Mỗi ngày có thể bạn đi đến cơ quan bằng xe máy của hãng Yamaha hay Honda, điện thoại bạn dùng có thể được sản xuất tại Mỹ, quần áo bạn mặc có thể được sản xuất tại Ý, Trung Quốc, Hồng Kong hay Việt Nam, cà phê mà bạn uống có thể được sản xuất từ hạt cà phê ở Nam Mỹ hay Việt Nam.
Các vật mà chúng ta sỡ hữu hay các dịch vụ mà chúng ta đang sử dụng đó đều có thể đến từ nhiều nước khác nhau trên thế giới. Thậm chí như với một thương hiệu của một nước này nhưng có thể được sản xuất ở một nước khác. Dân chúng sống tại các quốc gia khác nhau đều có thể sử dụng sản phẩm, dịch vụ như nhau. Chúng ta có thể lái xe Ford của Đức, sử dụng máy tính IBM hay ti vi của Nhật. Người dân khắp thế giới bay trên các hãng United hay America Airlines bằng các máy bay do hãng Boeing chế tạo của Mỹ hay mua dầu của hãng Mobil Thật ra, tất cả chúng ta đều đã trở thành một bộ phận của ngôi làng toàn cầu.
Thật vậy, kinh tế thế giới ngày nay phát triển theo xu hướng toàn cầu hóa, không có một quốc gia nào tách khỏi phần còn lại của thề giới. Hoạt động của các công ty cũng chịu tác động của xu hướng toàn cầu này. Do vậy, đối với những quốc gia trên thế giới cũng như nước ta, việc nghiên cứu hoạt động kinh doanh quốc tế trở nên hết sức cấp thiết. Thành công sẽ đến với những công ty có cơ cấu tổ chức tốt và nghiên cứu kỹ môi trường kinh doanh quốc tế từ đó hoạch định chiến lược kinh doanh phù hợp với từng giai đoạn phát triển của công ty. Đó cũng chính là nội dung mà nhóm 15 sẽ trình bày qua phần “ QUẢN TRỊ QUỐC TẾ”.
65 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1489 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Báo cáo Quản trị quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
---&---
LỜI MỞ ĐẦU
---&---
Mỗi ngày có thể bạn đi đến cơ quan bằng xe máy của hãng Yamaha hay Honda, điện thoại bạn dùng có thể được sản xuất tại Mỹ, quần áo bạn mặc có thể được sản xuất tại Ý, Trung Quốc, Hồng Kong hay Việt Nam, cà phê mà bạn uống có thể được sản xuất từ hạt cà phê ở Nam Mỹ hay Việt Nam.
Các vật mà chúng ta sỡ hữu hay các dịch vụ mà chúng ta đang sử dụng đó đều có thể đến từ nhiều nước khác nhau trên thế giới. Thậm chí như với một thương hiệu của một nước này nhưng có thể được sản xuất ở một nước khác. Dân chúng sống tại các quốc gia khác nhau đều có thể sử dụng sản phẩm, dịch vụ như nhau. Chúng ta có thể lái xe Ford của Đức, sử dụng máy tính IBM hay ti vi của Nhật. Người dân khắp thế giới bay trên các hãng United hay America Airlines bằng các máy bay do hãng Boeing chế tạo của Mỹ hay mua dầu của hãng Mobil… Thật ra, tất cả chúng ta đều đã trở thành một bộ phận của ngôi làng toàn cầu.
Thật vậy, kinh tế thế giới ngày nay phát triển theo xu hướng toàn cầu hóa, không có một quốc gia nào tách khỏi phần còn lại của thề giới. Hoạt động của các công ty cũng chịu tác động của xu hướng toàn cầu này. Do vậy, đối với những quốc gia trên thế giới cũng như nước ta, việc nghiên cứu hoạt động kinh doanh quốc tế trở nên hết sức cấp thiết. Thành công sẽ đến với những công ty có cơ cấu tổ chức tốt và nghiên cứu kỹ môi trường kinh doanh quốc tế từ đó hoạch định chiến lược kinh doanh phù hợp với từng giai đoạn phát triển của công ty. Đó cũng chính là nội dung mà nhóm 15 sẽ trình bày qua phần “ QUẢN TRỊ QUỐC TẾ”.
NỘI DUNG
---&---
I. BẢN CHẤT CỦA QUẢN TRỊ QUỐC TẾ:
1. KINH DOANH QUỐC TẾ
1.1. Khái niệm hoạt động kinh doanh quốc tế
Hoạt động kinh doanh quốc tế là các hợp đồng liên quan đến lợi nhuận vượt qua các biên giới quốc tế. Nó bao gồm nguồn cung cấp từ các nước khác nhau, sản phẩm hoặc dịch vụ được bán đi cho khách hàng khắp nơi và dòng tiền được chuyển đi trên khắp thế giới.
Nếu hoạt động của công ty tư nhân diễn ra nhằm tìm kiếm lợi nhuận thì hoạt động của chính phủ bảo trợ trong kinh doanh quốc tế có thể vì mục đích lợi nhuận hoặc không. Để đạt được mục tiêu quốc tế, công ty phải thiết lập các hình thức hoạt động quốc tế và chúng có thể khác nhiều so với hoạt động trong nước.
Việc tiến hành các hoạt động kinh doanh quốc tế tùy thuộc vào các mục tiêu cũng như các phương tiện mà công ty sử dụng, sẽ tác động và bị tác động bởi môi trường cạnh tranh của quốc gia mà công ty hướng đến.
1.2. Động cơ tham gia kinh doanh quốc tế của các doanh nghiệp
Việc tham gia vào hoạt động thương mại quốc tế là một xu thế bắt buộc, một yêu cầu khách quan, mà khi tham gia vào mậu dịch thế giới, doanh nghiệp tìm thấy môt số thuận lợi như sau:
Thông qua xuất khẩu, doanh nghiệp mở rộng được thị trường tiêu thụ, kể cả dịch vụ, vì rõ ràng là thị trường nước ngoài lớn hơn nhiều so với thị trường trong nước; mở rộng được đầu tư.
Khi thị trường nội địa không tiêu thụ hết sản phẩm của Công ty, thì thị trường quốc tế là một lối thoát duy nhất để tiêu thụ sản phẩm dư thừa, kết quả nhà xuất khẩu có thể phân bổ chi phí cố định cho nhiều sản phẩm, hạ thấp giá thành, nâng cao lợi nhuận, dẫn đến giá bán có khả năng hạ thấp tạo điều kiện tác động trở lại để đẩy mạnh khối lượng hàng hóa bán ra hơn nữa
Giảm được rủi ro: bán ở nhiều thị trường tốt hơn chỉ bán ở một nước.
Ước vọng của các nhà lãnh đạo: các nhà lãnh đạo cao cấp, cổ đông đều muốn Công ty của họ tham gia thương mại quốc tế.
Mở rộng chu kỳ sống của sản phẩm.
Khai thác lợi thế hiện có trong thị trường chưa được khai thác.
Tạo thêm thu nhập từ những kỹ thuật hiện có thông qua nhượng bản quyền (licensing) đặc quyền kinh tiêu ( franchising).
Nâng cao hiểu biết về cạnh tranh quốc tế.
Phát triển thêm lợi nhuận để đầu tư, tạo công ăn việc làm.
Thực hiện tốt quản trị nhân viên cũng như tiến bộ của sản phẩm (do thông qua cạnh tranh).
2.KHÁI NIỆM, BẢN CHẤT VÀ CHỨC NĂNG CỦA QUẢN TRỊ QUỐC TẾ
2.1 Khái niệm:
Quản trị kinh doanh quốc tế: là quá trình hoạch định, tổ chức, lãnh đạo và kiểm soát trong các tổ chức có tham gia vào hoạt động kinh doanh quốc tế nhằm đạt được mục tiêu kinh doanh quốc tế của doanh nghiệp.
2.2 Bản chất của quản trị quốc tế:
Bản chất của quản trị quốc tế là sự phối hợp các nguồn lực (con người, tiền vốn và nguồn lực vật chất) sao cho chúng được sử dựng có hiệu quả nhất trong hoạt động kinh doanh quốc tế của doanh nghiệp.
2.3 Chức năng của quản trị quốc tế:
Quản trị kinh doanh quốc tế là hoạch định, tổ chức, lãnh đạo và kiểm soát trong các tổ chức có tham gia vào hoạt động kinh tế quốc tế.
2.3.1, Hoạch định: là một quá trình ấn định những mục tiêu, xây dựng và chọn lựa những giải pháp tốt nhất để thực hiện có hiệu quả những mục tiêu đó.
Hoạch định vạch rõ con đường để đi tới mục tiêu.
Hoạch định chỉ ra các giải pháp để đạt được mục tiêu
2.3.2, Tổ chức: là Chức năng quản trị liên quan đến hoạt động xây dựng và phát triển cơ cấu (bộ máy) tổ chức để đảm nhận những hoạt động cần thiết, xác lập các mối quan hệ về quyền hạn và trách nhiệm giữa các bộ phận, phân hệ đó.
Nội dung của Chức năng tổ chức
Thiết kế, phát triển cơ cấu tổ chức
Xây dựng nguyên tắc thủ tục và qui trình làm việc
2.3.3, Lãnh đạo: Có nhiều cách hiểu khác nhau về lãnh đạo:
Lãnh đạo là tìm cách ảnh hưởng đến người khác để đạt được các mục tiêu của tổ chức.
Lãnh đạo là chỉ dẫn điều khiển, ra lệnh và đi trước.
Lãnh đạo là tác động đến người khác, truyền cảm hứng, khơi dậy lòng nhiệt quyết của họ đối với công việc, tổ chức và những người xung quanh.
2.3.4, Kiểm soát: là quá trình đo lường kết quả thực tế và so sánh với những tiêu chuẩn nhằm phát hiện sự sai lệch và nguyên nhân sự sai lệch, đưa ra biện pháp điều chỉnh kịp thời nhằm khắc phục sự sai lệch hoặc nguy cơ sai lệch, đảm bảo tổ chức đạt được các mục tiêu và các kế hoạch vạch ra.
Kiểm soát là chức năng của mọi nhà quản trị trong tổ chức.
Kiểm soát là chức năng cuối cùng khép kín quá trình quản trị.
3. CÁC TỔ CHỨC CÓ THAM GIA QUẢN TRỊ QUỐC TẾ:
Các công ty thuộc tất cả các loại hình, các loại quy mô và ở tất cả các ngành đều tham gia vào hoạt động kinh doanh quốc tế. Tất cả các công ty sản xuất, công ty dịch vụ và công ty bán lẻ đều tìm kiếm khách hàng ngoài biên giới quốc gia mình.
Các tổ chức tham gia quản trị quốc tế:
Các doanh nghiệp nội địa ( A domestic budiness):
Kinh doanh nội địa sử dụng chủ yếu tất cả các tài nguyên của mình và bán tất cả sản phẩm, dịch vụ của mình trong phạm vi một nước duy nhất. Nhiều doanh nghiệp nhỏ hoạt động chủ yếu ở trong nước. Tuy nhiên, một số ít (nếu có thể) các doanh nghiệp nội địa lớn ngày nay đều tham gia vào hoạt động thế giới.
Các doanh nghiệp nhỏ đang ngày càng tham gia tích cực vào hoạt động thương mại hay đầu tư quốc tế. Chính sự đổi mới công nghệ đã gỡ bỏ nhiều trở ngại thực tế đối với các hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp nhỏ.
Trong khi các kênh phân phối truyền thông chỉ cho phép các doanh nghiệp lớn thâm nhập vào các thị trường ở xa thì phân phối qua mạng điện tử là giải pháp ít tốn kém và có hiệu quả đối với nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Doanh nghiệp quốc tế ( An international business):
Doanh nghiệp quốc tế chủ yếu đặt căn cứ tại một quốc gia duy nhất, nhưng lại chiếm một số thị phần có ý nghĩa về các tài nguyên hay doanh số của mình từ các quốc gia khác.
3.3 Các doanh nghiệp đa quốc gia (A multinational business):
Các công ty đa quốc gia có thị trường tiêu thụ khắp thế giới nơi công ty mua nguyên liệu, vay tiền, chế tạo và bán các sản phẩm của mình.
Một công ty lớn có các nhà máy phân bổ trên khắp thế giới cũng được gọi là công ty quốc tế, hay còn gọi là tập đoàn đa quốc gia (MNC)- một công ty tiến hành đầu tư trực tiếp (dưới hình thức các chi nhánh sản xuất hoặc marketing) ra nước ngoài ở một vài hay nhiều quốc gia khác nhau, duy trì sự kiểm soát qua các chính sách để đạt được các triển vọng, mục tiêu toàn cầu. MNC là công ty có sở hữu hoặc kiểm soát các phương tiện sản xuất kinh doanh ở hải ngoại. Với triển vọng này các nhà quản trị cấp cao phân phối nguồn lực và các hoạt động phối hợp để đạt được lợi ích cao nhất của điều kiện kinh doanh.
Như vậy. mặc dù tất cả các công ty có liên quan đến một hay một vài khía cạnh nào đó của thương mại hay của đầu tư quốc tế đều được coi là công ty quốc tế, nhưng chỉ có các công ty đầu tư trực tiếp ra nước ngoài mới được gọi là công ty đa quốc gia.
3.4 Doanh nghiệp toàn cầu (A global business):
Doanh nghiệp toàn cầu vượt lên trên các biên giới quốc gia và không cam kết với một quốc gia bản địa duy nhất nào.
Tóm lại, Công ty quốc tế là một công ty tham gia trực tiếp vào bất kỳ hình thức nào của hoạt động kinh doanh quốc tế. Vì vậy sự khác nhau của các công ty là ở phạm vi và mức độ tham gia vào kinh doanh quốc tế. Chẳng hạn, mặc dù một công ty nhập khẩu chỉ mua hàng từ các nhà nhập khẩu nước ngoài, nhưng nó vẫn được coi là một công ty quốc tế.
4. CÁC ĐỊNH HƯỚNG ĐỐI VỚI QUẢN TRỊ QUỐC TẾ
Các nhà quản trị cao cấp thường có một trong bốn định hướng sau:
- Định hướng vị chủng: là định hướng mà các hoạt động điều hành của công ty được thực hiện ở nơi đặt trụ sớ chính
- Định hướng đa trung tâm: là cách thức mà các nhà quản lý cho rằng sẽ tốt vì các tổ chức nhỏ đặt ở các địa phương (nước ngoài) sẽ được đào tạo bởi người bản xứ. Đây là phương pháp tốt giúp tổ chức hiểu rõ được văn hóa, ngôn ngữ cũng như thị trường một cách tốt nhất. Ví dụ như các chi nhánh của công ty được đặt tại các nơi trên thế giới sẽ hoạt động dưới sự hướng dẫn của địa phương theo sát với sự kiểm soát tài chính của công ty mẹ.
- Định hướng vùng: là định hướng dựa vào sự tương đồng giữa các nước trong một vùng và những vấn đề trong cùng một vùng sẽ được giải quyết bởi cá nhân trong vùng đó. Điển hình, các trụ sở đại diện ở các vùng phối hợp các chi nhánh trong vùng lại với nhau, còn trụ sở chính thì quản lý tổng thể.
- Định hướng toàn cầu: là định hướng cần thiết cho cả công ty mẹ lẫn các chi nhánh dù là ở địa phương hay nước ngoài để giải quyết các vấn đề trên toàn cầu.
II. ĐÁNH GIÁ MÔI TRƯỜNG QUỐC TẾ
1. CÁC YẾU TỐ MÔI TRƯỜNG:
Sự gia tăng đáng kể về đầu tư nước ngoài và tài chính quốc tế đã làm cho mối quan hệ sản xuất của các quốc gia gắn chặt với nhau hơn. Quốc tế hóa tài chính dẫn đến sự chuyển dịch tự do của nguồn vốn (đầu tư trực tiếp, đầu tư gián tiếp, hối phiếu, cổ phiếu) càng làm cho các quốc gia phụ thuộc lẫn nhau. Kinh tế của một quốc gia khó có thể phát triển nếu tách rời khỏi sự phát triển kinh tế của quốc gia khác.
Quá trình tự do hóa thương mại đã làm gia tăng khối lượng trao đổi công nghệ khoa học kỹ thuật, các luồng vốn, hàng hóa với tốc độ cao trong thời gian ngắn nhất… đã làm cho mối quan hệ kinh tế giữa các quốc gia phát triển cả bề rộng lẫn bề sâu.
Quá trình toàn cầu hóa dẫn đến nền kinh tế đang phát triển phụ thuộc vào thương mại quốc tế và kinh tế thế giới, nên dễ bị ảnh hưởng tác động từ những bất ổn về thị trường, kinh tế, chính trị, xã hội của các nước khác.
Do đó, để quản trị tốt hơn trong môi trường kinh doanh quốc tế thì nhà quản trị cần nắm rõ một số yếu tố sau:
1.1 Yếu tố kinh tế:
Các quốc gia trên thế giới được phân chia thành ba nhóm dựa trên nền kinh tế và mức độ phát triển công nghiệp.
Các quốc gia phát triển:
Nhóm đầu tiên, được gọi là các nước phát triển, với nền kinh tế mạnh và tốc độ phát triển công nghiệp cao, bao gồm Australia, New Zealand, Singapore, Canada, Hoa Kỳ, Tây Âu và Nhật Bản.
Các quốc gia kém phát triển:
Nhóm thứ hai là các nước kém phát triển (LDCs), bao gồm các quốc gia tương đối nghèo với thu nhập bình quân đầu người thấp, công nghiệp nhỏ và có tỷ lệ sinh cao.
Các nước công nghiệp mới:
Các nước đang nổi lên như là các quốc gia xuất khẩu những hàng hóa sản xuất chủ lực được gọi là các nước công nghiệp mới (NICs), bao gồm các quốc gia như Malaysia, Đài Loan và Hàn Quốc.
Chúng ta có thể nghĩ rằng công ty đa quốc gia hoạt động trên toàn thế giới. Trên thực tế, khoảng 95% có trụ sở tại các nước phát triển với khoảng 75% đầu tư nước ngoài được phân phối ở các nước phát triển. Tuy nhiên, sự thịnh vượng ngày càng tăng của nhiều nước kém phát triển (đặc biệt là nhóm NIC) có tiềm năng lớn để mở rộng thị trường.
Trong yếu tố kinh tế tác động đến việc quản trị quốc tế. Chúng ta cần phân tích làm rõ các yếu tố sau:
1.1.1, Cơ sở hạ tầng:
Quyết định tiến hành kinh doanh ở một lãnh thổ cũng phụ thuộc vào cơ sở hạ tầng. Cơ sở hạ tầng liên quan đến đường cao tốc, đường sắt, sân bay, cơ sở vật chất nước thải, nhà ở, cơ sở giáo dục, mạng thông tin liên lạc, các cơ sở vui chơi giải trí, và các tiện nghi kinh tế và xã hội khác là những dấu hiệu về sự phát triển kinh tế ở vùng đó.
Do tầm quan trọng của việc phát triển hệ thống công nghệ thông tin, nên hạ tầng truyền thông thông tin là quan trọng nhất. Theo nghiên cứu ngân hàng phát triển Châu Á, các nước trong khu vực cần đầu tư mạnh để nâng cấp cơ sở hạ tầng viễn thông. Ngoài ra cũng cần thiết chi đầu tư cho việc vận chuyển trong khu vực, hệ thống nước và năng lượng. Do đó, xây dựng cơ sở hạ tầng để hỗ trợ phát triển kinh tế là rất tốn kém. Nhưng nếu một quốc gia nào đó muốn kêu gọi các nhà đầu tư đầu tư sang nước mình thì việc xây dựng cơ sở hạ tầng là thật sự cần thiết.
1.1.2, Cán cân thanh toán và cán cân thương mại:
Một nhân tố kinh tế khác là cán cân thanh toán của quốc gia, tài khoản ghi chép hàng hóa và dịch vụ, vốn vay, vàng và các khoản mục khác đi vào và đi ra khỏi quốc gia đó. Cán cân thương mại, tài khoản theo dõi giữa xuất khẩu và nhập khẩu của một quốc gia, là một yếu tố quan trọng quyết định cán cân thanh toán quốc gia đó. Nếu một quốc gia có kim nghạch xuất khẩu lớn hơn nhập khẩu tức là quốc gia đó đã thặng dư được cán cân thương mại, điều này dẫn đến lượng dự trữ ngoại hối ở quốc gia đó được dư thừa giúp cải thiện cán cân thanh toán.
1.1.3, Tỷ giá hối đoái:
Nhắc đến môi trường kinh doanh quốc tế là nhắc đến tỷ giá hối đoái, là giá trị mà tại đó một đơn vị tiền tệ của một quốc gia có thể đổi được bao nhiêu tiền của quốc gia khác. Bởi vì tỷ giá hối đoái ảnh hưởng đến giá cả hàng hoá từ các nước khác nhau, nên việc thay đổi tỷ giá ảnh hưởng đến khả năng của một công ty tham gia vào kinh doanh quốc tế.
1.2 Yếu tố chính trị - pháp luật:
Chính trị và luật pháp vốn dĩ là những yếu tố không thể tách rời hoạt động kinh doanh. Đó là những yếu tố thuộc kiến trúc thượng tầng xã hội, tạo lập những khuôn khổ chung cho các hoạt động kinh doanh diễn ra bình thường. Nhưng ngược lại trong kinh doanh, nếu nắm bắt được những yếu tố trên thì sự đảm bảo cho thành công sẽ là rất lớn. Đặc biệt trong hoạt động kinh doanh quốc tế, nơi mà môi trường pháp luật và chính trị đa dạng và phức tạp hơn rất nhiều thì việc nghiên cứu yếu tố chính trị và luật pháp là rất cần thiết.
1.2.1, Rủi ro chính trị:
Tất cả các công ty thực hiện kinh doanh vượt ra khỏi phạm vi một quốc gia đều phải đối mặt với rủi ro chính trị- cụ thể sự thay đổi về chính trị có ảnh hưởng xấu đến công việc kinh doanh. Rủi ro chính trị ảnh hưởng đến nhiều nước khác nhau theo nhiều cách khác nhau. Nó có thể đe dọa đến thị trường xuất khẩu, điều kiện sản xuất hoặc gây khó khăn cho nhà đầu tư chuyển lợi nhuận về trong nước.
Rủi ro chính trị phát sinh là do những nguyên nhân sau:
Sự lãnh đạo của chính trị yếu kém;
Chính quyền bị thay đổi thường xuyên;
Sự dính líu đến chính trị của các nhà lãnh đạo tôn giáo và quân đội;
Hệ thống chính trị không ổn định;
Những vụ xung đột về chủng tộc, tôn giáo và các dân tộc thiểu số;
Sự liên kết kém chặt chẽ giữa các quốc gia.
1.2.1.1, Phân loại rủi ro chính trị:
Rủi ro chính trị có thể được thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau. Trước hết theo các doanh nghiệp, rủi ro chính trị được chia làm hai loại:
Rủi ro vĩ mô: đe dọa đến tất cả các doanh nghiệp không trừ một ngành nào. Rủi ro vĩ mô ảnh hưởng đến hầu hết các công ty – cả doanh nghiệp trong và ngoài nước.
Rủi ro vi mô: tác động đến những công ty thuộc một ngành nào đó.
1.2.1.2 Hậu quả mà rủi ro chính trị gây ra:
Xung đột và bạo lực: Xung đột địa phương có thể gây cản trở mạnh mẽ đến đầu tư của các công ty quốc tế. Bạo lực làm suy yếu khả năng sản xuất và phân phối sản phẩm, gây khó khăn cho việc nhận nguyên liệu và thiết bị gây cản trở việc tuyển dụng những nhân công giỏi. Xung đột nổ ra cũng đe dọa cả tài sản (văn phòng, nhà máy và thiết bị sản xuất) và cuộc sống của nhân công
Khủng bố và bắt cóc: Khủng bố có mục đích tạo ra sự lo sợ và ép buộc sự thay đổi thông qua việc gây ra những cái chết và tàn phá tài sản một cách bất ngờ và không lường trước được. Bắt cóc thường được sử dụng nhằm tài trợ tài chính cho các hoạt động khủng bố. Các hãng kinh doanh nước ngoài lớn là mục tiêu chính bởi vì những người làm việc ở đây khá “nặng túi” và có thể trả những khoản chuộc khá hậu hĩnh.
Sự thay dổi các chính sách: Sự thay đổi chính sách của chính phủ cũng có thể là do nguyên nhân mất ổn định xã hội hoặc là do có sự tham gia của các chính đảng mới.
1.2.2, Sự công hữu hóa:
Đôi khi một số chính quyền chiếm đoạt tài sản của các công ty trên lãnh thổ của họ. Sự chiếm đoạt diễn ra dưới 3 hình thức: Tịch thu, xung công và quốc hữu hóa.
Tịch thu: Là việc chuyển tài sản của công ty vào tay chính phủ mà không có sự đền bù nào cả. Thông thường không có cơ sở pháp lý yêu cầu đền bù hoặc hoàn trả lại tài sản.
Xung công: Là việc chuyển tài sản của tư nhân vào tay chính phủ nhưng được đền bù
Ngày nay, các chính phủ ít sử dụng đến giải pháp tịch thu hoặc xung công. Tại sao? Bởi vì một lẽ ảnh hưởng đến đầu tư trong tương lai. Các công ty đã đầu tư thì lo sợ mất tài sản và nó cũng ngăn cản các công ty mới bắt đầu đầu tư vào địa phương nếu việc tịch thu xảy ra.
Quốc hữu hóa: Quốc hữu hóa phổ biến hơn xung công và tịch thu. Trong khi xung công áp dụng đối với một hoặc một số công ty nhỏ trong một ngành, thì quốc hữu hóa diễn ra đối với toàn bộ ngành. Quốc hữu hóa là việc Chính phủ đứng ra đảm nhiệm cả một ngành.
Quốc hữu hóa cũng có sự khác nhau giữa các quốc gia. Trong khi các chính phủ Cuba, Bắc Triều Tiên kiểm soát mọi ngành, thì Mỹ và Canada chỉ kiếm1.1 soát một số ngành. Các nước khác như Pháp, Braxin, Mexico, Ban Lan và Ấn Độ cố gắng làm cân bằng giữa sở hữu nhà nước và sở hữu tư nhân.
1.2.3, Các luật đặc thù - Bản xứ:
1.2.3.1, Các chính sách địa phương:
Các nhà quản lý có thể phải xem xét đến những luật lệ và quy định áp dụng trong kinh doanh ở mỗi quốc gia. Hơn nữa, pháp luật ở nhiều quốc gia rất dễ thay đổi và luật mới ra đời tiếp tục tác động đến doanh nghiệp. Để những ảnh hưởng của địa phương có lợi cho họ, các nhà quản lý đề nghị những định hướng thay đổi có ảnh hưởng tích cực tới họ.
Các yêu cầu của địa phương có thể gây bất lợi sự tồn tại của các hãng trong dài hạn. Đặc biệt, họ có thể gây ra hai điểm bất lợi đối với các công ty hoạt động vượt ra ngoài phạm vi một quốc gia bất cứ lúc nào:
Thứ nhất, yêu cầu phải tuyển dụng những nhân công địa phương của họ có thể làm cho các công ty này thiếu những người làm việc có đủ trình độ
Thứ hai, yêu cầu các công ty sử dụng toàn bộ hoặc một phần nguyên, nhiên vật liệu của địa phương dẫn đến chi phí sản xuất cao, chất lượng giảm sút hoặc cả hai.
1.2.3.2, Luật mang tính chất tôn giáo:
Luật dựa trên nền tảng tôn giáo được gọi là luật thần quyền. Có 3 luật thần quyền nổi lên đó là Luật Đạo Hồi, đạo Hin-đu, luật Do Thái.
Các hãng hoạt động ở những nước tồn tại luật thần quyền phải nhạy cảm với niềm tin và văn hóa địa phương. Họ nên đánh giá hết các hoạt động sản xuất, kinh doanh bao gồm những thông lệ và chính sách đầu tư để đảm bảo phù hợp với không chỉ pháp luật mà còn tôn giáo và văn hóa địa phương.
1.2.3.3, Luật chống độc quyền:
Các đạo luật nhằm chống các công ty ấn định giá cả, chiếm lĩnh thị trường và tận dụng những lợi thế do độc quyền gọi là đạo luật chống độc quyền. Những đạo luật này cố gắng cung cấp cho khách hàng những sản phẩm đa dạng ở mức giá hợp lý.
Các công ty bị chế tài bởi luật chống độc quyền cho rằng họ bị mất lợi thế do phải chia sẻ thị phần với các đối thủ cạnh tranh trong nước. Vì vậy, những hãng hoạt động ở những nước có đạo luật chống độc quyền thường được m