Cạnh tranh là một quy luật tất yếu khách quan tồn tại trong nền kinh tế hàng hoá hoạt động theo cơ chế thị trường không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người. Trong mọi phương diện của cuộc sống ý thức vươn lên luôn là yếu tố chủ đạo, hướng suy nghĩ và hành động của con người. Hoạt động sản xuất kinh doanh là một mảng quan trọng trong đời sống xã hội, trong đó ý thức vươn lên không đơn thuần là trở thành người đứng đầu mà có thể là sự thành công trong một lĩnh vực nào đó hay là đạt được một mục tiêu cụ thể nào đó. Suy nghĩ và hành động trong sản xuất kinh doanh luôn bị chi phối bởi tính kinh tế khắc nghiệt nhất là cạnh tranh. Cạnh tranh luôn gắn liền với thị trường vì cạnh tranh được hình thành và phát triển trong lòng thị trường. Vậy cạnh tranh là gì ?
94 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1314 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Báo cáo thực tập tại Công ty cổ phần Mỹ nghệ xuất nhập khẩu Hà Nội (HANARTEX), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chương 1
Một số vấn đề lý luận cơ bản về khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường
1. Cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường:
Cạnh tranh là một quy luật tất yếu khách quan tồn tại trong nền kinh tế hàng hoá hoạt động theo cơ chế thị trường không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người. Trong mọi phương diện của cuộc sống ý thức vươn lên luôn là yếu tố chủ đạo, hướng suy nghĩ và hành động của con người. Hoạt động sản xuất kinh doanh là một mảng quan trọng trong đời sống xã hội, trong đó ý thức vươn lên không đơn thuần là trở thành người đứng đầu mà có thể là sự thành công trong một lĩnh vực nào đó hay là đạt được một mục tiêu cụ thể nào đó. Suy nghĩ và hành động trong sản xuất kinh doanh luôn bị chi phối bởi tính kinh tế khắc nghiệt nhất là cạnh tranh. Cạnh tranh luôn gắn liền với thị trường vì cạnh tranh được hình thành và phát triển trong lòng thị trường. Vậy cạnh tranh là gì ?
1.1. Khái niệm về cạnh tranh.
Khái niệm về cạnh tranh được nhiều tác giả trình bày dưới nhiều góc độ khác nhau trong các giai đoạn phát triển khác nhau của nền kinh tế xã hội. Vấn đề cạnh tranh kinh tế, về mặt lý luận, từ lâu đã được các nhà kinh tế học trước C.Mác và chính các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin cũng đã đề cập đến.
Khi đi nghiên cứu sâu về nền sản xuất hàng hoá tư bản chủ nghĩa và cạnh tranh tư bản chủ nghĩa, C.Mác đã phát hiện ra quy luật cạnh tranh cơ bản là : Quy luật điều chỉnh tỷ suất lợi nhuận bình quân giữa các ngành và qua đó hình thành nên hệ thống giá cả thị trường. Quy luật này dựa trên sự chênh lệch giữa giá cả và chi phí sản xuất và khả năng có thể bán hàng hoá dưới giá trị của nó nhưng vẫn thu được lợi nhuận.
Cạnh tranh vừa là môi trường, vừa là động lực trong nền kinh tế thị trường. Trong Văn kiện Đại hội VIII của Đảng cũng đã ghi rõ: “Cơ chế thị trường đòi hỏi phải hình thành một môi trường cạnh tranh lành mạnh, hợp pháp, văn minh. Cạnh tranh vì lợi ích phát triển đất nước, chứ không phải làm phá sản hàng loạt, lãng phí các nguồn lực, thôn tính lẫn nhau”(1) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr.27.
. Trong mục tiêu tổng quát của kế hoạch 5 năm 2001-2005 Đảng ta khẳng định cần phải: “Nâng cao rõ rệt hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế”(2) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.261.
.
Thuật ngữ “Cạnh tranh” được dùng ở đây là cách gọi tắt của cụm từ cạnh tranh kinh tế – một dạng cụ thể của cạnh tranh.
Cạnh tranh xuất hiện trong quá trình hình thành và phát triển của sản xuất và trao đổi hàng hoá. Do đó, hoạt động cạnh tranh gắn liền với sự tác động của các quy luật thị trường, như quy luật giá trị, quy luật cung-cầu…
Do cách tiếp cận khác nhau, bởi mục đích nghiên cứu khác nhau, nên trong thực tế có nhiều quan niệm khác nhau về cạnh tranh. Kế thừa các quan điểm của các nhà nghiên cứu chúng ta có thể thấy rằng: cạnh tranh là quan hệ nhằm phản ánh mối quan hệ giữa các chủ thể của nền kinh tế thị trường cùng theo đuổi mục đích lợi nhuận tối đa. Đó là sự ganh đua giữa các chủ thể nhằm giành được những điều kiện thuận lợi nhất để thu được lợi nhuận siêu ngạch về phía mình. Cạnh tranh còn là phương thức giải quyết mâu thuẫn lợi ích kinh tế giữa các chủ thể của nền kinh tế thị trường. Cạnh tranh không quyết định bản chất kinh tế - xã hội của các chế độ xã hội. Tính chất cạnh tranh bị chi phối bởi bản chất kinh tế - xã hội của những chế độ xã hội đó.
Với các quan niệm về cạnh tranh đã nêu trên, có thể rút ra khái niệm về cạnh tranh của doanh nghiệp như sau: " Cạnh tranh của doanh nghiệp là một quá trình trong đó các doanh nghiệp luôn phải ganh đua với nhau, tìm mọi biện pháp - cả nghệ thuật lẫn thủ đoạn - để đạt được mục tiêu kinh doanh của mình, thông thường là chiếm lĩnh thị trường, giành lấy khách hàng cũng như các điều kiện sản xuất, thị trường có lợi nhất. Mục đích cuối cùng của các doanh nghiệp trong quá trình cạnh tranh là tối đa hoá lợi ích. "
Cạnh tranh là cuộc chạy đua kinh tế liên tục không hề có đích đến. Đó chính là quá trình mà các chủ thể luôn luôn phải vươn lên, mọi sự cải tiến ở một bên đều là đối trọng cho bên thứ hai (đối thủ cạnh tranh). Cạnh tranh luôn đi đôi với mạo hiểm, nhưng không mạo hiểm, không cạnh tranh là mạo hiểm với chính bản thân mình. Sự đứng yên hay thụt lùi là tự sát, là phá sản đối với doanh nghiệp. Vậy sự cạnh tranh là một trong những đặc trưng cơ bản và là động lực phát triển của nền kinh tế thị trường. Không có cạnh tranh thì không có kinh tế thị trường. Trong kinh tế thị trường, khả năng (năng lực) cạnh tranh cao là điều kiện sống còn của mỗi doanh nghiệp trong điều kiện cạnh tranh khốc liệt như hiện nay.
1.2. Các loại hình cạnh tranh.
Phân loại cạnh tranh có ý nghĩa rất quan trọng trong nghiên cứu về cạnh tranh. Phân loại cạnh tranh nhằm nhận thức rõ về từng loại hình cạnh tranh để từ đó có những phản ứng thích hợp trong từng hoàn cảnh cụ thể.
1.2.1. Căn cứ vào chủ thể tham gia thị trường.
- Cạnh tranh giữa người bán và người mua: Là cuộc canh tranh diễn ra theo quy luật mua rẻ bán đắt. Những người bán muốn bán sản phẩm của mình với giá cao nhất, ngược lại người mua có tham vọng mua được hàng hoá với giá rẻ nhất. Giá cuối cùng là sự cân bằng và thống nhất giữa người mua và người bán sau một quá trình thương lượng và tạo nên giá cả thị trường.
- Cạnh tranh giữa người mua với nhau: Chỉ xảy ra khi cung nhỏ hơn cầu. Tức là khi lượng hàng hoá dịch vụ cung ứng trên thị trường khiến cho hàng hoá trên thị trường trở nên khan hiếm và người mua sẽ chấp nhận giá cao để mua được hàng hoá mà họ cần, điều này khiến cho giá cả hàng hoá leo thang không ngừng. Kết quả cuối cùng là người bán thu được lợi nhuận tối đa còn người mua thì chịu thiệt hại.
- Cạnh tranh giữa người bán với nhau: Đây là cuộc cạnh tranh chính trên thị trường, mang tính chất gay go và quyết liệt nhất quyết định tính chất sống còn của doanh nghiệp. Cuộc cạnh tranh này thường trong trường hợp cung lớn hơn cầu và khi đó người bán sẽ cạnh tranh với nhau làm tăng thêm lượng hàng hoá tiêu thụ cho công ty mình; tăng tỷ lệ thị phần cung (tăng lợi nhuận, tăng đầu tư chiều sâu, mở rộng sản xuất). Quy luật cạnh tranh khắc nghiệt sẽ lần lượt đào thải ra khỏi thị trường những doanh nghiệp nào không có chiến lược kinh doanh thích hợp và giữ lại các doanh nghiệp có khả năng cạnh tranh hơn hẳn các đối thủ trên thị trường.
1.2.2. Căn cứ vào mức độ cạnh tranh trên thị trường:
- Thị trường cạnh tranh hoàn hảo hay thuần tuý : Là tình trạng cạnh tranh trong đó giá cả của một loại hàng hoá là không thay đổi trong toàn bộ địa danh của thị trường, bởi vì người mua, người bán đều biết tường tận về các điều kiện của thị trường. Trong điều kiện đó không có công ty (nhà kinh doanh) nào có đủ sức mạnh có thể ảnh hưởng đến giá cả sản phẩm của mình trên thị trường. Do đó, cả hai bên mua bán đều phải chấp nhận giá cả đang phổ biến trên thị trường thông qua quan hệ cung cầu.
- Cạnh tranh không hoàn hảo : Là hình thức cạnh tranh chiếm ưu thế trong các ngành sản xuất mà ở đó các cá nhân bán hàng hoặc các nhà sản xuất có đủ sức mạnh và thế lực có thể chi phối được giá cả sản phẩm của mình trên thị trường.
Cạnh tranh không hoàn hảo có hai loại: độc quyền nhóm và cạnh tranh mang tính độc quyền.
+ Độc quyền nhóm: tồn tại trong các nghành sản xuất mà ở đó chỉ có ít người sản xuất, mỗi người đều nhận thức được rằng giá cả của các sản phẩm của mình không phụ thuộc vào sản lượng của mình mà còn phụ thuộc và hoạt động của những đối thủ cạnh trạnh quan trọng trong ngành.
+ Cạnh tranh mang tính chất độc quyền: là một hình thức cạnh tranh mà ở đó người bán có thể ảnh hưởng đến người mua bằng sự khác nhau của các sản phẩm của mình về hình dáng, kích thước, chất lượng, nhãn mác. Trong rất nhiều trường hợp người bán có thể buộc người mua chấp nhận giá. Trong hình thức cạnh tranh này có nhiều người bán về cơ bản là giống nhau, có thể thay thế cho nhau ở mức độ cao nhưng không phải là thay thế hoàn hảo, hay nói cách khác độ co giãn của cầu theo giá là cao nhưng không phải vô cùng. Trong ngành cạnh tranh kiểu này, quy mô cạnh tranh của các doanh nghiệp có thể lớn, vừa hoặc nhỏ nên việc các doanh nghiệp mới gia nhập ngành tương đối dễ và các doanh nghiệp trong ngành rời bỏ cũng dễ dàng nếu việc kinh doanh của họ trở nên không có lãi.
1.2.3. Căn cứ vào phạm vi ngành.
- Cạnh tranh trong nội bộ ngành: Là cạnh tranh giữa các nhà cùng sản xuất ra cùng một loại sản phẩm hàng hoá dịch vụ, cùng phục vụ một tập khách hàng trọng điểm, kết quả là hình thành lợi nhuận bình quân và giá cả sản xuất.
+ Cạnh tranh dọc: là cạnh tranh giữa các doanh nghiệp có mức chi phí thấp nhất khác nhau. Cạnh tranh dọc chỉ ra rằng: sự thay đổi giá bán và lượng bán nói trên của các doanh nghiệp sẽ có điểm dừng. Sau một thời gian nhất định, hình thành một giá thị trường thống nhất. Cạnh tranh dọc sẽ làm cho các doanh nghiệp có chi phí bình quân cao bị phá sản, còn các doanh nghiệp có chi phí bình quân thấp nhất sẽ thu được lợi nhuận cao.
+ Cạnh tranh ngang: là cạnh tranh giữa các doanh nghiệp có mức chi phí thấp nhất như nhau. Do đặc điểm đó, trong cạnh tranh ngang không có doanh nghiệp nào bị loại khỏi thị trường, song giá cả ở mức thấp tối đa, lợi nhuận giảm dần và có thể không có lợi nhuận. Để hạn chế bất lợi đó cạnh tranh ngang dẫn đến hai khuynh hướng: hoặc là phải liên minh thống nhất giá bán cao, giảm lượng bán trên thị trường – xuất hiện độc quyền. Hoặc là các doanh nghiệp tìm mọi cách giảm được chi phí, tức chuyển từ cạnh tranh ngang sang cạnh tranh dọc nhằm trụ lại trên thị trường và có lợi nhuận cao.
- Cạnh tranh giữa các ngành: là cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong ngành kinh tế khác nhau nhằm giành giật lợi nhuận cao nhất. Trong quá trình cạnh tranh, các doanh nghiệp luôn bị hấp dẫn bởi các ngành có lợi nhuận cao nên có sự dịch chuyển vốn từ ngành ít lợi nhuận sang ngành có nhiều lợi nhuận hơn. Sự chuyển dịch này sau một thời gian vô hình chung đã hình thành nên sự phân phối hợp lý giữa các ngành sản xuất để rồi kết quả cuối cùng là các chủ doanh nghiệp đầu tư ở các ngành khác nhau cùng một số vốn chỉ thu được lợi nhuận như nhau, tức là hình thành nên tỷ suất lợi nhuận chung cho tất cả các ngành.
1.2.4. Căn cứ vào phạm vi lãnh thổ.
Hay còn gọi là cạnh tranh trong nước và cạnh tranh quốc tế. Cần lưu ý rằng cạnh tranh quốc tế có thể diễn ra ở ngay thị trường nội địa, đó là cạnh tranh giữa hàng hoá trong nước sản xuất với hàng ngoại nhập (nhất là hàng nhập lậu).
1.3. Vai trò của cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường.
1.3.1. Động lực của cạnh tranh.
Cạnh tranh có thể đưa đến lợi ích cho người này và thiệt hại cho người khác, song xét dưới góc độ toàn xã hội, cạnh tranh luôn có tác động tích cực. Để thực hiện cạnh tranh (theo nghĩa lành mạnh, hợp pháp) đòi hỏi các doanh nghiệp thường xuyên phải tiến hành hai cuộc cách mạng, đó là cách mạng khoa học công nghệ trong sản xuất và cách mạng trong phương pháp sản xuất, tổ chức phân phối sản phẩm và quản lý lao động.
Cạnh tranh là một động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, động lực của nền kinh tế thị trường. Vai trò động lực của cạnh tranh được biểu hiện cụ thể ở các khía cạnh sau:
* Đối với nền kinh tế
Cạnh tranh có vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát triển kinh tế xã hội. Trên thực tế, hầu hết các nước trên thế giới hiện nay đều thừa nhận và khuyến khích cạnh tranh lành mạnh, coi cạnh tranh là động lực thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế xã hội. Sự tác động của cạnh tranh đến đời sống kinh tế xã hội thể hiện ở một số quan điểm sau:
Cạnh tranh là mục tiêu là động lực thúc đẩy sự phát triển bình đẳng của mọi thành phần kinh tế trong nền kinh tế thị trường, góp phần xoá bỏ những độc quyền bất hợp lý, xoá bỏ những bất bình đẳng trong kinh doanh.
Cạnh tranh đảm bảo thúc đẩy sự phát triển của khoa học kỹ thuật, phân công lao động xã hội ngày càng tỷ mỉ và chi tiết.
Cạnh tranh làm tăng tính tháo vát, năng động và óc sáng tạo cho nhà doanh nghiệp, tạo ra những nhà kinh doanh giỏi, chân chính.
Cạnh tranh thúc đẩy sự đa dạng hoá sản phẩm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của xã hội, kích thích nhu cầu phát triển, làm nảy sinh những nhu cầu mới, góp phần nâng cao chất lượng đời sống xã hội và phát triển văn minh nhân loại.
* Đối với doanh nghiệp
Cạnh tranh buộc các doanh nghiệp phải đưa ra các sản phẩm có chất lượng cao hơn, đáp ứng nhu cầu thường xuyên thay đổi của người tiêu dùng. Qua đó khuyến khích doanh nghiệp đổi mới công nghệ, cải tiến kỹ thuật, tối ưu hoá các yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất. Đồng thời thúc đẩy doanh nghiệp nâng cao tính chủ động năng động, sáng tạo trong sản xuất kinh doanh. Mặt khác nó còn nâng cao trình độ mọi mặt của những người lao động sản xuất, nhất là đội ngũ các nhà quản trị kinh doanh. Bên cạnh đó, cạnh tranh đào thải nghiêm khắc các doanh nghiệp không thích ứng với những yêu cầu ngày càng cao của nền kinh tế thị trường.
Cạnh tranh thắng lợi sẽ tăng cường vị thế của doanh nghiệp trên thị trường, tăng thêm uy tín cho doanh nghiệp. Trên cơ sở đó doanh nghiệp sẽ có điều kiện mở rộng sản xuất kinh doanh, nâng cao hiệu quả kinh doanh góp phần tăng tích luỹ và cải thiện đời sống của người lao động.
* Đối với người tiêu dùng
Người tiêu dùng được coi là đối tượng được hưởng lợi nhiều nhất trong cạnh tranh. Trong điều kiện hiện nay khi sản xuất ngày càng phát triển, hàng hoá được tạo ra ngày càng nhiều thì người tiêu dùng ngày càng có nhiều sự lựa chọn, ngày càng có nhiều quyền lợi hơn. Cạnh tranh tạo ra một áp lực liên tục đối với giá cả, buộc các doanh nghiệp phải phản ứng tự phát phù hợp với các mong muốn của người tiêu dùng về giá cả, chủng loại, mẫu mã, chất lượng hàng hoá và dịch vụ. Thông thường cạnh tranh làm cho giá cả có xu hướng ngày càng giảm, lượng hàng hoá trên thị trường ngày một tăng, chất lượng tốt, đa dạng và mới, phù hợp mong muốn người tiêu dùng, mặc dù các doanh nghiệp không mong muốn điều đó. Nếu hàng hoá sản xuất ra mà không được người tiêu dùng chấp nhận thì nó không thể nào tồn tại trên thị trường, thậm chí nếu hàng hoá có thể được chấp nhận thì cũng chưa phải đã xong. Lúc này những người sản xuất, doanh nghiệp lại tiếp tục cạnh tranh với nhau sao cho thoả mãn càng nhiều yêu cầu của người tiêu dùng càng tốt. Như vậy, cạnh tranh đảm bảo quyền tự do chọn lựa của người tiêu dùng. Nhưng đồng thời nó còn đảm bảo cho cả người sản xuất lẫn người tiêu dùng không thể dùng sức mạnh của mình để áp đặt cho người khác. Với ý nghĩa đó, cạnh tranh vừa là lực lượng điều tiết trên thị trường, vừa góp phần trong việc lành mạnh hoá các quan hệ kinh tế – xã hội.
1.3.2. Hạn chế của cạnh tranh.
Mặc dù cạnh tranh là động lực tăng trưởng kinh tế nhưng do chạy theo lợi nhuận nên cạnh tranh có tác dụng không hoàn hảo, bao hàm sức tàn phá lớn.
Nếu cạnh tranh loại bỏ những doanh nghiệp có chi phí cao, làm ăn kém hiệu quả ra khỏi thị trường là phù hợp lợi ích lâu dài của xã hội thì cạnh tranh cũng gây cho xã hội những hậu quả nghiêm trọng. Khi một doanh nghiệp bị phá sản kéo theo các hệ quả khác là người lao động thất nghiệp hàng loạt tạo gánh nặng lớn về xã hội cho Nhà nước như: phải trợ cấp thất nghiệp, tổ chức hướng nghiệp và giải quyết việc làm… Mặt khác, cùng với nạn thất nghiệp, các tệ nạn xã hội cũng có điều kiện sinh sôi, nảy nở gây rối loạn trật tự an toàn xã hội. Sự phá sản cũng đẩy nhanh khoảng cách phân hoá giàu nghèo, tạo nhân tố bất ổn tiềm ẩn về chính trị.
Bên cạnh tác động tích cực làm sôi động nền kinh tế, tăng năng suất lao động xã hội, cạnh tranh cũng dễ dàng rơi vào tình trạng cạnh tranh tự do vô chính phủ gây rối loạn nền kinh tế, làm triệt tiêu các động lực phát triển khác của xã hội. Cạnh tranh là quá trình kinh tế mà ở đó các chủ thể dùng mọi biện pháp-cả nghệ thuật lẫn thủ đoạn- để giành chiến thắng trên thương trường, nên đó có thể là các thủ đoạn “phi kinh tế”, “phi nhân tính” như: hàng giả, gian lận thương mại, quảng cáo lừa gạt khách hàng, tung tin đồn thất thiệt gây thiệt hại cho đối phương, là tình trạng “cá lớn nuốt cá bé”, mafia lũng loạn thị trường…Những hiện tượng cạnh tranh không lành mạnh trên lại càng có điều kiện nẩy nở khi mà môi trường pháp luật chưa đầy đủ, việc thực thi pháp luật chưa nghiêm.
Cuối cùng, cạnh tranh có xu thế dẫn đến độc quyền. Tuy độc quyền cũng có những ưu điểm của nó nhưng do bản chất độc quyền là làm cho nền kinh tế rơi vào trạng thái ngưng trệ tương đối, mặt nào đó nó đã làm yếu đi các lực lượng thị trường và làm cho các quy luật kinh tế trong cơ chế thị trường vận động sai lệch. Nói cách khác, cản trở nền kinh tế phát triển.
Như vậy, cạnh tranh bao hàm hai mặt tích cực và tiêu cực, vừa là động lực tăng trưởng kinh tế lẫn xu thế phá sản, độc quyền. Tuy nhiên, trong hai mặt đó, mặt tích cực, mặt động lực vẫn là mặt chính yếu, là “mặt trội” của cạnh tranh, nó làm cho nền kinh tế ngày càng phát triển, đời sống của con người ngày càng được nâng cao.
2. Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
2.1. Khái niệm về khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
Khả năng cạnh tranh, sức cạnh tranh, hay năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp đã được nói tới nhiều khi chúng ta bàn luận về sự tồn tại và phát triển của mỗi doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường, đặc biệt là trong điều kiện toàn cầu hoá như hiện nay. Vậy chúng ta phải hiểu khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp như thế nào?
* Quan điểm tân cổ điển (dựa trên lý thuyết thương mại truyền thống): Khả năng cạnh tranh của một sản phẩm thể hiện qua lợi thế so sánh về chi phí sản xuất và năng suất. Theo đó khả năng cạnh tranh của một ngành, công ty được đánh giá cao hay thấp tuỳ thuộc vào chi phí sản xuất có giảm bớt hay không vì chi phí sản xuất thấp vẫn được coi là điều kiện cơ bản của lợi thế cạnh tranh.
* Quan điểm tổng hợp của Vardwer, E.Martin &R.Westgren: Khả năng cạnh tranh của một ngành, công ty là khả năng tạo ra và duy trì lợi nhuận, thị phần trên các thị trường trong và ngoài nước. Như vậy, lợi nhuận và thị phần là hai chỉ tiêu đánh giá khả năng cạnh tranh của công ty. Chúng có mối quan hệ tỷ lệ thuận với nhau, lợi nhuận và thị phần càng lớn thể hiện khả năng cạnh tranh của công ty càng cao. Ngược lại, lợi nhuận và thị phần càng giảm hoặc nhỏ phản ánh khả năng cạnh tranh của công ty hạn chế hoặc chưa cao.
Từ các quan điểm trên có thể rút ra kết luận: “Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp chính là khả năng tạo ra, duy trì và phát triển thị phần, lợi nhuận thông qua việc giảm thiểu chi phí sản xuất, hạ giá thành, nâng cao chất lượng và tạo sự khác biệt cho sản phẩm làm ra.”
2.2. Các công cụ cạnh tranh của doanh nghiệp.
2.2.1. Cạnh tranh bằng giá cả.
Trước hai loại hàng hoá có cùng công dụng, chất lượng như nhau, người tiêu dùng sẽ lựa chọn hàng hoá nào có giá cả thấp hơn. Giá cả hàng hoá là thuộc tính căn bản của một sản phẩm, thực tế nó là một phần của sản phẩm. Trong kinh doanh, giá cả là một yếu tố nhậy cảm, một tế bào thần kinh của thị trường. Người ta có thể thay đổi giá nhanh hơn bất cứ yếu tố nào khác của Marketing-mix và đặc tính này góp phần quan trọng vào việc tăng hay giảm giá chiến thuật của nó. Những người cạnh tranh cũng có thể thay đổi giá nhanh như vậy khi họ phải đối diện với một tình huống đòi hỏi phải có một quyết định nhanh chóng để phản ứng lại. Giá cả của hàng hoá được quyết định bởi giá trị hàng hoá, mặt khác phụ thuộc vào khả năng thanh toán (mức sống) của người tiêu dùng thông qua quan hệ cung - cầu trên thị trường. Với mức sống còn thấp, người tiêu dùng thông thường tìm mua hàng hoá có giá rẻ, phù hợp với khả năng thanh toán của họ. Vì vậy người sản xuất khôn ngoan trong trường hợp này sẽ làm hàng hoá với chất lượng bình thường nhưng giá cả thấp để thu hút khách hàng có khả năng thanh toán thấp về mình. Ngược lại khi mức sống cao, người tiêu dùng sẽ quan tâm đến hàng hoá có chất lượng tốt, chấp nhận giá cao.
Với một doanh nghiệp sử dụng chiến lược cạnh tranh dẫn đầu về giá nhằm phân phối đại trà sản phẩm ra thị trường, để có thể định giá thấp hơn các đối thủ cạnh tranh khi vẫn muốn duy trì một mức lợi nhuận mong