Ngày nay, khoa học và công nghệnano được xem là lĩnh vực công nghệmới. 
Ngành khoa học này phát triển rất nhanh chóng chếtạo ra vật liệu có kích thước rất bé 
(trong khoảng từ0.1 – 100nm ). Loại vật liệu này có nhiều tính chất mới lạdo hiệu ứng 
kích thước. 
Chếtạo hạt nano có kích thước theo yêu cầu và phân bốhẹp là mục tiêu của các 
công trình nghiên cứu. Vì, trong vật liệu nano thông sốkích thước là rất quan trọng ảnh 
hưởng đến đặc tính của chúng do sựthay đổi diện tích tiếp xúc bềmặt. 
Ởkích thước nano, bạc tăng hoạt tính sát khuẩn lên gấp 50000 lần so với ởkích 
thước ion. Các hạt nano bạc tiêu diệt tất cảcác bệnh nhiễm nấm, vi khuẩn và vi rút, kểcả
các chủng vi khuẩn kháng sinh. Tuy nhiên, không phải các loại thuốc kháng sinh đều có 
hiệu quả đối với tất cảcác loại vi khuẩn. Ngoài ra, nghiên cứu còn chỉra rằng, vi khuẩn 
không thểphát triển bất kỳkhảnăng miễn dịch nào đối với bạc. Bạc xuất hiện một cách 
tựnhiên, không độc, không dị ứng, không tích tụvà vô hại đối với cả động vật hoang dã 
và môi trường. 
Bạc, và các trạng thái oxi hóa của nó (Ag
0
, Ag
+
, Ag 
2+
, và Ag 
3+
) đã được thừa 
nhận khảnăng ngăn chặn sự ảnh hưởng của nhiều loại vi khuẩn và vi sinh vật thường có 
mặt trong y học và công nghiệp. Là một trong những vật liệu có hoạt tính khửtrùng, diệt 
khuẩn mạnh và ít độc tính với mô động vật [29]. 
Việc kết hợp giữa các loại polymer với các hạt nano Ag nhằm mục đích tạo ra một 
loại vật liệu mới, khai thác những tính chất vật lý, hóa học, sinh học, đặc thù. Ví dụ: một 
sốtính chất quang, nhiệt, điện ,từtính, hay xúc tác. Vì vậy, hạt nano kim loại có khả
năng ứng dụng trong nhiều lĩnh vực nhưbán dẫn, xúc tác, vật l ý lượng tử, y học, sinh học, 
mội trường, công nghệhóa học, công nghệthực phẩm và bao bì, [30]. 
Polyvinylancol sửdụng đểtạo nanocomzit bởi tính công nghệthuận lợi như: dễgia 
công, ổn định tốt đối với các hạt kim loại nhỏ, nó có tác dụng bảo vệcũng nhưngăn ngừa 
sựkết tụvà lắng đọng [30].
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 72 trang
72 trang | 
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1613 | Lượt tải: 1 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Báo cáo Nghiên cứu quy trình tổng hợp hạt nano bạc hình thành vật liệu nanocompozit bằng phương pháp khửhóa học ion Ag + trong môi trường polyvinylancol (PVA)Ag/PVA, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
-1- 
MỞ ĐẦU 
1. Tính cấp thiết của đề tài 
Ngày nay, khoa học và công nghệ nano được xem là lĩnh vực công nghệ mới. 
Ngành khoa học này phát triển rất nhanh chóng chế tạo ra vật liệu có kích thước rất bé 
(trong khoảng từ 0.1 – 100nm ). Loại vật liệu này có nhiều tính chất mới lạ do hiệu ứng 
kích thước. 
Chế tạo hạt nano có kích thước theo yêu cầu và phân bố hẹp là mục tiêu của các 
công trình nghiên cứu. Vì, trong vật liệu nano thông số kích thước là rất quan trọng ảnh 
hưởng đến đặc tính của chúng do sự thay đổi diện tích tiếp xúc bề mặt. 
Ở kích thước nano, bạc tăng hoạt tính sát khuẩn lên gấp 50000 lần so với ở kích 
thước ion. Các hạt nano bạc tiêu diệt tất cả các bệnh nhiễm nấm, vi khuẩn và vi rút, kể cả 
các chủng vi khuẩn kháng sinh. Tuy nhiên, không phải các loại thuốc kháng sinh đều có 
hiệu quả đối với tất cả các loại vi khuẩn. Ngoài ra, nghiên cứu còn chỉ ra rằng, vi khuẩn 
không thể phát triển bất kỳ khả năng miễn dịch nào đối với bạc. Bạc xuất hiện một cách 
tự nhiên, không độc, không dị ứng, không tích tụ và vô hại đối với cả động vật hoang dã 
và môi trường. 
Bạc, và các trạng thái oxi hóa của nó (Ag0, Ag+, Ag 2+, và Ag 3+) đã được thừa 
nhận khả năng ngăn chặn sự ảnh hưởng của nhiều loại vi khuẩn và vi sinh vật thường có 
mặt trong y học và công nghiệp. Là một trong những vật liệu có hoạt tính khử trùng, diệt 
khuẩn mạnh và ít độc tính với mô động vật [29]. 
Việc kết hợp giữa các loại polymer với các hạt nano Ag nhằm mục đích tạo ra một 
loại vật liệu mới, khai thác những tính chất vật lý, hóa học, sinh học, đặc thù. Ví dụ: một 
số tính chất quang, nhiệt, điện ,từ tính, hay xúc tác... Vì vậy, hạt nano kim loại có khả 
năng ứng dụng trong nhiều lĩnh vực như bán dẫn, xúc tác, vật l ý lượng tử, y học, sinh học, 
mội trường, công nghệ hóa học, công nghệ thực phẩm và bao bì,…[30]. 
Polyvinylancol sử dụng để tạo nanocomzit bởi tính công nghệ thuận lợi như: dễ gia 
công, ổn định tốt đối với các hạt kim loại nhỏ, nó có tác dụng bảo vệ cũng như ngăn ngừa 
sự kết tụ và lắng đọng [30]. 
-2- 
2. Cơ sở khoa học của đề tài: 
Đề tài được tiến hành dựa trên các kết quả nghiên cứu tổng hợp nano bạc và thử 
nghiệm hiệu lực diệt vi khuẩn, nấm bệnh của chúng bởi các công trình đã công bố. 
Hiện nay, nano bạc được chế tạo bằng nhiều phương pháp. Trong đó có phương 
pháp khử hóa học trong môi trường polyme hình thành vật liệu nanocompozit. Sản phẩm 
có khả năng tiêu diệt vi khuẩn, nấm bệnh và vi rút cao. 
3. Mục tiêu của đề tài: 
Nghiên cứu quy trình tổng hợp hạt nano bạc hình thành vật liệu nanocompozit 
bằng phương pháp khử hóa học ion Ag+ trong môi trường polyvinylancol (PVA)Ag/PVA. 
Khảo sát các yếu tố ảnh hưởng tới kích thước và sự phân bố của hạt nano bạc, nghiên cứu 
các tính chất hóa lý đặc thù của vật liệu. 
4. Nội dung nghiên cứu: 
Nội dung của luận án bao gồm: 
- Bằng phương pháp khử hóa học xây dựng quy trình tổng hợp nanocompozit 
Ag/PVA với chất khử hydrazin hydrat và sử dụng natri citrat như là tác nhân trợ phân bố 
tới sự hình thành hạt nano bạc. 
- Khảo sát sự ảnh hưởng của hàm lượng AgNO3, natri citrat tới kích thước và sự 
phân bố của hạt nano bạc trong nanocompozit. 
- Nghiên cứu các tính chất hóa lý của vật liệu: tính chất quang học, cấu trúc, kích 
thước và sự phân bố của hạt nano bạc, tính chất nhiệt của vật liệu. 
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài 
Kết quả của luận án sẽ là cơ sở khoa học cho những nghiên cứu tiếp theo của việc 
chế tạo hạt nano kim loại bằng phương pháp khử hóa học. Các kết quả của luận án cũng là 
cơ sở cho các nghiên cứu ứng dụng tiếp theo của nano bạc như chất sát khuẩn trong y tế, 
môi trường, thực phẩm, xúc tác hóa học, chất trừ nấm bệnh trong nông nghiệp… 
-3- 
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN 
1.1. Tổng quan 
 1.1.1. Compozit [1] 
Vật liệu compozit hay compozitlà vật liệu tổng hợp từ hai hay nhiều vật liệu khác 
nhau tạo nên vật liệu mới có tính năng hơn hẳn các vật liệu ban đầu, khi những vật liệu 
này làm việc riêng rẽ. 
 Những thành phần của vật liệu nanocompozit bao gồm: Thứ nhất, thành phần cốt 
(các sợi, hạt...) nhằm đảm bảo compozit có những tính năng cơ học cần thiết. Thứ hai, 
thành phần nền kết dính nhằm đảm bảo cho sự liên kết và làm hài hòa giữa các thành 
phần của compozit với nhau. Khả năng khai thác của vật liệu compozit phụ thuộc trước 
hết vào đặc tính cơ, lý, hóa của các thành phần, cấu trúc phân bố của vật liệu cốt cũng như 
độ bền vững liên kết giữa nền và cốt. 
 Thông thường, thành phần cốt đảm bảo cho vật liệu compozit có độ cứng độ bền 
cơ học cao. Còn chất liệu nền không những đảm bảo cho các thành phần compozit liên kết 
hoài hòa với nhau đảm bảo tính liền khối của vật liệu, tạo ra kết cấu compozit phân bố lại 
chịu tải khi một phần cốt đã bị đứt gãy để đảm bảo tính liên tục của kết cấu mà chất liệu 
nền cũng chịu một phần lớn khả năng chịu nhiệt chịu ăn mòn của vật liệu và cũng chính 
vật lệu nền là cơ sở để xác định phương thức công nghệ chế tạo sản phẩm. 
Ngoài hai thành phần cơ bản trên thì trong vật liệu compozit còn có các phụ gia 
khác như chất xúc tác, chất xúc tiến, chất tạo màu... 
Vật liệu composite có nhiều tính năng tốt là nhẹ, bền, cơ tính cao, chịu nhiệt, chịu 
hóa chất và giá thành phù hợp nên được sử dụng rất rộng rãi. Hầu hết, vật liệu compozit 
được ứng dụng trong các lĩnh vực như giao thông vận tải, xây dựng, công nghiệp, y tế, 
hàng không, vũ trụ.. 
-4- 
1.1.2. Nanocompozit Kim loại/polyme 
Nano kim loại/polyme: là loại vật liệu mà trong đó polyme đóng vai trò như một 
chất bao bọc bên ngoài và ổn định hạt kim loại bên trong, thể hiện nhiều tính năng khác 
nhau (thể hiện tính năng cơ tính: bền nhiệt hay không bền nhiệt; tính năng ưa nước hay kỵ 
nước, thể hiện tính năng điện tính: dẫn điện hay không dẫn điện). [24] 
Công nghệ chế tạo có nanocompozit kim loại/polyme có thể chia thành phương 
pháp in-situ và ex -situ: 
- Phương pháp in-situ: monome được trùng hợp, ion kim loại được đưa vào trước 
hay sau quá trình trùng hợp. Sau đó ion kim loại trong nền polyme được khử 
bởi tác nhân hóa học, bởi nhiệt hay bức xạ, để hình thành hạt nano. Phương 
pháp này thường không đơn giản và thuận lợi như ex-situ, nhưng cho kết quả 
tốt hơn và có thể điều chỉnh chất lượng sản phẩm vật liệu nanocompozit. [25] 
- Phương pháp ex-situ: hạt nano kim loại được tổng hợp trước, và bề mặt được 
thụ động hữu cơ. Từ đó hạt nano được phân tán vào dung dịch polyme hay dịch 
monome sau đó tiến hành trùng hợp. [25] 
+ Đầu tiên, hạt nano kim loại được chuẩn bị và tránh sự lắng đọng, đồng thời ổn 
định ngay mầm tinh thể. Quá trình được thực hiện bởi sự khử dung dịch muối 
trong dung môi thích hợp. Phương pháp tạo hạt này nhằm ngăn ngừa sự kết tụ 
của các hạt. [25] 
+ Tiếp theo, hạt nano được đưa vào trong polyme. Quá trình được thực hiện do sự 
trộn các hạt nano kim loại với dung dịch của polyme hoặc monome, mà sự 
khuấy trộn này tùy thuộc vào quá trình gia công polyme. Tuy nhiên, phương 
pháp này bị giới hạn bởi sự phân tán. Do đó, quá trình này rất khó có thể thu 
được compozit có sự phân bố tốt và sẽ kết tụ lại. [25] 
 Hiện nay trên thế giới thì phương pháp in-situ được phổ biến và dùng rộng rãi hơn 
phương pháp ex-situ để chế tạo nanocompozit kim loại/polyme. Vì, phương pháp in-situ 
đơn giản, thuận lợi, cho kết quả tốt hơn và có thể điều chỉnh được chất lượng sản phẩm. 
-5- 
1.1.3. Tổng hợp nanocompozit bằng phương pháp khử hóa học [24] 
Phương pháp khử hóa học: là phương pháp được đặc trưng bởi sự phân bố cỡ hạt 
nano hẹp, quá trình tổng hợp đơn giản và hạt nano được ổn định trong hệ tốt. Phương 
pháp khử hóa học dựa vào nhiều tiến trình khử khác nhau và liên quan nhiều đến polyme, 
copolyme.... 
1.1.3.1. Chất khử 
Những chất khử thường dùng là hydro và những hợp chất có chứa hydro 
 Những chất khử hiệu quả cao NaBH4 (chất khử mạnh), LiAlEt3H, Et3SiH (khử 
mạnh, chậm), (EG) ethylene glycol, (DG) diethylene glycol, (TG) triethylene glycol .... 
 1.1.3.2. Phương pháp khử 
Phương pháp tạo mầm: là phương pháp khử hóa học các kim loại trong dung dịch 
muối của chúng. Các kim loại như Cu, Cr, Ag thường được điều chế bằng phương pháp 
Ion kim loại 
Bề mặt Polyme được thay đổi bởi các hạt nano 
Hợp chất keo được ổn định bởi polyme 
Các hạt nano được ổn 
định bởi polyme-tại chổ
monome Phản ứng giữa polymer và Oligome 
Polymer cố định các hạt 
nano và tạo thành cụm
Hạt nano 
Nhóm chức polyme tự do 
-6- 
khử điện hóa hay khử bằng bức xạ hóa học. Trong trường hợp này thực tế một lượng nhất 
định kim loại có thể cho vào polyme. 
Phương pháp khử trong môi trường polyme: phương pháp này bao gồm sự khử các 
phân tử kim loại trong một hỗn hợp tạo với polyme. Hỗn hợp này khoảng 1 – 15% kim 
loại. Sự tập trung của các ion kim loại được giới hạn bởi các nhóm chức của polyme và 
phụ thuộc vào cấu tạo của hỗn hợp tạo thành. Có sự tương tác của hỗn hợp chất khử với 
nền polyme, trong phân tử polyme tồn tại những khoảng trống là nơi chứa đựng và cản trở 
sự gia tăng kích thước của các hạt nano. 
1.2. Tổng quan về nano bạc 
1.2.1. Giới thiệu về công nghệ nano 
1.2.1.1. Khái niệm và sự ra đời của công nghệ nano 
1.2.1.1.1. Khái niệm [2] 
Vật liệu nano là vật liệu trong đó có ít nhất một chiều có kích thước nano mét nano 
mét. Về trạng thái của vật lệu người ta chia thành ba trạng thái rắn, lỏng, khí. Hiện nay, 
vật liệu nano được nghiên cứu chủ yếu là vật liệu ở trạng thái rắn. 
Về hình dáng vật liệu người ta phân chia thành các loại sau: ba chiều có kích thước 
nano (hạt nano, đám nano), hai chiều có kích thước nano (màng mỏng), một chiều (dây 
mỏng). Ngoài ra, còn có vật liệu có cấu trúc nano hay nanocompozit trong đó chỉ có một 
phần của vật liệu có kích thước nano hoặc cấu trúc của nó có nano không chiều. 
Các chất rắn ở nhiệt độ thường có thể được chia (kim loại, gốm, chất bán dẫn 
polymer.. ). Các chất này có thể chia nhỏ nữa thành (vật liệu sinh học, vật liệu xúc tác...). 
Tất cả các chất này có tính chất biến thiên rộng, ẩn chứa nhiều tính chất khác dưới dạng 
nano. 
-7- 
1.2.1.1.2. Sự ra đời của công nghệ nano [2] 
Thuật ngữ công nghệ nano xuất hiện từ những năm 70 của thế kỷ 20 liên quan đến 
công nghệ chế tạo cấu trúc vi hình của mạch vi điện tử. Độ chính xác ở đây đòi hỏi rất cao 
từ 0.1 – 100nm tức là phải chính xác đến từng lớp nguyên tử, phân tử. Mặt khác, quá trình 
vi hình hóa các linh kiện cũng đòi hỏi người ta phải nghiên cứu các lớp mỏng bề dày cỡ 
nm, các sợi mảnh có bề ngang cỡ nm, các hạt có đường kính cỡ nm. Phát hiện ra hàng 
loạt hiện tượng, tính chất mới mẻ có thể ứng dụng vào nhiều chuyên ngành rất khác nhau 
để tạo thành các ngành khoa học mới gắn thêm chữ nano. Hơn nữa, việc nghiên cứu các 
quá trình sống xảy ra trong tế bào cho thấy sự sản xuất ra các chất cho sự sống như 
protein đều được thực hiện bởi sự lắp ráp vô cùng tinh vi các phân tử với nhau mà thành. 
Tức là cũng ở trong công nghệ nano. 
1.2.1.2. Ý nghĩa của công nghệ nano và khoa học nano [2] 
Khoa học nano và công nghệ nano có ý nghĩa quan trọng và cực kỳ hấp dẫn vì 
những lý do sau đây: 
- Tương tác của các nguyên tử và các điện tử trong vật liệu bị ảnh hưởng bởi các 
biến đổi trong phạm vi thang nano. Do đó, khi làm thay đổi cấu hình trong thang nano của 
vật liệu ta có thể “điều khiển” được tính chất của vật liệu mà không phải thay đổi thành 
phần hóa học của chúng. Ví dụ, thay đổi kích thước hạt nano sẽ làm chúng đổi màu ánh 
sáng phát ra hoặc thay đổi các hạt nano từ tính để chúng trở thành một đomen thì tính chất 
từ của chúng thay đổi hẳn. 
- Vật liệu nano có diện tích mặt ngoài rất lớn nên rất lý tưởng dùng vào chức năng 
xúc tác cho hệ phản ứng hóa học, hấp phụ, nhả thuốc chữa bệnh từ từ trong cơ thể, lưu trữ 
năng lượng và liệu pháp mỹ phẩm. 
- Vật liệu có chứa các cấu trúc nano có thể cứng hơn nhưng lại bền hơn vật liệu 
không hàm chứa cấu trúc nano. Các hạt nano phân tán trên một nền thích hợp có thể tạo ra 
các loại vật liệu compozit siêu cứng. 
-8- 
- Tốc độ tương tác và truyền tín hiệu giữa các cấu trúc nano nhanh hơn giữa các 
cấu trúc micro rất nhiều và có thể sử dụng các tính chất siêu việt này để chế tạo các hệ 
thống nhanh hơn với hiệu quả sử dụng năng lượng cao hơn. 
- Vì các hệ sinh học về cơ bản có tổ chức vật chất ở thang nano nên các bộ phận 
nhân tạo dùng trong tế bào có tổ chức cấu trúc nano bắt chước tự nhiên thì chúng sẽ tương 
hợp sinh học. Điều này cực kỳ quan trọng trong việc bảo vệ sức khỏe. 
1.2.2. Tính chất của nano bạc 
 Những tính chất của hạt nano xuất hiện là hệ quả của nguyên lý giam cầm lượng tử 
và sự cân xứng cao của bề mặt các nguyên tử, những điều này phụ thuộc trực tiếp vào 
kích thước hạt nano. Sự điều chỉnh kích thước của hạt nano có thể dẫn tới những thay đổi 
về tính chất của các hạt, đây là nguyên nhân và chủ đề của nhiều nghiên cứu. Không 
giống với vật liệu khối có những tính chất vật lý không thay đổi theo khối lượng [10], hạt 
nano cho thấy khả năng thay đổi những tính chất như điện, từ và quang học theo kích 
thước hạt. Sự xuất hiện những hiệu ứng này là bởi những mức năng lượng không giống 
nhau của các hạt nhỏ trong vật liệu khối, nhưng riêng rẽ, bởi hiệu ứng giam cầm điện tử. 
Vì thế, tính chất vật l ý của hạt nano được xác định bởi kích thước của các hạt. [3] 
Vật liệu nano có những tính chất kỳ lạ khác hẳn với tính chất vật liệu khối đã 
nghiên cứu trước. Sự khác biệt về tính chất của vật liệu nano so với vật liệu khối được bắt 
nguồn từ hai hiện tượng sau đây: 
Hiệu ứng bề mặt: Khi vật liệu có kích thước nhỏ thì tỉ số giữa số nguyên tử trên 
bề mặt và tổng số nguyên tử (gọi là tỉ số f )của vật liệu gia tăng. Do nguyên tử trên bề mặt 
có nhiều tính chất khác biệt so với tính chất của các nguyên tử ở bên trong lòng vật liệu 
nên khi kích thước vật liệu giảm đi thì hiệu ứng có liên quan đến các nguyên tử bề mặt, 
hay còn gọi là hiệu ứng bề mặt tăng lên do tỉ số f tăng. Khi kích thước của vật liệu giảm 
đến nm thì giá trị f này tăng lên đáng kể. Hiệu ứng bề mặt luôn có tác dụng với tất cả các 
giá trị của kích thước, hạt càng bé thì hiệu ứng càng lớn và ngược lại. Ở đây không có 
giới hạn nào cả, ngay cả vật liệu khối truyền thống cũng có hiệu ứng bề mặt, chỉ có điều 
hiệu ứng này nhỏ thường bị bỏ qua. Vì vậy, việc ứng dụng hiệu ứng bề mặt của vật liệu 
nano tương đối dễ dàng [3]. 
-9- 
Bảng 1.1: Số nguyên tử và năng lượng bề mặt của hạt nano hình cầu 
Đường kính 
hạt nano 
(nm) 
Số nguyên tử
Tỉ số nguyên 
tử trên bề 
mặt (%) 
Năng lượng 
bề mặt 
(erg/mol) 
Năng lượng 
bề mặt/Năng 
lượng tổng 
(%) 
10 30.000 20 4,08×1011 7,6 
5 4.000 40 8,16×1011 14,3 
2 250 80 2,04×1012 35,3 
1 30 90 9,23×1012 82,2 
Hiệu ứng kích thước: Khác với hiệu ứng bề mặt, hiệu ứng kích thước của vật liệu 
nano đã làm cho vật liệu này trở nên kì lạ hơn nhiều so với các vật liệu truyền thống. Đối 
với một vật liệu, mỗi một tính chất của vật liệu này đều có một độ dài đặc trưng. Độ dài 
đặc trưng của rất nhiều các tính chất của vật liệu đều rơi vào kích thước nm. Ở vật liệu 
khối, kích thước vật liệu lớn hơn nhiều lần độ dài đặc trưng này dẫn đến các tính chất vật 
lý đã biết. Nhưng khi kích thước của vật liệu có thể so sánh được với độ dài đặc trưng đó 
thì tính chất có liên quan đến độ dài đặc trưng bị thay đổi đột ngột, khác hẳn so với tính 
chất đã biết trước đó. Ở đây không có sự chuyển tiếp một cách liên tục về tính chất khi đi 
từ vật liệu khối đến vật liệu nano. Chính vì vậy, khi nói đến vật liệu nano, chúng ta phải 
nhắc đến tính chất đi kèm của vật liệu đó. Ví dụ, đối với kim loại, quãng đường tự do 
trung bình của điện tử có giá trị vài chục nm. Khi chúng ta cho dòng điện chạy qua một 
dây dẫn kim loại, nếu kích thước của dây rất lớn so với quãng đường tự do trung bình của 
điện tử trong kim loại này thì chúng ta sẽ có định luật Ohm cho dây dẫn. Định luật cho 
thấy sự tỉ lệ tuyến tính của dòng và thế đặt ở hai đầu sợi dây. Bây giờ chúng ta thu nhỏ 
kích thước của sợi dây cho đến khi nhỏ hơn độ dài quãng đường tự do trung bình của điện 
tử trong kim loại thì sự tỉ lệ liên tục giữa dòng và thế không còn nữa mà tỉ lệ gián đoạn 
với một lượng tử độ dẫn là e2/ħ, trong đó e là điện tích của điện tử, ħ là hằng đó Planck. 
Lúc này hiệu ứng lượng tử xuất hiện. Có rất nhiều tính chất bị thay đổi giống như độ dẫn, 
tức là bị lượng tử hóa do kích thước giảm đi. Hiện tượng này được gọi là hiệu ứng chuyển 
tiếp cổ điển-lượng tử trong các vật liệu nano do việc giam hãm các vật thể trong một 
không gian hẹp mang lại (giam hãm lượng tử) [3]. 
-10- 
Hình 1.1: Sự mở rộng khe dải và mức năng lượng của các 
nguyên tử với sự gia tăng kích thước 
Mức năng lượng Fermi (EF) là mức năng lượng đầy cao nhất của hệ thống trong 
trạng thái đáy. Khe dải (Eg) của hệ thống này là khe năng lượng giữa trạng thái năng 
lượng cao nhất và thấp nhất. Trong hệ thống này, từ những nguyên tử cho tới vật liệu 
khối, sự dàn trải năng lượng được quyết định bởi mức độ choàng lên nhau giữa các quỹ 
đạo (orbital) điện tử. Điều này có thể kết hợp ở trong phân tử để hình thành orbital phân 
tử, và xa hơn để mở rộng cấu trúc dải, như trong kim loại hay bán dẫn. Giá trị của Eg 
tương ứng với EF được tách bởi số electron tự do trong cấu trúc dải mở rộng. Với vật liệu 
khối, số electron tự do trong cấu trúc dải bằng số nguyên tử trong khối vật liệu. Điều này 
dẫn đến Eg rất nhỏ, và vì thế chỉ quan sát được tại nhiệt độ thấp. Dưới nhiệt độ này, các 
electron tự do của kim loại có thể dễ dàng nhảy lên một trạng thái năng lượng cao hơn, và 
có thể tự do di chuyển trong cấu trúc. Trong vật liệu bán dẫn, số electron tự do ít hơn 
đáng kể so với số nguyên tử. Điều này dẫn tới Eg cao hơn tại nhiệt độ thường. Như thế có 
nghĩa trong bán dẫn các electron sẽ không di chuyển tự do và dẫn điện nếu không có 
nguồn năng lượng kích thích. 
-11- 
Mức năng lượng điện tử trung bình (khe Kubo) được tính: 
Trong đó: 
- δ là khe Kubo 
- EF là mức năng lượng Fermi của vật liệu khối 
- n là tổng số electron hóa trị trong hạt. 
Ví dụ: hạt nano Ag với đường kính 3nm và khoảng 1000 nguyên tử (tương ứng với 
1000 electron hóa trị) sẽ có giá trị δ khoảng 5 ÷ 10meV. Nếu năng lượng nhiệt, kT thấp 
hơn khe Kubo thì hạt nano sẽ giống với kim loại tự nhiên, nhưng nếu kT hạ xuống dưới 
khe Kubo nó sẽ trở thành phi kim loại. Tại nhiệt độ thường kT có giá trị khoảng 26 meV, 
vì thế hạt nano Ag cở 3nm sẽ biểu hiện tính chất của một kim loại. Tuy nhiên, nếu kích cỡ 
của hạt nano được giảm đi, hay nhiệt độ thấp hơn thì hạt nano sẽ thể hiện tính chất phi 
kim loại. 
Sử dụng học thuyết này, và mức năng lượng Fermi của kim loại Ag là 5,5 eV, khi đó hạt 
nano Ag sẽ mất tính chất kim loại khi có dưới 280 nguyên tử tại nhiệt độ phòng. Vì khe 
Kubo trong hạt nano nên có những tính chất như dẫn điện, nhạy từ (magnetic 
susceptibility) thể hiện qua hiệu ứng kích thước lượng tử. Những hiệu ứng này dẫn tới 
khả năng ứng dụng của hạt nano trong các lĩnh vực như xúc tác, quang học hay y học. 
1.2.2.1. Tính chất quang 
Như trên đã nói, tính chất quang học của hạt nano vàng, bạc trộn trong thủy tinh 
làm cho các sản phẩm từ thủy tinh có các màu sắc khác nhau đã được người La Mã sử 
dụng từ hàng ngàn năm trước. Các hiện tượng đó bắt nguồn từ hiện tượng cộng hưởng 
Plasmon bề mặt (surface plasmon resonance) do điện tử tự do trong hạt nano hấp thụ ánh 
sáng chiếu vào. Kim loại có nhiều điện tử tự do, các điện tử tự do này sẽ dao động dưới 
tác dụng của điện từ trường bên ngoài như ánh sáng. Thông thường các dao động bị dập 
tắt nhanh chóng bởi các sai hỏng mạng hay bởi chính các nút mạng tinh thể trong kim loại 
khi quãng đường tự do trung bình của điện tử nhỏ hơn kích thước. Nhưng khi kích thước 
của kim loại nhỏ hơn quãng đường tự do trung bình thì hiện tượng dập tắt không còn nữa 
-12- 
mà điện tử sẽ dao động cộng hưởng với ánh sáng kích thích. Do vậy, tính chất quang của 
hạt nano có được do sự dao động tập thể của các điện tử dẫn đến từ quá trình tương tác