Nghiên cứu này phân tích các yếu tố của hệ thống pháp luật kinh doanh Việt Nam
nhằm đưa ra bức tranh toàn cảnh về diễn tiến phát triển của hệ thống này; đánh giá các
ưu điểm, tồn tại; từ đó đề xuất các vấn đề cần điều chỉnh để hệ thống pháp luật Việt
Nam thực sự thuận lợi, phù hợp cho phát triển kinh tế thị trường.
Một hệ thống pháp luật kinh doanh khuyến khích phát triển kinh tế thị trường được
hiểu là tập hợp các quy định pháp luật điều chỉnh các hoạt động kinh doanh, thương
mại, được thiết kế theo hướng tạo thành khung khổ pháp lý cho nền kinh tế thị trường
có thể tồn tại, vận hành thuận lợi và an toàn theo các quy luật thị trường.
51 trang |
Chia sẻ: candy98 | Lượt xem: 480 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Báo cáo Nghiên cứu xây dựng hệ thống pháp luật kinh doanh khuyến khích phát triển kinh tế thị trường, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Trung tâm WTO
Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam
1
BÁO CÁO NGHIÊN CỨU
Xây dựng hệ thống pháp luật kinh doanh khuyến khích phát triển
kinh tế thị trường
BÁO CÁO NGHIÊN CỨU
1
NGHIÊN CỨU
Xây dựng hệ thống pháp luật kinh doanh khuyến khích
phát triển kinh tế thị trường
Tóm tắt
Nghiên cứu này phân tích các yếu tố của hệ thống pháp luật kinh doanh Việt Nam
nhằm đưa ra bức tranh toàn cảnh về diễn tiến phát triển của hệ thống này; đánh giá các
ưu điểm, tồn tại; từ đó đề xuất các vấn đề cần điều chỉnh để hệ thống pháp luật Việt
Nam thực sự thuận lợi, phù hợp cho phát triển kinh tế thị trường.
Một hệ thống pháp luật kinh doanh khuyến khích phát triển kinh tế thị trường được
hiểu là tập hợp các quy định pháp luật điều chỉnh các hoạt động kinh doanh, thương
mại, được thiết kế theo hướng tạo thành khung khổ pháp lý cho nền kinh tế thị trường
có thể tồn tại, vận hành thuận lợi và an toàn theo các quy luật thị trường.
Để đánh giá hệ thống pháp luật kinh doanh này, 02 nhóm tiêu chí cơ bản được sử dụng,
bao gồm (i) Nhóm các tiêu chí về các điều kiện nền tảng cho kinh tế thị trường (KTTT)
với 04 tiêu chí cụ thể về chế độ sở hữu, hệ thống tố tụng bảo vệ quyền sở hữu, chất
lượng của hệ thống pháp luật; phối hợp công – tư trong pháp luật về kinh tế và (ii)
Nhóm các tiêu chí về các chế định pháp luật cụ thể về các khía cạnh của kinh tế thị
trường với 03 tiêu chí xem xét quyền tự do kinh doanh ở các khía cạnh gia nhập thị
trường, hoạt động trên thị trường và rút khỏi thị trường.
Trong tổng thể, kể từ mốc Đổi mới năm 1986, pháp luật kinh doanh ở Việt Nam đến
nay đã trải qua 04 giai đoạn, với các dấu mốc là những lần sửa đổi Hiến pháp về thể
chế kinh tế. Giai đoạn từ 1986 đến 1992 chứng kiến những văn bản đầu tiên ghi nhận
về chủ thể kinh doanh tư nhân, đầu tư nước ngoài, hợp đồng kinh tế. Giai đoạn từ
1992-2001 được đánh dấu bằng một loạt các văn bản pháp luật hiện thực hóa thể chế
kinh tế thị trường trong Hiến pháp 1992. Giai đoạn 2001-2013 được xem là giai đoạn
chuyển mình của pháp luật về kinh doanh Việt Nam với việc thông qua, sửa đổi nhiều
văn bản rường cột cụ thể hóa quyền tự do kinh doanh trong Hiến pháp 2001 và các
chuẩn mực thương mại quốc tế theo các cam kết mà Việt Nam ký. Giai đoạn 2013-nay
là giai đoạn tập trung sửa đổi nhiều văn bản pháp luật quan trọng nhằm cụ thể hóa
những nguyên tắc thị trường mới được ghi nhận trong Hiến pháp sửa đổi 2013.
BÁO CÁO NGHIÊN CỨU
2
Theo các tiêu chí đánh giá được đặt ra thì về cơ bản pháp luật Việt Nam như sau đã đạt
được những thành tựu quan trọng ở tất cả các khía cạnh. Pháp luật về sở hữu xây dựng
và củng cố với việc ghi nhận đầy đủ hơn các hình thức sở hữu và các nội dung quyền
sở hữu. Hệ thống tư pháp để bảo vệ quyền sở hữu thông qua việc giải quyết các tranh
chấp được thiết lập đầy đủ, phù hợp thông lệ quốc tế. Chất lượng các quy định đã được
cải thiện, theo hướng minh bạch, hợp lý và thống nhất hơn. Sự phối hợp công tư trong
hoạch định và thực thi chính sách đã được nhấn mạnh. Quyền tự do kinh doanh trong
gia nhập, hoạt động và rút khỏi thị trường được hoàn thiện theo thời gian. Mặc dù vậy,
cũng xét trên tất cả các khía cạnh này, vẫn còn những vướng mắc, bất cập cản trở sự
vận hành bình thường, ổn định và an toàn của kinh tế thị trường đặc biệt từ góc độ thực
thi.
Tiếp tục hoàn thiện các chế định pháp luật, đặc biệt nhấn mạnh tính minh bạch, tính
khả thi, tính thị trường trong nội dung các quy định cũng như tăng cường tính nghiêm
minh, hiệu quả trong thi hành pháp luật là những vấn đề quan trọng nhất mà pháp luật
về kinh doanh Việt Nam cần tập trung xử lý trong thời gian tới.
Nghiên cứu này được thực hiện bởi Trung tâm WTO – Phòng Thương mại và Công
nghiệp Việt Nam với sự hỗ trợ tài chính của Dự án Friedrich Naumann Foundation for
Freedom (FNF)
BÁO CÁO NGHIÊN CỨU
3
1. Dẫn nhập
Trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường ở Việt Nam, hệ thống pháp luật về
kinh tế là yếu tố cơ bản, tạo nền tảng cho nền kinh tế. Một thể chế pháp luật phù hợp,
với các chế định cho phép các khía cạnh, nhân tố của nền kinh tế được tồn tại, vận
hành ổn định, an toàn và cạnh tranh lành mạnh là cơ sở không thể thiếu trong xây dựng
nền kinh tế thị trường ở Việt Nam.
Hệ thống pháp luật của Việt Nam về kinh tế trong gần 30 năm qua kể từ thời điểm Đổi
mới năm 1986 đã có những bước phát triển vượt bậc, góp phần quan trọng vào chuyển
đổi khung khổ nền kinh tế từ kinh tế kế hoạch hóa bao cấp sang nền kinh tế thị trường.
Các chế định pháp luật tạo nền tảng cho hoạt động kinh doanh cũng như các chế định
điều chỉnh cụ thể từng khía cạnh, lĩnh vực của nền kinh tế đã được xây dựng, hoàn
thiện dần. Phương pháp điều chỉnh cũng được chuyển đổi dần từ phương pháp hành
chính sang các phương pháp thị trường.
Tuy nhiên, pháp luật Việt Nam về kinh tế chưa thực sự đáp ứng được các đòi hỏi của
nền kinh tế thị trường, còn cản trở việc hình thành thực sự các thị trường hàng hóa,
thương mại thực sự và vì vậy cần được tiếp tục điều chỉnh, hoàn thiện.
Nghiên cứu này tập trung phân tích các yếu tố của hệ thống pháp luật Việt Nam từ các
khía cạnh hướng tới kinh tế thị trường, hướng tới các mục tiêu
(i) Đưa ra bức tranh toàn cảnh về diễn tiến phát triển của hệ thống pháp luật
Việt Nam về kinh tế;
(ii) Đánh giá các ưu điểm, tồn tại hệ thống pháp luật Việt Nam về kinh tế thị
trường ở từng khía cạnh;
(iii) Đề xuất các vấn đề cần điều chỉnh/sửa đổi/bổ sung để hệ thống pháp luật VN
về kinh tế thị trường thực sự phù hợp và hiệu quả.
2. Các tiêu chí đánh giá hệ thống pháp luật về thị trường
2.1. Các khái niệm
BÁO CÁO NGHIÊN CỨU
4
Hệ thống pháp luật về kinh tế là tập hợp các nguyên tắc, quy định, văn bản pháp luật
điều chỉnh các hoạt động kinh doanh, thương mại ở các lĩnh vực, khía cạnh khác nhau
(mỗi khía cạnh, lĩnh vực được xem là một chế định).
Hệ thống pháp luật định hướng kinh tế thị trường được hiểu là một hệ thống pháp luật
mà ở đó các chế định được thiết kế theo hướng tạo thành khung khổ pháp lý cho nền
kinh tế thị trường có thể tồn tại, vận hành thuận lợi và an toàn theo các quy luật thị
trường, với sự can thiệp hành chính tối thiểu từ Nhà nước.
2.2. Các tiêu chí đánh giá
Trên cơ sở tham khảo các nghiên cứu phân tích pháp luật và các báo cáo đánh giá về
thể chế pháp luật về kinh tế thị trường trên thế giới và ở Việt Nam, xuất phát từ mục
tiêu và tính chất nghiên cứu, Nghiên cứu này này sử dụng 02 nhóm tiêu chí cơ bản để
đánh giá hệ thống pháp luật Việt Nam về kinh tế theo định hướng thị trường. Cụ thể
bao gồm:
Nhóm tiêu chí thứ nhất - Nhóm các tiêu chí về các điều kiện nền tảng cho kinh tế thị
trường (KTTT)
Một nền kinh tế thị trường đúng nghĩa cần được xây dựng trên nền tảng một chế độ sở
hữu mạnh với hệ thống các quy định chặt chẽ về sở hữu và các cơ chế bảo vệ quyền sở
hữu hiệu quả. Cùng với đó, hệ thống pháp luật về kinh tế minh bạch, thống nhất, có
khả năng thúc đẩy các hoạt động kinh tế vận hành một cách an toàn, với sự tham gia
hiệu quả và thực chất của khu vực tư nhân vào quá trình hoạch định và thực hiện các
quy định này tạo thành môi trường không thể thiếu cho một nền kinh tế thị trường. Do
đó, nhóm này được thiết kế với 04 tiêu chí xem xét về:
- Chế định pháp luật về nội dung chế độ sở hữu
- Hệ thống tố tụng bảo vệ quyền sở hữu
- Chất lượng của hệ thống pháp luật về kinh tế
- Phương thức Phối hợp công – tư trong pháp luật về kinh tế
Nhóm tiêu chí thứ hai - Nhóm các tiêu chí về các chế định pháp luật cụ thể về các khía
cạnh của kinh tế thị trường
Từ góc độ ”quy luật thị trường”, quyền tự do kinh doanh được xem là chỉ số cốt lõi,
yếu tố quyết định cả về nội dung và phương pháp điều chỉnh của hệ thống pháp luật về
kinh tế trong một nền kinh tế thị trường. Theo nghĩa này, hệ thống pháp luật trong nền
BÁO CÁO NGHIÊN CỨU
5
kinh tế thị trường đóng vai trò như là khung khổ để quyền tự do kinh doanh để cụ thể
hóa, được bảo vệ và được giới hạn trong những trường hợp cần thiết nhằm đảm bảo sự
phát triển bền vững, phù hợp với các lợi ích công cộng và giảm thiểu ảnh hưởng tới các
quyền tự do kinh doanh của các chủ thể khác.
Do đó, nhóm này được thiết kế xoay quanh 03 tiêu chí liên quan tới pháp luật về quyền
tự do kinh doanh trong từng giai đoạn của quá trình kinh doanh, bao gồm:
- Chế định pháp luật về gia nhập thị trường
- Chế định pháp luật điều chỉnh các hoạt động kinh doanh cụ thể trên thị trường
- Chế định pháp luật về rút khỏi thị trường
Mỗi tiêu chí được đo lường bằng các chỉ số thành phần cụ thể, với các phương pháp đo
lường và ý nghĩa như nêu trong Bảng kèm theo:
Tiêu chí Chỉ số đo lường/đánh
giá
Ý nghĩa Nguồn số liệu
I. Nhóm các tiêu chí về điều kiện pháp luật nền tảng cho kinh tế thị trường
1. Chế độ sở hữu
Đánh giá hệ thống quy
định pháp luật về chế
độ sở hữu theo các chỉ
số: Đầy đủ, Minh
bạch, Hợp lý
Các quy định về sở
hữu đối với tài sản đưa
vào kinh doanh hoặc
thu được từ hoạt động
kinh doanh càng được
ghi nhận đầy đủ, rõ
ràng và hợp lý thì
quyền sở hữu càng
đảm bảo an toàn và
được tôn trọng
Hệ thống pháp luật
Việt Nam có liên quan
tới sở hữu (đặc biệt là
Hiến pháp, Bộ luật dân
sự)
2. Hệ thống tố tụng
bảo vệ quyền sở hữu
Đánh giá hệ thống quy
định pháp luật và thực
tiễn về tố tụng bảo vệ
quyền sở hữu theo các
chỉ số: Đầy đủ, Hiệu
quả
Cơ chế pháp luật về tố
tụng càng đầy đủ và
việc thực thi các cơ
chế này càng hiệu quả
thì quyền sở hữu càng
được bảo vệ
- Hệ thống pháp luật
Việt Nam có liên quan
tới các cơ chế giải
quyết tranh chấp dân
sự, thương mại (đặc
biệt là Bộ luật tố tụng
BÁO CÁO NGHIÊN CỨU
6
dân sự, Luật Thi hành
án dân sự, Luật Trọng
tài thương mại)
- Các Báo cáo tổng kết
thi hành các Luật này
3. Chất lượng của các
quy định pháp luật về
kinh tế
Đánh giá chất lượng
các quy định pháp luật
về kinh doanh theo các
chỉ số: Thống nhất,
Minh bạch, Hợp lý
Các quy định pháp luật
càng thống nhất, minh
bạch, hợp lý thì hệ
thống pháp luật càng
hiệu quả hơn trong
điều chỉnh các hoạt
động kinh tế
Hệ thống pháp luật về
các khía cạnh của hoạt
động kinh tế (pháp luật
chung, pháp luật
chuyên ngành)
Chỉ số hiệu quả thi
hành pháp luật về kinh
doanh của các Bộ
(MEI – VCCI)
4. Phương thức phối
hợp công – tư trong
hoạch định và thi hành
pháp luật về kinh
doanh
Đánh giá mức độ hiệu
quả của việc phối hợp
giữa Nhà nước và khu
vực tư nhân trong soạn
thảo và thực hiện các
văn bản pháp luật về
kinh doanh qua các chỉ
số: Thực chất, Hiệu
quả
Việc phối hợp công –
tư trong soạn thảo và
thực thi pháp luật về
kinh doanh càng thực
chất và hiệu quả thì hệ
thống pháp luật càng
sát thực tiễn, khả thi
và khả năng tuân thủ
cao
Pháp luật về quy trình
ban hành văn bản quy
phạm pháp luật (đặc
biệt là Luật Ban hành
VBQPPL)
Chỉ số hiệu quả thi
hành pháp luật về kinh
doanh của các Bộ
(MEI – VCCI)
II. Nhóm các tiêu chí về pháp luật trong các khía cạnh cụ thể của kinh tế thị trường
5. Pháp luật về gia
nhập thị trường
Đánh giá mức độ
thuận lợi của việc gia
nhập thị trường của
chủ thể kinh
doanh/nhà đầu tư
thông qua Chỉ số: Mức
độ tự do của việc gia
Việc thành lập doanh
nghiệp hay đăng ký
kinh doanh của các
chủ thể khác như hợp
tác xã, hộ kinh doanh
cá thể, thương nhân
càng đơn giản, minh
Pháp luật về doanh
nghiệp và đăng ký
kinh doanh (đặc biệt là
Luật Doanh nghiệp,
Luật Đầu tư, Luật Hợp
tác xã, Luật Thương
mại)
BÁO CÁO NGHIÊN CỨU
7
nhập thị trường bạch, ít hạn chế thì
quyền tự do gia nhập
thị trường càng lớn.
Doing Business WB
6. Pháp luật về hoạt
động trên thị trường
Đánh giá quyền tự chủ
của các chủ thể kinh
doanh trong các hoạt
động và tính an toàn
của môi trường kinh
doanh qua các Chỉ số:
Tự chủ, Bình đẳng, Tự
do cạnh tranh
Hoạt động kinh doanh
của các chủ thể trên thị
trường càng tự chủ,
bình đẳng và trong
môi trường cạnh tranh
càng lành mạnh thì các
hoạt động này càng
phản ánh đúng quy
luật KTTT
Pháp luật chuyên
ngành về hoạt động
kinh doanh
Pháp luật về cạnh
tranh (đặc biệt là Luật
cạnh tranh)
Chỉ số hiệu quả thi
hành pháp luật về kinh
doanh của các Bộ
(MEI – VCCI)
7. Pháp luật về rút
khỏi thị trường
Đánh giá quyền tự do,
an toàn của các chủ thể
trong việc rút khỏi thị
trường qua các Chỉ số:
Mức độ thuận lợi, an
toàn của việc giải thể,
phá sản
Cơ chế để chủ thể kinh
doanh rút khỏi thị
trường khi gặp thất bại
thị trường hoặc các lý
do khác càng hợp lý,
thuận lợi, an toàn thì
môi trường kinh doanh
càng phù hợp
Pháp luật về giải thể
và phá sản
Báo cáo tổng kết thi
hành Luật phá sản
Số liệu doanh nghiệp
giải thể, ngừng hoạt
động
3. Diễn tiến hệ thống pháp luật định hướng KTTT ở Việt Nam
Với tính chất là tập hợp các nguyên tắc, quy định, văn bản pháp luật điều chỉnh các
hoạt động kinh doanh, thương mại ở các lĩnh vực, khía cạnh khác nhau (mỗi khía cạnh,
lĩnh vực được xem là một chế định), hệ thống pháp luật về kinh tế của mỗi quốc gia
đóng vai trò như xương sống cho sự vận hành của nền kinh tế.
Hệ thống pháp luật định hướng kinh tế thị trường được hiểu là một hệ thống pháp luật
mà ở đó các chế định được thiết kế theo hướng tạo thành khung khổ pháp lý cho nền
kinh tế thị trường có thể tồn tại, vận hành thuận lợi và an toàn theo các quy luật thị
trường, với sự can thiệp hành chính tối thiểu từ Nhà nước.
BÁO CÁO NGHIÊN CỨU
8
Trong tổng thể, nếu lấy mốc từ năm 1986, thời điểm Việt Nam tiến hành công cuộc
Đổi mới, chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị
trường, có thể thấy hệ thống pháp luật về kinh tế thị trường ở Việt Nam đến nay đã trải
qua 04 giai đoạn, với các dấu mốc là những lần sửa đổi Hiến pháp quan trọng về thể
chế kinh tế.
3.1. Giai đoạn từ 1986-1992
Trong lịch sử nền kinh tế cũng như thể chế pháp luật về kinh tế Việt Nam, năm 1986 là
một dấu mốc quan trọng đánh dấu sự chuyển đổi từ một nền kinh tế kế hoạch hóa bao
cấp sang nền kinh tế với các nhân tố đầu tiên kinh tế thị trường. Cụ thể, Nghị quyết Đại
hội đại biểu Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VI năm 1986 đã đưa ra chính sách Đổi
mới trong nhiều lĩnh vực. Đổi mới về kinh tế bao gồm việc chuyển đổi từ nền kinh tế
kế hoạch hóa tập trung bao cấp sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, đặt nền
móng cho việc xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam hiện nay.
Giai đoạn từ 1986 đến 1992, pháp luật kinh tế Việt Nam đã hiện thực hóa chính sách
Đổi mới với những thay đổi có tính bước ngoặt với những nhân tố đầu tiên, quan trọng
cho việc xây dựng nền kinh tế thị trường, góp phần giải phóng sức lao động và khơi
nguồn cho tư tưởng kinh doanh và các quy luật kinh tế thị trường.
Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 là một trong những đạo luật đầu tiên đóng vai trò
đột phá trong việc ấn định và thực hiện các quy định phù hợp với cơ chế thị trường,
quy định chế độ cấp giấy phép, các hình thức tổ chức, phạm vi hoạt động, các hình
thức ưu đãi đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế 1989, Luật Công ty và Luật Doanh nghiệp tư nhân 1990
lần đầu tiên thể chế hóa các hình thức doanh nghiệp và chủ thể kinh tế đồng thời tạo ra
khung khổ cơ bản về hợp đồng cho các giao dịch thương mại.
Tuy vậy thể chế pháp luật về kinh tế trong giai đoạn này vẫn còn nhiều hạn chế. Các
hình thức sở hữu và chủ thể sở hữu vẫn bị bó hẹp trong khung khổ Hiến pháp 1980 với
“chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa về tư liệu sản xuất” và “một nền kinh tế quốc dân chủ
yếu có hai thành phần: thành phần kinh tế quốc doanh thuộc sở hữu toàn dân và thành
phần kinh tế hợp tác xã thuộc sở hữu tập thể” (Điều 18 Hiến pháp 1980). Với khung
khổ này, dù các chủ thể kinh doanh tư nhân đầu tiên đã được thừa nhận (doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài, công ty, doanh nghiệp tư nhân) nhưng vị trí của họ trong nền
kinh tế còn rất hạn chế, pháp luật mới chỉ cho họ những quyền kinh doanh hạn chế, bị
BÁO CÁO NGHIÊN CỨU
9
bó buộc bởi các yêu cầu bắt buộc mang tính can thiệp của Nhà nước trong thủ tục
thành lập, xác định vốn tối thiểu, chỉ định vị trí lãnh đạo, ra quyết định kinh doanh, ký
kết hợp đồng giao dịch, phân bổ và sử dụng lợi nhuận. Thông qua các quy định này,
pháp luật điều chỉnh hoạt động kinh tế thể hiện rõ tính hành chính (với sự can thiệp khá
sâu của Nhà nước vào những hoạt động kinh tế và sử dụng nhiều biện pháp quản lý
hành chính).
3.2. Giai đoạn từ 1992-2001
Hiến pháp 1992 được Quốc hội Việt Nam thông qua tháng 11/1992, sửa đổi căn bản
chế định về kinh tế so với Hiến pháp 1980. Bản Hiến pháp này chính thức hiến định
thể chế kinh tế thị trường.
Các văn bản pháp luật quan trọng, làm trụ cột cho nền kinh tế thị trường cũng lần lượt
được xây dựng trong thời gian này, đặc biệt phải kể đến Luật Khuyến khích đầu tư
trong nước 1994, Bộ luật dân sự 1995, Luật thương mại 1995. Trong các văn bản này,
các quy định được thiết kế theo hướng thừa nhận sự tồn tại hợp pháp của khu vực kinh
tế tư nhân, xây dựng nền kinh tế với sự tham gia của các chủ thể kinh doanh tư nhân
(thương nhân, doanh nghiệp), giảm dần vai trò tuyệt đối của khu vực quốc doanh, tạo
khung khổ linh hoạt, tăng quyền thỏa thuận trong các giao dịch kinh doanh. Điều này
đã tác dụng rất lớn đối với việc cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh ở Việt Nam.
Luật doanh nghiệp 1999 có thể được xem là một thành tựu nổi bật của hệ thống pháp
luật kinh tế Việt Nam giai đoạn này với việc thiết lập một khung pháp lý an toàn, tổng
thể và hiện đại về các chủ thể kinh tế trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam trong đó
các hình thức doanh nghiệp chính yếu đã được ghi nhận, thủ tục thành lập doanh
nghiệp được thiết kế thuận lợi hơn, các vấn đề về quản trị và vận hành doanh nghiệp
được xây dựng gần hơn với thông lệ quản trị doanh nghiệp quốc tế.
Đây là giai đoạn mà pháp luật về kinh tế thị trường ở Việt Nam phát triển mạnh mẽ, cổ
vũ bởi những thành công của phát triển kinh tế thị trường giai đoạn đầu và dưới những
đòi hỏi cấp thiết của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế với việc Việt Nam tham gia
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), bình thường hóa quan hệ ngoại giao với
Hoa Kỳ năm 1997 và ký kết Hiệp định Thương mại song phương Việt Nam Hoa Kỳ
(BTA) năm 2001.
So với giai đoạn trước đó, thể chế pháp luật về kinh tế thị trường Việt Nam đã có
những bước chuyển biến cơ bản, tính “thị trường” được chú trọng hơn, trên cơ sở đó
các thị trường vốn, lao động và các thị trường chuyên ngành được hình thành và phát
BÁO CÁO NGHIÊN CỨU
10
triển. Mặc dù vậy, quyền sử dụng và chuyển giao các tư liệu sản xuất quan trọng (ví dụ
đất đai, tài nguyên nước) vẫn bị giới hạn đáng kể, quản trị doanh nghiệp bị ràng buộc
bởi những yêu cầu thiếu linh hoạt và phi thị trường (ví dụ về vốn điều lệ tối thiểu, về
nhiều loại giấy phép kinh doanh phải có, về vị trí lãnh đạo chủ chốt trong doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài), các giao dịch thương mại chưa thực sự tôn trọng quyền tự
do thỏa thuận (ví dụ các hợp đồng thương mại phải tuân thủ các nội dung bắt buộc).
3.3. Giai đoạn từ 2001-2013
Năm 2001, Việt Nam sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp 1992, trong đó có
các điều chỉnh về chế độ kinh tế. Lần đầu tiên quyền tự do kinh doanh được thừa nhận,
dù vẫn bị ràng buộc bởi giới hạn “theo quy định của pháp luật”.
Năm 2001 cũng là năm Việt Nam phê chuẩn Hiệp định thương mại song phương Việt
Nam – Hoa Kỳ, mở đầu cho giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam. Hội
nhập cũng chính là nét đặc điểm chủ yếu của giai đoạn này, với những dấu ấn đặc biệt
trong thể chế pháp luật về kinh tế Việt Nam.
Một loạt các văn bản pháp luật có ý nghĩa rường cột cho nền kinh tế như Luật Đất đai
2003, Bộ luật Dân sự 2005, Luật Doanh nghiệp 2005,