Phát triển bền vững trên nền tảng tăng trưởng kinh tế, phát triển xã hội và bảo vệmôi
trường là đòi hỏi tất yếu trong quá trình phát triển các ngành và vùng. Bài viết này tập trung
luận giải những yếu tốtác động của điều kiện tựnhiên, lao động và tổchức sản xuất trên tàu
cá, quản lý Nhà nước, các đặc trưng kỹthuật tàu thuyền, các đặc trưng vềngưcụcũng nhưthị
trường đến phát triển khai thác thủy sản vùng duyên hải Nam Trung bộ. Trên cơsở đó đềxuất
một sốgợi ý quản lý nhằm phát triển khai thác thủy sản trong vùng theo hướng bền vững như
là: Quản lý cấp Giấy phép khai thác, đào tạo nguồn nhân lực có trình độ; quản lý việc đóng mới
tàu thuyền; đầu tưthiết bịvà kỹthuật khai thác.
9 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1643 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Báo cáo Phân tích các nhân tố ảnh hưởng phát triển bền vững khai thác thủy sản vùng duyên hải nam trung bộ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 5(40).2010
77
PHÂN TÍCH CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
KHAI THÁC THỦY SẢN VÙNG DUYÊN HẢI NAM TRUNG BỘ
AN ANALYSIS ON SEVERAL FACTORS INFLUENCING SUSTAINABLE
DEVELOPMENT IN THE FISHING SECTOR OF THE SOUTHERN CENTRAL
COASTAL AREAS OF VIETNAM
Phan Thị Dung
Trường Đại học Nha Trang
TÓM TẮT
Phát triển bền vững trên nền tảng tăng trưởng kinh tế, phát triển xã hội và bảo vệ môi
trường là đòi hỏi tất yếu trong quá trình phát triển các ngành và vùng. Bài viết này tập trung
luận giải những yếu tố tác động của điều kiện tự nhiên, lao động và tổ chức sản xuất trên tàu
cá, quản lý Nhà nước, các đặc trưng kỹ thuật tàu thuyền, các đặc trưng về ngư cụ cũng như thị
trường đến phát triển khai thác thủy sản vùng duyên hải Nam Trung bộ. Trên cơ sở đó đề xuất
một số gợi ý quản lý nhằm phát triển khai thác thủy sản trong vùng theo hướng bền vững như
là: Quản lý cấp Giấy phép khai thác, đào tạo nguồn nhân lực có trình độ; quản lý việc đóng mới
tàu thuyền; đầu tư thiết bị và kỹ thuật khai thác.
ABSTRACT
Sustainable development on the basis of economic development, social development and
environmental protection requires a process of industrial and regional development. This paper is
concerned with a number of key issues such as natural conditions, fisherman and production
organization, State management, characteristics of fishing vessels, fishing equipments and
markets and fishing development of the Southern Central coastal areas of Vietnam. Based on this
research, some orientations for management of sustainable fishing development in this area such
as fishing license management, skilled workers training new boat building management, fishing
and technological equipment investment have been suggested in this article.
Keywords: sustainable development, fishing, fisherman
1. Đặt vấn đề
Vùng duyên hải Nam Trung Bộ (Đà Nẵng đến Khánh Hòa) nghề khai thác thủy
sản (KTTS) đã gắn bó lâu đời với ngư dân ven biển, là một trong những cái nôi đầu tiên
của nghề câu cá ngừ đại dương với sản lượng trên 10 ngàn tấn/năm. Năm 2000 số lượng
tàu thuyền của vùng trên 21 ngàn chiếc với công suất trên 588 ngàn CV, đến năm 2007
đã trên 26 ngàn chiếc với công suất trên 939 ngàn CV và đạt sản lượng khai thác gần
400 ngàn tấn 0. Sự phát triển KTTS đóng góp đáng kể cho ngân sách Nhà nước, giải
quyết lượng lớn lao động và có ý nghĩa trong việc bảo vệ lãnh thổ Việt Nam. Sự tăng
nhanh số lượng tàu thuyền một cách ồ ạt không theo qui hoạch, khai thác không tính
đến yếu tố môi trường, tình trạng vi phạm pháp luật trong khai thác, sự mất trật tự trên
biển… vẫn thường xuyên xảy ra ở vùng DHNTB. Nhiều tàu thuyền được đầu tư không
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 5(40).2010
78
đồng bộ về máy móc, trang thiết bị, kỹ thuật khai thác cũng như trình độ của thuỷ thủ,
vốn phải vay với lãi suất cao làm cho hiệu quả hoạt động không như mong muốn, bên
cạnh đó, đời sống ngư dân phụ thuộc rất lớn vào biển cả, trình độ văn hóa thấp, gia đình
đông con là một trong những rào cản lớn cho việc phát triển khai thác bền vững. Khai
thác thủy sản Việt Nam hiện nay vẫn theo quan điểm tiếp cận mở, sự phát triển của nó
chịu tác động của nhiều nhân tố như điều kiện tự nhiên, cách thức quản lý nguồn lợi
cũng như môi trường xã hội. Phân tích và đánh giá được các nhân tố ảnh hưởng đến
phát triển khai thác làm cơ sở đưa ra các định hướng phát triển đúng đắn cho KTTS nói
riêng và ngành Thủy sản nói chung
2. Phương pháp nghiên cứu
Số liệu thứ cấp: Thu thập và tham khảo các kết quả điều tra, đề tài nghiên cứu,
viện, trường, niên giám thống kê ...từ năm 2000- 2007.
Số liệu sơ cấp: trực tiếp điều tra tàu câu tỉnh Phú Yên, tàu lưới rê và lưới kéo
đơn thành phố Nha Trang, mẫu được chọn dựa theo cơ cấu công suất, phỏng vấn trực
tiếp chủ tàu lúc không mùa vụ và tuần trăng.
Phương pháp phân tích: Sử dụng tổng hợp các phương pháp như thống kê mô
tả, so sánh... để đánh giá thực trạng ảnh hưởng của các nhân tố đến phát triển khai thác
thủy sản trong vùng duyên hải Nam Trung bộ.
3. Kết quả nghiên cứu
Thứ nhất, Ảnh hưởng của đặc điểm tự nhiên đến phát triển KTTS
Địa hình có độ dốc cao thuận tiện ra khơi
Vùng DHNTB gồm các tỉnh nằm sát biển, đồng bằng nhỏ bé, địa hình dạng bãi
biển với bãi triều mài mòn, bãi biển tích tụ sóng, bờ biển có độ dốc lớn. Do đặc điểm
địa hình như vậy nên dân cư ở đây chủ yếu sống phụ thuộc vào biển, làm nghề KTTS.
Bờ biển có độ dốc lớn thuận lợi cho việc ra khơi của các nghề lộng và nghề khơi, tiết
kiệm chi phí di chuyển đến ngư trường trong vùng và ngược lại.
Khí hậu, thủy triều tương đối thuận lợi cho KTTS
Càng vào trong nhiệt độ càng ấm hơn và nhiệt độ cao hơn các vùng phía bắc,
trung bình số giờ nắng cao (14giờ/ngày), chiều hướng nhiệt độ tăng dần từ Đà Nẵng đến
Khánh Hòa, ảnh hưởng đến hoạt động khai thác, một số tàu ngư dân đã tận dụng điều
kiện này sản xuất các mặt hàng khô trên biển với chất lượng cao như mực khô, cá khô,
ruốc khô… Chế độ thủy triều khá phức tạp bao gồm nhiều tính chất thủy triều khác
nhau: Nhật triều không đều, bán nhật triều đều, bán nhật triều không đều với biên độ
thay đổi đáng kể, cản trở cho việc ra vào cảng của các tàu thuyền, đặc biệt ở các vùng
DHNTB có bãi ngang, bãi bồi, nhiều tàu bị mắc cạn trong quá trình ra vào cảng. Chính
vì vậy công tác nạo vét, khơi thông các cửa sông là một trong các quan tâm của ngư dân
khi ra vào cảng.
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 5(40).2010
79
Bão và áp thấp thường xảy ra ảnh hưởng phát triển khai thác
Theo tài liệu thống kê, hằng năm bão thường xảy ra vào tháng 10÷11 ở vùng Đà
Nẵng đến Bình Định, tháng 10÷12 ở vùng Phú Yên đến Khánh Hòa. Để hoạt động khai
thác phát triển tốt công tác dự báo thời tiết tác động lớn đến hoạt động này cũng như các
phương tiện thông tin đối với các tàu khai thác là vô cùng quan trọng trong việc bảo
đảm an toàn cho người cũng như tàu thuyền. Chiến lược phát triển KTTS cần định
hướng đầu tư đồng bộ cả tàu thuyền, các thiết bị an toàn trên biển cùng kỹ thuật khai
thác và con người nhằm nâng cao hiệu quả khai thác bên cạnh định hướng tàu hiện đại.
Vùng DHNTB là nơi có mật độ bão và áp thấp nhiệt đới cao nên vào những mùa
này ngư dân muốn khai thác đều phải di chuyển ngư trường. Số liệu điều tra về ngư
trường khai thác của nghề câu ở Phú Yên, nghề rê ở Khánh Hòa, cho thấy đầu mùa họ
thường khai thác ở phía Bắc, cuối mùa khai thác ở phía Nam, nhiều khi sang ngư trường
của Thái Lan, Indonesia, Philippin… để khai thác. Do phải di chuyển ngư trường, chi
phí cho việc đi lại tốn kém, các cảng cập bến thường hay bị ép giá nên một phần nào
ảnh hưởng đến hiệu quả. Một số ngư dân chọn việc cập cảng tại cảng xuất phát để giảm
được hiện tượng ép giá, tuy nhiên lại chịu ảnh hưởng thời gian di chuyển, tốn nhiều chi
phí và chất lượng sản phẩm giảm cấp. Vấn đề này cần được xem xét trên cơ sở tổ chức
sản xuất cho ngư dân để đảm bảo hiệu quả kinh doanh chung của ngành Thủy sản.
Ngoài ra, cần quan tâm tình trạng ngư dân đi khai thác dài ngày xa gia đình nên khó
quản lý gia đình và bản thân.
Nguồn lợi đa dạng về chủng loại
Theo tài liệu điều tra nguồn lợi, số lượng loài thủy sản biển Việt Nam nói chung
và biển miền Trung nói riêng rất phong phú về chủng loại. Tổng số loài trong toàn bộ
vùng biển Việt Nam là trên 2000 loài, trong đó vùng biển miền Trung là 546 loài, giữa
biển Đông là 270 loài nhưng tỷ trọng các loài không cao. Đường bờ biển dài khoảng 800
km kéo dài từ Đà Nẵng đến Khánh Hòa, khai thác các loài cá nổi phát triển chủ yếu ở
các thềm lục địa dốc thuộc biển miền Trung và vùng biển Đông Việt Nam. Vùng biển
miền Trung với trữ lượng là 1.092.150 tấn (chiếm 26,9%), khả năng khai thác cho phép
là 486.860 tấn (chiếm 27,19%). Tổng sản lượng đánh bắt 2.063.766 tấn thủy sản (trong
đó hải sản đạt 1.864.300 tấn) trong năm 2007, đã vượt xa mức sản lượng khai thác bền
vững hàng năm của nguồn lợi, phần lớn sản lượng khai thác này (khoảng 84%) tập trung
chủ yếu ở các vùng nước gần bờ 0.
Ngư trường khai thác thường xuyên thay đổi
Vùng DHNTB nguồn lợi gần bờ và gần các đảo với độ sâu mức nước khoảng
200m, nghề lưới kéo chỉ có vụ Nam với các ngư trường gần bờ, nghề câu vàng có cả hai
vụ với ngư trường từ Đà Nẵng đến Khánh Hòa, tuy nhiên năng suất khai thác vụ Nam
cao hơn vụ Bắc. Nghề lưới rê có cả hai vụ, tuy nhiên ở vụ Bắc thì ngư trường tập trung
ở miền Trung hơn là vụ Nam đồng thời với nó là năng suất đánh bắt vụ Bắc cao hơn vụ
Nam. Tuy đánh bắt ở cả hai vụ Nam và Bắc nhưng vùng biển miền Trung có năng suất
thấp hơn miền Đông và Tây Nam Bộ. Các ngư trường xa bờ có khả năng cho năng suất
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 5(40).2010
80
khai thác cao hơn gần bờ. Do phân bố năng suất các vụ khai thác khác nhau nên các tàu
thường xuyên phải di chuyển ngư trường về phía Bắc hoặc phía Nam 0 .
Thứ hai, Ảnh hưởng của lao động và tổ chức sản xuất đến phát triển KTTS
Dân cư đa phần có mức thu nhập bình quân thấp, nhưng cần cù chịu khó và rất
yêu biển. Theo kết quả điều tra của tác giả, có tới 95% thuyền trưởng đều xuất thân từ
dạng cha truyền con nối, phần còn lại tuy không có nguồn gốc là nghề biển nhưng khi
lập gia đình là nghề biển cũng được gia đình vợ truyền lại. Nguồn thu nhập của gia đình
ngư dân từ biển chiếm chủ yếu, có tới 95% cuộc sống phụ thuộc 100% từ KTTS. Chỉ có
5% có thu nhập từ nghề phụ (buôn bán nhỏ, làm bánh tráng, đan vá lưới…). Đời sống
của ngư dân quá phụ thuộc vào biển nên khi chuyển đổi nghề nghiệp hoặc định hướng
phát triển khai thác theo quan điểm bền vững phải tính đến sự chuyển đổi sinh kế cho
họ và những người trong gia đình. Bên cạnh đó, trình độ học vấn nói chung trong tàu rất
thấp, có người chưa đi học, tỷ lệ học vấn tiểu học của thủy thủ rất nhiều (82%), thuyền
trưởng (28%). Điều này hạn chế đến khả năng tiếp cận các công nghệ, kỹ thuật hiện đại
cũng như ý thức bảo vệ môi trường.
Tổ chức sản xuất trên biển tự phát, các tàu chưa thật sự liên kết với làm giảm
hiệu quả khai thác, bên cạnh đó, trình độ tổ chức quản lý trên các tàu còn bất cập, chưa
tạo được sự gắn bó các thủy thủ với chủ tàu, trình độ thuyền viên chưa được đào tạo…
là một trong các nhân tố ảnh hưởng PTBV trong KTTS.
Thứ ba, Ảnh hưởng của đặc trưng kỹ thuật tàu thuyền đến phát triển KTTS
Các tàu trong vùng DHNTB đều được đóng bằng vỏ gỗ, khó khăn cho việc phát
triển khai thác xa bờ, ảnh hưởng đến thời gian bám biển khi có các sự cố về thời tiết,
mức độ an toàn không cao. Máy tàu đa phần là máy Nhật, Mỹ, số tàu lắp máy đã qua sử
dụng gần 90%, việc sử dụng máy cũ đã tiết kiệm vốn đầu tư ban đầu nhưng chi phí
nhiên liệu cao, mức độ an toàn trên biển thấp do sự cố hỏng máy hay gặp phải. Đa phần
các tàu có trang bị các thiết bị hàng hải nhưng mức độ không đồng đều, 100% có la bàn,
90% có trang bị máy bộ đàm tầm ngắn liên lạc giữa các tàu với nhau, 15% có trang bị
máy bộ đàm liên lạc tầm xa giữa các tàu và với bờ, một số nhỏ có trang bị hệ thống định
vị vệ tinh. Một số tàu nghề lưới kéo, câu, rê, vây đã có trang bị máy tời thu và thả lưới
nhưng nhìn chung còn thô sơ, chưa đáp ứng được yêu cầu sản xuất, lao động trên tàu
chủ yếu vẫn là thủ công. Các đặc trưng kỹ thuật tàu vùng DHNTB nhìn chung còn lạc
hậu, mức đầu tư thấp và không đồng bộ, tàu thuyền công suất thấp (bình quân
36CV/chiếc trong năm 2007) tác động làm giảm hiệu quả khai thác.
Thứ tư, Ảnh hưởng của ngư cụ đến phát triển KTTS
Ngư trường và nguồn lợi thay đổi là một trong các nguyên nhân làm đa dạng hóa
nghề KTTS vùng DHNTB, như: lưới kéo cá, câu tay, lưới kéo tôm, lưới cước, cản khơi,
cản lộng, vây rút chì, đăng, câu cá ngừ đại dương, mành cá cơm, mành chuồn. Các tàu
thường kiêm nghề: nghề chính và nghề phụ, chẳng hạn đối với nghề câu cá ngừ có thể
thêm nghề câu mực. Ngư cụ cũng thay đổi theo từng mùa tùy thuộc vào khả năng chủ
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 5(40).2010
81
tàu, sự đa dạng ngư cụ đã góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh của nghề cá. Tuy
nhiên, sự đa dạng không theo một định hướng nào, ngư dân sẵn sàng chuyển đổi nghề
hoặc cải hoán nghề, nhưng không đăng ký với cơ quan quản lý, làm ảnh hưởng đến
công tác quản lý tàu thuyền, nghề cũng như bảo vệ nguồn lợi.
Bảng 1: Các họ nghề KTTS vùng DHNTB năm 2007
Đơn vị tính: Chiếc
STT Địa phương
Họ lưới
kéo
Họ lưới
vây
Họ lưới rê Họ câu
Họ nghề
khác
Tổng
cộng
1 Đà Nẵng 655 51 265 516 550 2.037
2 Quảng Nam 893 312 458 389 1.460 3.512
3 Quảng Ngãi 1.053 502 751 525 1.089 3.920
4 Bình Định 396 1.115 537 2.840 1.531 6.419
5 Phú Yên 583 195 1.486 795 1.271 4.330
6 Khánh Hòa 1.246 956 468 546 2.600 5.816
Tổng họ nghề 2007 4.826 3.131 3.965 5.611 8.501 26.034
Tổng họ nghề 2000 4.925 2.882 4.541 3.647 5.522 21.517
% cơ cấu nghề 2007 18,54 12,03 15,23 21,55 32,65 100,00
% cơ cấu nghề 2000 22,89 13,39 21,10 16,95 25,66 100,00
Tỷ lệ 2007/2000 97,99 108,64 87,32 153,85 153,95 120,00
(Nguồn: Cục và các Chi cục Khai thác và Bảo vệ nguồn lợi thủy sản)
Thông qua Bảng 1 cho thấy từ năm 2000 đến năm 2007 đã có sự chuyển dịch đáng
kể trong cơ cấu nghề khai thác ở vùng DHNTB, nghề câu đứng vị trí đầu với 5.611 chiếc
(chiếm 21,55%) sau đó là họ nghề lưới kéo với 4.826 chiếc (chiếm 18,54%) và họ nghề lưới
rê với 4.541 chiếc (chiếm 15,23%). So với cơ cấu chung của cả nước hiện nay thì nghề lưới
kéo vẫn chiếm chủ yếu (36,3%) trong cơ cấu nghề khai thác. Sự chuyển dịch cơ cấu nghề
theo hướng gia tăng nghề câu có thể lý giải bằng sự phát triển nghề câu cá ngừ đại dương ở
các tỉnh Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa. Thành phố Đà Nẵng có nghề lưới kéo phát triển
mạnh, trong khi đó Phú Yên và Quảng Nam thì nghề lưới rê có nhiều ngư dân đầu tư. Sự
chuyển dịch theo hướng phát triển các nghề ít tác hại đến môi trường, các đối tượng khai
thác có chọn lọc, ít ảnh hưởng đến cá con, đây là hướng đi đúng cần khuyến khích.
Thứ năm, Ảnh hưởng của quản lý Nhà nước đến phát triển KTTS
Luật thủy sản (năm 2003) đã tạo ra hành lang pháp lý quan trọng nhất đối với
ngành Thủy sản, việc tham gia vào ngành đã có các ràng buộc nhất định. Các qui định
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 5(40).2010
82
cụ thể trong Luật đã được triển khai thông qua các nghị định, thông tư hướng dẫn của
Chính phủ, Bộ Thủy sản, Bộ Tài chính. Các chính sách quản lý dựa vào cộng đồng,
quản lý đầu vào trong vùng DHNTB (Không được khai thác cá con, không khai thác ở
các vùng cấm, không được đóng các tàu nhỏ, không được sử dụng mắt lưới nhỏ…)
làm cho số lượng tàu làm nghề thay đổi như lưới kéo giảm gần 3%, nghề vây tăng gần
9%, nghề câu tăng gần 60% (xem Bảng 1). Cơ cấu nghề khai thác đã có sự chuyển đổi
đáng kể theo hướng ra xa bờ, gia tăng công suất bình quân/tàu, phát triển các nghề có
khả năng bảo vệ nguồn lợi, hình thành được các tổ chức nghề nghiệp, các trung tâm
Khuyến ngư đã có các định hướng khai thác. Số lượng tàu xa bờ cả nước năm 2000 là
13.500 chiếc, năm 2007 là 21.130 chiếc tăng 7.630 chiếc, tốc độ tăng bình quân mỗi
năm tăng 6,6% (1090 chiếc). Vùng DHNTB năm 2000 có 4340 chiếc năm 2007 đã là
7797 tăng 3457 chiếc, bình quân mỗi năm tăng 494 chiếc. Như vậy số lượng tàu
thuyền chỉ tăng có 2,6%/năm nhưng số lượng tàu xa bờ lại tăng 8,7%/năm, chứng tỏ
ngư dân cũng như chính quyền quan tâm đến việc khai thác xa bờ hơn và điều đó có
thể lý giải phần nào sự hấp dẫn của ngư trường xa bờ đồng thời khả năng khai thác
gần bờ đến lúc bão hòa.
52,3 53,0 55,9 58,5
59,6 60,3
65,159,1
0,0
20,0
40,0
60,0
80,0
100,0
120,0
140,0
160,0
2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007
C
ôn
g
su
ất
(C
V
)
0
1000
2000
3000
4000
5000
6000
7000
8000
9000
Số
lư
ợn
g
tà
u
xa
b
ờ
(c
hi
ếc
)
Công suất BQ tàu xa bờ cả nước (CV/chiếc) Công suất BQ tàu xa bờ vùng NTB (CV/chiếc)
Số lượng tàu xa bờ vùng NTB (chiếc)
Hình 1: Số lượng và công suất bình quân tàu xa bờ 0
Thứ sáu, Ảnh hưởng của thị trường đối với phát triển KTTS
Ảnh hưởng của thị trường các yếu tố đầu vào đối với KTTS
Thị trường các yếu tố đầu vào của KTTS bao gồm: Nhiên liệu, lương thực thực
phẩm, nước đá, lao động… trong thời gian qua luôn luôn biến động mạnh. Chỉ số giá
năm 2007 so năm 2000 của sản phẩm lương thực tăng 1,42 lần, thực phẩm 1,45 lần, giá
dầu 2,70 lần (năm 2000 là 3.800 đồng/lít, năm 2007 là 10.250 đồng/lít) trong khi đó chỉ
số giá bán sản phẩm thủy sản chỉ tăng là 1,43 lần. Sự thay đổi chỉ số giá cả các sản
phẩm đầu vào đã tác động mạnh đến phát triển KTTS đặc biệt là giá xăng dầu, một số
tàu đã phải nằm bờ, một số ra khơi nhưng không dám tìm các ngư trường khơi để khai
thác, hiệu quả khai thác giảm sút.
Ảnh hưởng của gia tăng nhu cầu tiêu dùng sản phẩm thủy sản
Sự gia tăng dân số ở Việt Nam và thế giới đẩy nhu cầu về thủy sản tăng theo. Mức
tiêu dùng sản phẩm thủy sản ở Việt Nam được dự báo của FAO đến năm 2010 là
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 5(40).2010
83
26,4kg/người/năm thấp hơn khu vực Đông Nam Á. Xu hướng người tiêu dùng hiện nay
thích các sản phẩm tươi sống. Nhu cầu cung cấp thực phẩm thủy sản cho dân cư vùng
DHNTB và các vùng lân cận cũng như du khách rất cao nhưng nguồn cung từ nuôi
trồng không đáng kể (chiếm từ 5-9% sản lượng thủy sản). Bên cạnh đó, thói quen tiêu
dùng thích sản phẩm từ biển làm gia tăng áp lực và thúc đẩy khai thác thủy sản quá
mức. Giá trị kim ngạch xuất khẩu luôn gia tăng từ 222 triệu USD (năm 2000) lên 410
triệu USD (năm 2007) với 65 cơ sở chế biến hàng xuất khẩu đủ tiêu chuẩn xuất sang các
thị trường khó tính như Mỹ, Châu Âu… Các cơ sở chế biến thủy sản xuất khẩu chủ yếu
tập trung ở Khánh Hòa (44 cơ sở), Đà Nẵng (15 cơ sở), sản xuất các mặt hàng thủy sản
đông lạnh, thủy sản khô và chỉ có 2 cơ sở sản xuất đồ hộp là Công ty TNHH Natfishco
và chi nhánh Công ty Cổ phần Hạ Long (Khánh Hòa). Nguyên liệu dùng chế biến chủ
yếu là cá, mực do khai thác và tôm do nuôi trồng cung cấp, ngoài ra một số cơ sở còn
nhập nguyên liệu như công ty TNHH Hải Vương (Khánh Hòa), tình trạng thiếu nguyên
liệu và hoạt động dưới mức công suất thiết kế (thậm chí dưới 50%) là phổ biến trong
các cơ sở. Ngoài chế biến xuất khẩu còn các mặt hàng chế biến nội địa rất được thị
trường trong nước ưa chuộng đã có thương hiệu như nước mắm Nha Trang, Nam Ô…
Ngành chế biến cùng với nuôi trồng và khai thác đã đóng góp đáng kể cho kinh tế của
vùng và tạo ra một số thương hiệu cho sản phẩm thủy sản Việt Nam. Nhu cầu tiêu dùng
nội địa và xuất khẩu gia tăng làm tăng giá bán, kích thích khai thác thủy sản phục vụ
cho nhu cầu chế biến thực phẩm.
Bên cạnh đó, diện tích mặt nước nuôi trồng vùng DHNTB là 23.100 ha (chiếm
2,3% cả nước) sản lượng nuôi trồng chiếm khoảng 2% 0, vùng có nhiều cơ sở sản xuất
tôm giống, cá giống và có nhiều mô hình nuôi trên biển có hiệu quả: tôm hùm lồng, cá
mú bè, trai lấy ngọc… Sự xuất hiện nhiều trang trại nuôi chuyên canh chuyển đổi
phương thức nuôi quảng canh, quảng canh cải tiến sang bán thâm canh và thâm canh
cũng như các cơ sở sản xuất giống thủy sản đã góp phần quan trọng vào sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn. Sự phát triển mạnh mẽ của nuôi
thủy sản tác động đến tăng cầu về thức ăn thủy sản phục vụ nuôi, đặc biệt các loài cá
nhỏ, giáp xác…thúc đẩy khai thác nghề lưới kéo đơn. Hoạt động nuôi trồng trong thời
gian qua phát triển mạnh, nhưng công tác qui hoạch và bảo vệ nguồn lợi chưa được thực
hiện triệt để dẫn đến tình trạng ô nhiễm môi trường, dịch bệnh xảy ra nhiều: bệnh đốm
trắng trên tôm sú, các bệnh khác trên tôm hùm, cá mú… là các đối tượng nuôi có giá trị
kinh tế cao. Một số vùng nuôi trên biển, chất thải rắn từ vỏ các loài giáp xác đe dọa nơi
sinh sống các đối tượng thủy sản, làm suy giảm nguồn lợi ven bờ.
4. Một số đề xuất về quản lý nhằ