Báo cáo tài chính (BCTC) lập bởi các doanh nghiệp, bao gồm doanh
nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV), về cơ bản nhằm mục đích cung cấp
thông tin hữu ích cho người sử dụng. Do sự khác biệt về quy mô và
đặc điểm kinh doanh nên đối tượng sử dụng thông tin trên BCTC
của DNNVV thường khác với doanh nghiệp lớn. Vì vậy việc xác định
nhóm đối tượng chính sử dụng BCTC của DNNVV cũng như yêu cầu
và đánh giá của họ về chất lượng thông tin trên BCTC là rất quan
trọng nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu người sử dụng. Qua đó, tạo điều
kiện thuận lợi cho các hoạt động của DNNVV liên quan đến người
sử dụng thông tin. Sử dụng phương pháp nghiên cứu định lượng, tác
giả xác định đối tượng chủ yếu sử dụng BCTC của DNNVV là ngân
hàng và cơ quan thuế. Hai nhóm đối tượng này đánh giá không cao
về chất lượng thông tin trên BCTC, đặc biệt là đặc điểm “trình bày
trung thực” và “khách quan”.
7 trang |
Chia sẻ: hadohap | Lượt xem: 553 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Báo cáo tài chính của doanh nghiệp nhỏ và vừa - Đối tượng sử dụng và chất lượng thông tin trên Báo cáo tài chính, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
28
© Học viện Ngân hàng
ISSN 1859 - 011X
Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng
Số 192- Tháng 5. 2018
Báo cáo tài chính của doanh nghiệp nhỏ và vừa-
đối tượng sử dụng và chất lượng thông tin trên
báo cáo tài chính
QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG & DOANH NGHIỆP
Nguyễn Bích Ngọc
Ngày nhận: 07/03/2018 Ngày nhận bản sửa: 20/03/2018 Ngày duyệt đăng: 23/04/2018
Báo cáo tài chính (BCTC) lập bởi các doanh nghiệp, bao gồm doanh
nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV), về cơ bản nhằm mục đích cung cấp
thông tin hữu ích cho người sử dụng. Do sự khác biệt về quy mô và
đặc điểm kinh doanh nên đối tượng sử dụng thông tin trên BCTC
của DNNVV thường khác với doanh nghiệp lớn. Vì vậy việc xác định
nhóm đối tượng chính sử dụng BCTC của DNNVV cũng như yêu cầu
và đánh giá của họ về chất lượng thông tin trên BCTC là rất quan
trọng nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu người sử dụng. Qua đó, tạo điều
kiện thuận lợi cho các hoạt động của DNNVV liên quan đến người
sử dụng thông tin. Sử dụng phương pháp nghiên cứu định lượng, tác
giả xác định đối tượng chủ yếu sử dụng BCTC của DNNVV là ngân
hàng và cơ quan thuế. Hai nhóm đối tượng này đánh giá không cao
về chất lượng thông tin trên BCTC, đặc biệt là đặc điểm “trình bày
trung thực” và “khách quan”.
Từ khóa: đối tượng sử dụng BCTC, DNNVV, chất lượng thông tin
1. Giới thiệu
ới vai trò ngày càng quan trọng
của DNNVV trong nền kinh tế thì
chất lượng thông tin trên BCTC
của DNNVV ngày càng được
các đối tượng sử dụng quan tâm.
Bởi đây là nguồn thông tin cốt yếu giúp người
sử dụng đưa ra những quyết định kinh tế liên
quan đến DNNVV như cho vay vốn, hợp tác
kinh doanh Nghiên cứu này tập trung làm rõ
đối tượng chính sử dụng BCTC của DNNVV,
cũng như những đánh giá của họ về chất lượng
thông tin trên BCTC. Nghiên cứu cũng so sánh
đánh giá về chất lượng thông tin trên BCTC
của người sử dụng với người cung cấp- những
người trực tiếp tạo ra sản phẩm BCTC của
DNNVV để từ đó doanh nghiệp có những điều
chỉnh nhất định trong lập và trình bày BCTC,
đáp ứng tốt hơn nhu cầu người sử dụng.
2. Tổng quan nghiên cứu
QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG & DOANH NGHIỆP
29Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 192- Tháng 5. 2018
2.1. Đối tượng chính sử dụng BCTC của
DNNVV
Trong IFRS for SMEs, người sử dụng BCTC
là các ngân hàng, nhà cung cấp, các tổ chức
chấm điểm tín dụng, khách hàng và các cổ đông
không tham gia quản lý (ACCA, 2008). Tuy
nhiên, kết quả từ nghiên cứu thực nghiệm về
người sử dụng BCTC SMEs đã chỉ ra các nhóm
đối tượng sử dụng khác nhau và phạm vi hẹp
hơn. Một nghiên cứu tương đối sớm về BCTC
thực hiện với các kiểm toán viên và giám đốc
của các công ty nhỏ ở Ai Len và Anh (Barker
và Noonan, 1996, Page, 1981, Page, 1984) đã
chỉ ra rằng tác dụng quan trọng nhất của BCTC
SME là cung cấp thông tin cho giám đốc doanh
nghiệp, sau đó đến các cơ quan thuế, ngân hàng
hoặc chủ nợ; còn cổ đông, nhà cung cấp và các
bên có liên quan khác ít quan trọng hơn. Tuy
nhiên, theo nghiên cứu của Page, M. (1984),
hầu hết giám đốc của các công ty nhỏ cũng là
các cổ đông chính.
Trong bảng hỏi thực hiện bởi Collis và Jarvis
(2000), những báo cáo bắt buộc của công ty
được lập chủ yếu cho ngân hàng và các nhà
cung cấp tài chính (69,1%), cơ quan thuế
(45,2%), và giám đốc công ty không phải là
chủ sở hữu (19%). Sian và Roberts (2009) lại
khẳng định rằng chủ sở hữu doanh nghiệp, cơ
quan thuế và ngân hàng là những đối tượng
chính sử dụng BCTC. Tương tự, trong khảo sát
bảng hỏi 589 DNNVV của Thái Lan tại Băng-
cốc, cơ quan thuế, cổ đông và nhà quản lý được
xem là các đối tượng chính sử dụng BCTC của
DNNVV (Srijunpetch, 2009). Ở Việt Nam,
các nghiên cứu chỉ ra rằng, đối tượng sử dụng
BCTC của DNNVV bao gồm các ngân hàng
(Đặng Đức Sơn và cộng sự, 2006) và cơ quan
thuế (Huge và D.Linh, 2003; Trần Thị Thanh
Hải, 2015).
2.2. Đánh giá về chất lượng thông tin trên
BCTC của DNNVV
Ở các DNNVV, phạm vi sử dụng thông tin thu
hẹp đáng kể so với doanh nghiệp lớn, các thông
tin trên BCTC chủ yếu phục vụ cho ngân hàng
và công tác điều hành quản lý, do đó cần thiết
phải có những bộ BCTC khác nhau tùy theo
quy mô doanh nghiệp (Stainbank, 2010). Mặt
khác, để đáp ứng yêu cầu người sử dụng, BCTC
của DNNVV cần đơn giản hơn so với BCTC
của doanh nghiệp lớn, nhờ đó tính hữu ích sẽ
được nâng lên (Sorin Briciu và cộng sự, 2009).
Tại Việt Nam, kết quả khảo sát của Đặng Đức
Sơn và cộng sự (2006) cho thấy đối tượng bên
ngoài tỏ ra lo ngại về tính trung thực của thông
tin do DNNVV cung cấp. Ngoài ra, thông tin
về dòng tiền cũng như các thông tin mang tính
dự báo cũng được xem khá quan trọng nhưng
các thông tin này lại không được cung cấp hoặc
được cung cấp một cách sơ sài. Từ đó, nhóm
tác giả đi tới kết luận, BCTC của DNNVV ở
Việt Nam cung cấp thông tin không hữu ích cho
việc ra quyết định.
Trần Thị Thanh Hải (2015), sau khi thực hiện
khảo sát với 2 nhóm đối tượng là bên cung cấp
và bên sử dụng thông tin đã khẳng định, đa số
ý kiến đồng ý với quan điểm DNNVV cung cấp
thông tin kịp thời, đầy đủ. Tuy nhiên nhận định
“thông tin kế toán DNNVV cung cấp thường
xuyên được sử dụng cho việc ra quyết định”
không nhận được tỷ lệ đồng thuận cao. Điều
này cũng phản ánh đúng thực trạng hiện nay
dường như BCTC của DNNVV chưa được coi
là kênh thông tin chính, là cơ sở đáng tin cậy để
ra các quyết định kinh tế.
Như vậy, từ tổng quan nghiên cứu trên có thể
thấy rằng, đối tượng sử dụng thông tin, cũng
như đánh giá về chất lượng thông tin trên
BCTC của DNNVV tại những quốc gia khác
nhau, vào những thời điểm, hoàn cảnh khác
nhau, sử dụng phương pháp nghiên cứu khác
nhau có thể không giống nhau. Tuy nhiên,
những nghiên cứu này mới tập trung chủ yếu
vào các nước phát triển, hoặc những vấn đề
phát sinh tại Việt Nam nhưng mang tính lý
thuyết chủ quan, chưa kiểm nghiệm trên diện
rộng. Đây chính là khoảng trống cho những
nghiên cứu tiếp theo.
3. Phương pháp nghiên cứu
Trong phạm vi nghiên cứu này, tác giả tìm hiểu
đối tượng chính sử dụng BCTC của DNNVV
tại Việt Nam bằng cách khảo sát trên diện rộng
QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG & DOANH NGHIỆP
30 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 192- Tháng 5. 2018
thông qua 544 phiếu khảo sát (bảng hỏi) đến kế
toán viên của các DNNVV trên địa bàn thành
phố Hà Nội. Tác giả lựa chọn cách tiếp cận với
người làm kế toán thông qua danh sách các đối
tượng đăng ký học lớp kế toán trưởng tại các
cơ sở đào tạo trên khu vực Thành phố Hà Nội.
Cách lựa chọn mẫu này được cho là ưu việt
nhất vì các lý do sau:
- Đây là những người đang thực hiện công tác
kế toán tại doanh nghiệp.
- Quá trình chọn mẫu có thể diễn ra thuận lợi
với tỷ lệ phản hồi cao.
Sau khi gửi, số phiếu thu về là 205 và số phiếu
hợp lệ là 192. Kết quả thu được được xử lý
trên phần mềm thống kê SPSS 22. Từ kết quả
này, tác giả xác định đối tượng chủ yếu sử
dụng BCTC DNNVV để tiếp tục gửi bảng hỏi
cho nhóm đối tượng này với tổng số phiếu là
628, số phiếu thu về là 253, và số phiếu hợp lệ
là 248. Mục tiêu khảo sát nhằm đánh giá chất
lượng thông tin trên BCTC từ góc độ người sử
dụng, sau đó so sánh với đánh giá về chất lượng
thông tin của người cung cấp là kế toán viên để
DNNVV có những điều chỉnh nhất định trong
lập và trình bày BCTC, đáp ứng tốt hơn nhu cầu
người sử dụng.
Tác giả sử dụng thang đo Likert 1-5 để chia
đánh giá của người cung cấp cũng như người
sử dụng BCTC thành 5 cấp độ từ “rất không
đồng ý” đến “rất đồng ý” tương ứng với 1 và 5,
mức độ trung bình tương ứng với điểm 3. Ngoài
ra, tác giả cũng tiến hành thực hiện kiểm định
independent sample t test, kiểm định hai mẫu
độc lập để so sánh trung bình mức độ đánh giá
về đặc điểm của thông tin trên BCTC giữa hai
nhóm đối tượng. Thời gian gửi tất cả các phiếu
khảo sát được tiến hành trong 3 tháng, từ tháng
6 đến tháng 9/2017.
4. Kết quả và thảo luận
4.1. Đối tượng sử dụng BCTC của DNNVV
Với câu hỏi “Ai là đối tượng sử dụng chính
những thông tin trên BCTC của doanh nghiệp
anh/chị?”, thì kết quả thu được chỉ ra rằng
doanh nghiệp xác định Ngân hàng và cơ quan
thuế là 2 đối tượng chính cần thông tin trên
BCTC của mình, với tỷ lệ tương ứng là 35,4%
và 32,8%. Các đối tượng khác như nhà quản
lý doanh nghiệp, nhà đầu tư và người lao động
không được xác định là đối tượng chủ yếu ở
đây.
Điều này cũng hoàn toàn phù hợp với kết quả
thu được từ câu hỏi BCTC được sử dụng cho
mục đích gì (Bảng 2).
Tác giả sử dụng thang đo Likert 1-5 trong
bảng hỏi để chia mức độ thường xuyên sử
dụng BCTC từ “Không bao giờ” đến “Rất
thường xuyên” cho các mục đích lập BCTC của
DNNVV. Kết quả thu được cho thấy, kế toán
viên thường xuyên cung cấp BCTC cho ngân
hàng trong hồ sơ xin vay vốn và thể hiện việc
tuân thủ yêu cầu khoản vay với mức độ thường
xuyên được đánh giá ở thang điểm 3,92. Ngược
lại, người trả lời cho rằng họ ít khi sử dụng
BCTC để xin tín dụng thương mại từ nhà cung
cấp và hỗ trợ việc đấu thầu, mức độ thường
xuyên tương ứng được đánh giá ở thang điểm
2,26 và 2,48. Điều này phù hợp với những
Bảng 1. Đối tượng sử dụng thông tin trên BCTC của DNNVV
Tần suất
Frequency
Phần trăm
Percent
Phần trăm hợp lệ
Valid Percent
Phần trăm dồn tích
Cumulative Percent
Hợp
lệ
Giám đốc/ quản lý doanh nghiệp 24 12,5 12,5 12,5
Ngân hàng 68 35,4 35,4 47,9
Cơ quan thuế 63 32,8 32,8 80,7
Người lao động 12 6,3 6,3 87,0
Nhà đầu tư 25 13,0 13,0 100,0
Tổng 192 100,0 100,0
Nguồn: Tác giả tổng hợp
QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG & DOANH NGHIỆP
31Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 192- Tháng 5. 2018
nghiên cứu trước đây (Sian và Roberts, 2009;
Đặng Đức Sơn và cộng sự., 2006) về đối tượng
sử dụng chính BCTC của DNNVV, trong đó
ngân hàng được xác định là người sử dụng quan
trọng BCTC doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, đa số người trả lời cho rằng họ
lập BCTC để hoàn thành nghĩa vụ về thuế, với
giá trị mean xấp xỉ 4 (3,86). Do DNNVV phải
nộp BCTC và tờ khai thuế cho cơ quan thuế nên
đây là một trong những lý do chính khiến doanh
nghiệp phải lập BCTC. Điều này hoàn toàn
phù hợp với nghiên cứu của Sutthirat (2012) về
DNNVV ở Thái Lan khi 79,1% các kế toán viên
trả lời đều cho rằng họ lập BCTC nhằm mục
đích phục vụ đối tượng bên ngoài như cơ quan
thuế chứ không phải cho mục đích quản trị.
Kết quả tương tự cũng được tìm thấy trong một
nghiên cứu ở Đức, khi đa số DNNVV cho rằng
BCTC là quan trọng cho việc tính thuế (Haller
&Eierle, 2007).
Mức độ sử dụng BCTC nhằm so sánh kết quả
hoạt động với các đối thủ cạnh tranh và đưa
ra các quyết định trong doanh nghiệp như lập
kế hoạch, chia lương, thưởng còn tương đối
hạn chế (ở mức độ trung bình là 3,17 và 3,25).
Điều này có nghĩa là tính hữu ích của BCTC
liên quan đến khía cạnh quản trị doanh nghiệp
dường như không phù hợp với đa số DNNVV
trong mẫu khảo sát.
4.2. Đánh giá về chất lượng BCTC của
DNNVV
Để đánh giá chất lượng thông tin trên BCTC,
tác giả phân tích đánh giá của cả bên cung cấp
và bên sử dụng. Kết quả khảo sát qua xử lý
thống kê mô tả được thể hiện trong Bảng 3.
Kết quả khảo sát cho thấy các đối tượng được
khảo sát nhìn chung đồng ý một phần với các
nhận định đưa ra (do mức điểm bình quân theo
Bảng 2. Mục đích sử dụng BCTC của DNNVV
Vay
vốn từ
ngân
hàng
Vay tín
dụng
thương
mại từ nhà
cung cấp
Hỗ trợ
đấu thầu
hoặc xin
giấy phép
So sánh
kết quả
hoạt động
với đối thủ
cạnh tranh
Tuân thủ
những
ràng buộc
trong hợp
đồng vay
Hoàn
thành
nghĩa vụ
với cơ
quan thuế
Quyết định
trong doanh
nghiệp (lập kế
hoạch, chia
lương..)
N
Hợp lệ 192 192 192 192 192 192 192
Thiếu 0 0 0 0 0 0 0
Trung bình 3,92 2,26 2,48 3,17 3,73 3,86 3,25
Độ lệch chuẩn 1,022 ,984 1,015 ,999 ,967 ,943 1,030
Nguồn: Tác giả tổng hợp
Bảng 3. Đặc điểm thông tin trình bày trên BCTC-
Đánh giá của người cung cấp và người sử dụng
Tiêu chí đánh
giá
Đặc điểm thông tin trình bày trên BCTC
Trung thực Khách quan Đầy đủ Đúng kỳ Dễ hiểu Có thể so sánh
Đánh giá của người cung cấp
Trung bình 3,41 3,49 3,51 3,71 3,46 3,44
Độ lệch chuẩn 1,333 1,202 1,396 1,222 1,068 1,360
Đánh giá của người sử dụng
Trung bình 3,02 3,05 3,11 3,95 3,14 3,21
Độ lệch chuẩn 1,339 1,372 1,403 1,142 1,342 1,402
Nguồn: Tác giả tổng hợp
QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG & DOANH NGHIỆP
32 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 192- Tháng 5. 2018
thang đo Likert hơn 3, trong khoảng từ 3 đến
4), trong đó, mức đồng ý cao hơn dành cho ý
kiến DNNVV cung cấp thông tin “Đúng kỳ”
và DNNVV cung cấp thông tin “Đầy đủ”; mức
đồng ý thấp nhất đối với ý kiến cho rằng thông
tin trên BCTC của DNNVV được “trình bày
trung thực” và “khách quan” với mức điểm
trung bình do người cung cấp đánh giá tương
ứng là 3,41 và 3,49, người sử dụng đánh giá
tương ứng là 3,02 và 3,05. Điều này cũng phản
ánh đúng thực trạng hiện nay dường như BCTC
của DNNVV chưa được coi là kênh thông tin
chính, là cơ sở đáng tin cậy để ra các quyết
định kinh tế.
Kết quả kiểm định trong Bảng 4 giúp đánh giá
sự khác biệt ý kiến giữa một bên là kế toán
viên, người tạo lập thông tin với một bên là
chuyên viên thuế, nhân viên ngân hàng, những
người sử dụng thông tin.
Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê trong
đánh giá của người cung cấp thông tin so với
người sử dụng thông tin trong việc đánh giá
những đặc điểm của thông tin được cung cấp
trên BCTC của DNNVV về mức độ trung thực,
khách quan, đầy đủ, dễ hiểu và có thể so sánh
(p< 0,05). Trong đó, người cung cấp thông tin
có đánh giá cao hơn trong tất cả các mặt so với
người sử dụng thông tin. Điều này hoàn toàn
phù hợp vì kế toán viên là người tạo ra sản
phẩm thông tin kế toán, do đó việc đánh giá sản
phẩm do bản thân tạo ra sẽ tốt hơn so với đánh
giá của đối tượng sử dụng sản phẩm.
5. Kết luận và khuyến nghị giải pháp
Từ kết quả nghiên cứu cho thấy BCTC của
DNNVV chủ yếu phục vụ nhu cầu vay vốn từ
các NHTM và nộp cho cơ quan thuế để hoàn
thành nghĩa vụ pháp lý. Tuy nhiên, theo đánh
giá của những đối tượng thường xuyên sử dụng
thông tin của DNNVV bao gồm ngân hàng
và cơ quan thuế thì BCTC chưa đáp ứng nhu
cầu thông tin của họ, cụ thể tính trung thực và
khách quan bị đánh giá ở mức trung bình. Điều
này làm giảm tác dụng cung cấp thông tin hữu
ích của BCTC DNNVV.
Nguyên nhân của thực tế này một phần là do hệ
thống các văn bản pháp lý hướng dẫn về việc
lập và trình bày BCTC có những điểm chưa
thực sự hợp lý, đầy đủ và sát với thực tiễn nên
đôi khi còn gây khó khăn cho người thực hiện
cũng như người sử dụng. Có thể kể đến một số
điểm như sau:
- Một là, người sử dụng thông tin, cụ thể là các
ngân hàng rất quan tâm đến sự thay đổi vốn
chủ sở hữu để đánh giá khả năng thu hồi vốn,
Bảng 4. So sánh đánh giá về chất lượng thông tin của người cung cấp và người sử dụng
Tiêu chí đánh giá Chủ thể đánh giá Trung bình Độ lệch chuẩn p
Trung thực
Người cung cấp TT 3,41 1,333
0,000
Người sử dụng TT 3,02 1,339
Khách quan
Người cung cấp TT 3,49 1,202
0,000
Người sử dụng TT 3,05 1,372
Đầy đủ
Người cung cấp TT 3,51 1,396
0,003
Người sử dụng TT 3,11 1,403
Đúng kỳ
Người cung cấp TT 3,71 1,222
0,039
Người sử dụng TT 3,95 1,142
Dễ hiểu
Người cung cấp TT 3,46 1,068
0,000
Người sử dụng TT 3,14 1,342
Có thể so sánh
Người cung cấp TT 3,44 1,360
0,004
Người sử dụng TT 3,21 1,402
Nguồn: Tác giả tổng hợp
QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG & DOANH NGHIỆP
33Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 192- Tháng 5. 2018
đánh giá phần có thể bù đắp cho những nghĩa
vụ thanh toán nợ của doanh nghiệp, đồng thời
để xem xét tính hợp pháp của tài sản đảm bảo.
Thông thường ngân hàng sẽ chỉ chấp nhận tài
sản đảm bảo là tài sản của doanh nghiệp, hoặc
của chủ sở hữu doanh nghiệp, nên nếu doanh
nghiệp có sự thay đổi trong chủ sở hữu cũng
cần thông báo cho ngân hàng biết. Theo IFRS
for SMEs và GAAPs của Mỹ, báo cáo thay đổi
vốn chủ sở hữu là báo cáo bắt buộc, độc lập
trong bộ các BCTC thể hiện những tác động
vào vốn chủ do kết quả hoạt động kinh doanh
mang lại. Tại Việt Nam, Thông tư 133/2016/
TT-BTC yêu cầu thông tin thay đổi vốn chủ sở
hữu sẽ phản ánh trên Thuyết minh BCTC nên
những thông tin này chưa thực sự được doanh
nghiệp chú trọng trình bày.
- Hai là, theo chế độ kế toán hiện hành, với Báo
cáo lưu chuyển tiền tệ (BCLCTT), DNNVV có
thể lựa chọn một trong hai phương pháp lập là
Phương pháp trực tiếp hoặc phương pháp gián
tiếp. Phương pháp trực tiếp dựa trên số thu chi
thực tế từ các hoạt động của doanh nghiệp trong
kỳ, nó giúp ích cho việc dự báo dòng tiền trong
tương lai. Trong khi đó, phương pháp gián
tiếp lại thể hiện rõ hơn mối quan hệ giữa lợi
nhuận đạt được của doanh nghiệp với dòng tiền
trong kỳ, và được lập dựa trên các thông tin đã
trình bày trên Báo cáo kết quả hoạt động kinh
doanh và Bảng cân đối kế toán. Vì vậy, có thể
nói phương pháp lập này tiết kiệm chi phí hơn
nhưng yêu cầu trình độ kế toán viên phải hiểu
được sự khác biệt cũng như mối quan hệ giữa
doanh thu/chi phí và dòng tiền. Tuy nhiên, thực
tế cho thấy trình độ kế toán viên trong DNNVV
còn hạn chế, việc lập BCLCTT theo phương
pháp gián tiếp dễ dẫn đến nhiều sai sót.
- Ba là, đối với Thuyết minh BCTC, mặc dù là
phần bắt buộc của BCTC và đã có mẫu thuyết
minh BCTC nhưng lại không có tiêu chuẩn
chung nào quy định về độ chính xác và rõ ràng.
Thông thường các công ty sẽ công bố thông tin
ít nhất bằng yêu cầu tối thiểu của luật pháp để
tránh những rắc rối không đáng có. Nhưng sự
tối thiểu này nằm ở đâu thì lại tùy thuộc vào
phán xét chủ quan của người làm kế toán và
đội ngũ quản lý doanh nghiệp. Chính điều này
một phần làm cho Thuyết minh BCTC trở nên
sơ sài, thông tin chỉ mang tính chất liệt kê chứ
chưa có tác dụng trong việc ra quyết định của
người sử dụng.
Từ những nguyên nhân trên, nhằm cải thiện
chất lượng thông tin trên BCTC của DNNVV,
đáp ứng tốt hơn nhu cầu người sử dụng, tác giả
đề xuất một số giải pháp liên quan đến nội dung
BCTC của DNNVV cụ thể như sau:
- Đối với thông tin sự thay đổi vốn chủ hữu,
nhằm phù hợp với xu hướng lập và công bố
thông tin trên BCTC trên thế giới, đáp ứng nhu
cầu của người sử dụng, nhưng vẫn không bị
gánh nặng báo cáo quá lớn, các DNNVV ở Việt
Nam nên công bố thêm thông tin thay đổi vốn
chủ sở hữu trên BCTC, nhưng kết hợp thông
tin này trên Báo cáo kết quả hoạt động kinh
doanh. Việc kết hợp này vừa giúp phản ánh đầy
đủ thông tin người sử dụng cần, vừa ngắn gọn,
dễ hiểu, dễ thực hiện cho doanh nghiệp. Những
thông tin cụ thể hơn về thay đổi vốn chủ sở
hữu sẽ được trình bày trên Thuyết minh BCTC
nhằm đáp ứng tối đa nhu cầu người sử dụng.
- Đối với BCLCTT, chế độ kế toán chỉ nên qui
định các DNNVV lập theo phương pháp trực
tiếp vì phương pháp này sẽ giúp cho người sử
dụng BCTC đánh giá được mối liên hệ giữa các
chỉ tiêu tài sản, nợ phải trả, các khoản chi phí,
doanh thu, thu nhập với các dòng tiền thu, chi.
Đồng thời, thông tin về các luồng tiền trực tiếp
rất hữu ích trong việc xem xét khả năng tạo tiền
để trang trải các khoản nợ, đầu tư bổ sung, qua
đó có thể đánh giá tính thanh khoản và sự linh
hoạt tài chính của doanh nghiệp. Phương pháp
trực tiếp cũng giúp giảm thiểu những sai sót khi
sử dụng phương pháp gián tiếp do giới hạn về
trình độ của người lập. Trên BCLCTT, một số
thông tin không phù hợp với DNNVV cũng cần
phải loại bỏ như thông tin về luồng tiền trên cơ
sở thuần, thông tin về luồng tiền liên quan đến
việc mua và thanh lý công ty con.
- Đối với Thuyết minh BCTC, cần có quy định
cụ thể để giảm tình trạng thuyết minh BCTC
nhưng chưa thực sự là “Thuyết minh” như hiện
nay nhưng vẫn phải đảm bảo các bí mật thương
mại và bí quyết duy trì khả năng cạnh tranh của
doanh nghiệp. Ví dụ, một số khoản mục quan
trọng chưa có quy định phải có thuyết minh
để bổ sung thông tin như khoản mục phải thu
QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG & DOANH NGHIỆ