sàng tận dụng mọi cơ hội để loại bỏ đối
thủ cạnh tranh.
Dòng họ Medici bắt đầu suy yếu từ thế kỷ 16 khi xứ Florence bị xâm lược nhiều
lần. Vào thế kỷ 16, ngân hàng Medici thoát khỏi cảnh phá sản nhờ sự giúp đỡ của
Fuggers, một ngân hàng lớn ở miền nam nước Đức. Đến thế kỷ 18, ngân hàng
Medici chỉ còn là cái bóng mờ nhạt của chính mình. Nhưng tên tuổi của dòng họ
Medici và ngân hàng Medici xứ Florence còn mãi trong lịch sử ngân hàng thế
giới."
--Jane E. Hughes và Scott B. MacDonald, 2002. International Banking: Text
and Cases.
Nhà Medici sau cùng cũng nhận được tước hiệu Công tước xứ Florence nhưng vị
trí đứng đầu ngành ngân hàng đã lọt vào tay ngân hàng Đức- dòng họ Fugger.
Cũng giống như nhà Medici, nhà Fugger tích lũy gia sản khổng lồ bằng việc chăm
sóc tài chính cho Giáo hoàng và các hoàng tộc.
Quyền lực của châu Âu được chuyển về Habsburgs, nơi gia đình Fugger sinh
sống, cuối thế kỷ 15. Tổ tiên nhà Fugger làm nghề dệt vải tại Augsburg và những
tài sản đầu tiên của gia đình đều năm trong ngành dệt. Người vay tiền nhà Fugger
đầu tiên là một hoàng tử Habsburgs vào năm 1487, với khoản đảm bảo là mỏ đồng
và bạc ở vùng Tirol. Kể từ đó, gia tộc này mở rộng và phát triển các hoạt động
khai mỏ và kim loại quý. Năm 1491, Maximilian, lúc này còn là hoàng tử của
vương triều Roman Thần thánh, nhận khoản vay đầu tiên từ nhà Fugger và đảm
bảo bằng các quyền lợi kinh tế thu được từ hai lãnh đại tại Áo. Sau khi lên ngôi
hoàng đế ở Habsburgs, Maximilian vẫn tiếp tục phải vay tiền của gia tộc Fugger.
Người vay nhiều tiền nhất từ nhà Fugger là cháu nội của Maximilian, vua nước
Đức Charles. Thừa hưởng từ cha ông ngai vàng của nước Đức và vương triều
Roman nhưng để giữ tước vị, Charles phải cạnh tranh với Hoàng đế nước Pháp,
Francis Đệ nhất. Để có tiền trang trải cho cuộc tranh cử, Charles tìm đến nhà
Fugger. Một lượng tiền khổng lồ đã được sử dụng để hối lộ bảy người bỏ phiếu:
852.000 florin. Gần hai phần ba số tiền này do nhà Fugger tài trợ (544.000 florin).
Chiến dịch vận động tranh cử thắng lợi. Charles V đăng quang.
Thời gian đó, mức lãi suất không bao giờ ở dưới 12%/năm. Và với một khoản vay
nóng, nhà ngân hàng ở thế kỷ 16 dễ dàng nâng mức lãi suất lên 45%. Cung cấp
dịch vụ ngân hàng cho các hoàng đế mang lại lợi nhuận.
Các cuộc chiến liên tiếp và những khoản chi tiêu của vương triều đều đặn làm suy
kiệt tài chính của Hoàng đề Charles. Cũng giống như những người đang trị vì các
quốc gia châu Âu vào thời kỳ đó, chi phí của Charles V vượt xa những nguồn lợi
có thể thu được. Phần chênh lệch được bù đắp bằng các khoản vay ngân hàng và
thường được hoàn trả bằng cách nhượng lại những nguồn thu lợi của hoàng gia.
Nhờ đó, nhà Fugger được trao toàn quyền hưởng số lợi tức từ Tây Ban Nha cùng
các mỏ bạc và thủy ngân vào năm 1525. Nhà ngân hàng này, từ đó, giữ vị thế đồng
thời là người thu lợi tức và người quản lý tài sản của vương triều. Nhưng mức lãi
suất cao của họ có thể nhanh chóng phá tan một vương quốc đã tham giá quá
nhiều cuộc chiến không mang lại lợi nhuận.
"Dòng họ Fugger. Fugger là một trong các dòng họ nổi tiếng nhất trong ngành
ngân hàng tại Đức vào giữa thời kỳ Trung cổ. Cuối thế kỷ 15, dòng họ Fugger nổi
lên như một gia đình buôn bán có thế lực tại thành phố Augsburg, và thường được
nhắc tới như những người chủ ngân hàng chuyên phục vụ dòng họ Hapsburg. Năm
1487, Jakob Fugger (1459-1525) cho Sigismund- Hoàng tử xứ Tyrol- vay 20.000
duca (đồng tiền vàng cổ châu Âu). Để đảm bảo cho khoản vay, vị lãnh chúa dòng
họ Hapsburg đã trao cho Jakob quyền kiểm soát các mỏ bạc tốt nhất vùng Schwarz
và toàn bộ doanh thu thuế của tỉnh Tyrol. Thời kỳ đó, nhu cầu sử dụng bạc rất lớn
nhằm phục vụ công việc chế tác các đồ trang sức tinh xảo. Bạc cũng là phương
tiện thanh toán, trao đổi xếp thứ hai sau vàng. Quyền kiểm soát các nguồn lực này
vừa mang lại nguồn lợi khổng lồ vừa củng cố sức mạnh tài chính của dòng họ
Fugger.
Với một khoản vay khác cho Hoàng tử Sigismund năm 1488, dòng họ Fugger đã
có quyền kiểm soát hoạt động khai thác bạc trên toàn bộ lãnh thổ. Khi kế tục
Sigismund nắm quyền cai quản Tyrol, năm 1490, Maximilian tiếp tục duy trì mối
quan hệ tín dụng này. Ngay sau đó, năm 1491, Maximilian có thêm một khoản vay
mới từ dòng họ Fugger nhằm tài trợ cho cuộc chiến thống nhất các lãnh địa thuộc
dòng họ Hapsburg. Maximilian trở thành Hoàng đế của Đế chế Roman (Holy
Roman Empire) vào năm 1493. Gia đình Fugger có một người bạn đầy quyền lực
và một khách hàng gắn bó.
Đến năm 1508, công việc kinh doanh của dòng họ Fugger đã trải khắp châu Âu
với các hoạt động đầu tư trong lĩnh vực dệt may, buôn bán hạt tiêu, bất động sản,
và khai thác mỏ bạc và đồng. Ngân hàng Fugger cũng tham gia tài trợ cho các
cuộc viễn chinh tại châu Mỹ. Hệ thống kinh doanh quốc tế của gia đình Fugger
cho phép họ cung cấp thêm một dịch vụ mới cho vương triều Hapsburg, khi đế chế
này mở rộng và nằm rải rác ở nhiều vùng địa lý trên khắp lục địa châu Âu. Các
lãnh địa chư hầu có nghĩa vụ nộp tiền cho vương triều Hapsburg. Họ thực hiện
nghĩa vụ của mình bằng nhiều đồng tiền khác nhau và việc vận chuyển thường tốn
rất nhiều thời gian và nguy hiểm. Kết quả là việc sử dụng hệ thống của gia đình
Fugger sẽ vô cùng tiện lợi cho hoàng gia. Với các lệnh chuyển đổi, tiền sẽ được
chuyển tới Augsburg chỉ trong vòng hai tuần. Có thể hình dung một cách đơn
giản, đại diện của gia định Fugger tại Antwerp nhận tiền và phát hành một giấy
ghi nhận tín dụng. Giấy chứng nhận này sẽ nhanh chóng được chuyển tới Đức và
đổi thành tiền mặt tại ngân hàng Fugger ở Augsburg .
Gia tài của dòng họ Fugger, tuy vậy, cũng trở nên gắn bó vô cùng mật thiết với các
hoạt động của khách hàng lớn nhất, vương triều Hapsburg. Dưới thời Charles V,