Báo cáo Tìm hiểu tình hình thu nhập của nông hộ tại xã Hòa Sơn, huyện Krông Bông, tỉnh ĐakLak

Việt Nam là một nước đông dân với nhiều thành phần dân tộc khác nhau, dân số tăng nhanh dẫn đến tốc độ tăng nguồn lao động khoảng 3%/năm, hàng năm có hơn 1 triệu thanh niên đến tuổi gia nhập lực lượng lao động cần có việc làm. Khu vực nông thôn chiếm khoảng 70% lực lượng lao động của cả nước, trong đó thường xuyên có gần 30% lao động thiếu việc làm, phổ biến là thiếu do mang tính thời vụ hoặc thiếu đất canh tác (theo điều tra biến động dân số, lao động, nguồn lao động và kế hoạch hóa gia đình 1/4/2008). Hằng năm lượng lao động tăng thêm của nước ta rất lớn, số lượng lao động cũ chưa giải quyết hết giờ lại tăng thêm một số lượng khá lớn, tình trạng thiếu việc làm càng tăng, việc làm không ổn định gây khó khăn cho nền kinh tế nước ta, đặc biệt là ở nông thôn. Dân số nước ta có khoảng 75% sống ở nông thôn, trong đó 90% là lao động nông nghiệp, chủ yếu là trồng trọt và chăn nuôi. Trong lĩnh vực nông nghiệp, đất đai là nhuồn lực hết sức quan trọng, cần thiết để người dân có thể sản xuất, vậy mà diện tích đất nông nghiệp ngày càng bị thu nhỏ do chuyển sang phục vụ cho mục đích khác đã gây khó khăn cho sản xuất đất nông nghiệp. Diện tích đất nông nghiệp bình quân của nước ta rất thấp. Chúng ta không có lợi thế cả về đất đai lẫn về khoa học công nghệ ứng dụng trong nông nghiệp, do vậy chúng ta gặp rất nhiều kho khăn trong ngành nông nghiệp. Nhiều năm qua do việc sử dụng, khai thác các nguồn tài nguyên bị cạn kiệt, suy thoái, ô nhiễm , mất rừng, mất sự giữ nước nên nước ta thường xuyên gặp những cơn bão, lũ lụt, nắng hạn kéo dài gây mất mùa, khí hậu thay đổi nhiều nên cây trồng, vật nuôi không kịp thích hợp ngay với điều kiện sống nên sinh ra nhiều dịch bệnh như: cúm ở gia cầm, long móng lỡ mồm ở trâu bò, cây trồng bị sâu bệnh hại chỉ đạt năng suất thấp Những điều ấy không chỉ ảnh hưởng đến sức khỏe con người mà còn làm cho thu nhập của nông dân vốn dĩ đã thấp bây giờ lại thấp hơn. Hiện nay mức thu nhập của nước ta còn thấp so với một số nước trên thế giới. Về nông nghiệp nước ta có nhiều tiềm năng và điều kiện thuận lợi để phát triển cây lúa nước, cây cà phê Nhưng về sản lượng và chất lượng sản phẩm không bằng so với một số nước trong khu vực. Kéo theo đó mức thu nhập và chất lượng cuộc sống của người dân chưa cao. Hòa Sơn là một xã vùng II, thuộc huyện Krông Bông, tỉnh ĐakLak. Đời sống của người dân chủ yếu phụ thuộc vào sản xuất nông nghiệp. Đất đai bạc màu, giá cả không ổn định đã ảnh hưởng đến thu nhập và đời sống của người dân nơi đây. Ngoài ra người nông dân ở đây còn thu nhập từ một số vật nuôi như: trâu, bò,lợn, phải nói trên địa bàn cũng có điều kiện khá thuận lợi để phát triển các loại cây trồng và vật nuôi này. Tuy nhiên mức thu nhập hàng năm vẫn còn ở mức thấp. Vậy đâu là nguyên nhân dẫn đến hiện trạng trên và các nhà lãnh đạo đưa ra biện pháp và chính sách gì để khắc phục tình trang trên chưa? Xuất phát từ lý luận và thực tiễn trên, tôi quyết định chọn đề tài “ Tìm hiểu tình hình thu nhập của nông hộ tại xã Hòa Sơn, huyện Krông Bông, tỉnh ĐakLak.” làm đề tài nghiên cứu của mình.

doc36 trang | Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1642 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Báo cáo Tìm hiểu tình hình thu nhập của nông hộ tại xã Hòa Sơn, huyện Krông Bông, tỉnh ĐakLak, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BÁO CÁO THỰC TẬP TỔNG HỢP TÊN ĐỀ TÀI: “ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ NÔNG HỘ TẠI XÃ HÒA SƠN, HUYỆN KRÔNG BÔNG, TỈNH ĐAKLAK” Người hướng dẫn : CN. Bùi Ngọc Tân Người thực hiện : Lê Thị Huệ Ngành : Kinh tế Nông lâm Khóa : 2008 – 2012 TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY NGUYÊN KHOA KINH TẾ &'& BÁO CÁO THỰC TẬP TỔNG HỢP TÊN ĐỀ TÀI: “TÌM HIỂU TÌNH HÌNH THU NHẬP CỦA NÔNG HỘ TẠI XÃ HÒA SƠN, HUYỆN KRÔNG BÔNG, TỈNH ĐĂKLAK” Người hướng dẫn : CN. Bùi Ngọc Tân Người thực hiện : Nghị Thị Minh Hồng Ngành : Kinh tế Nông lâm Khóa : 2008 – 2012 ĐăkLak, Tháng 11/2011 ĐakLak, 10/2011 ĐakLak, Tháng 11/2011 PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ 1.1. Tính cấp thiết: Việt Nam là một nước đông dân với nhiều thành phần dân tộc khác nhau, dân số tăng nhanh dẫn đến tốc độ tăng nguồn lao động khoảng 3%/năm, hàng năm có hơn 1 triệu thanh niên đến tuổi gia nhập lực lượng lao động cần có việc làm. Khu vực nông thôn chiếm khoảng 70% lực lượng lao động của cả nước, trong đó thường xuyên có gần 30% lao động thiếu việc làm, phổ biến là thiếu do mang tính thời vụ hoặc thiếu đất canh tác (theo điều tra biến động dân số, lao động, nguồn lao động và kế hoạch hóa gia đình 1/4/2008). Hằng năm lượng lao động tăng thêm của nước ta rất lớn, số lượng lao động cũ chưa giải quyết hết giờ lại tăng thêm một số lượng khá lớn, tình trạng thiếu việc làm càng tăng, việc làm không ổn định gây khó khăn cho nền kinh tế nước ta, đặc biệt là ở nông thôn. Dân số nước ta có khoảng 75% sống ở nông thôn, trong đó 90% là lao động nông nghiệp, chủ yếu là trồng trọt và chăn nuôi. Trong lĩnh vực nông nghiệp, đất đai là nhuồn lực hết sức quan trọng, cần thiết để người dân có thể sản xuất, vậy mà diện tích đất nông nghiệp ngày càng bị thu nhỏ do chuyển sang phục vụ cho mục đích khác đã gây khó khăn cho sản xuất đất nông nghiệp. Diện tích đất nông nghiệp bình quân của nước ta rất thấp. Chúng ta không có lợi thế cả về đất đai lẫn về khoa học công nghệ ứng dụng trong nông nghiệp, do vậy chúng ta gặp rất nhiều kho khăn trong ngành nông nghiệp. Nhiều năm qua do việc sử dụng, khai thác các nguồn tài nguyên bị cạn kiệt, suy thoái, ô nhiễm…, mất rừng, mất sự giữ nước nên nước ta thường xuyên gặp những cơn bão, lũ lụt, nắng hạn kéo dài gây mất mùa, khí hậu thay đổi nhiều nên cây trồng, vật nuôi không kịp thích hợp ngay với điều kiện sống nên sinh ra nhiều dịch bệnh như: cúm ở gia cầm, long móng lỡ mồm ở trâu bò, cây trồng bị sâu bệnh hại chỉ đạt năng suất thấp… Những điều ấy không chỉ ảnh hưởng đến sức khỏe con người mà còn làm cho thu nhập của nông dân vốn dĩ đã thấp bây giờ lại thấp hơn. Hiện nay mức thu nhập của nước ta còn thấp so với một số nước trên thế giới. Về nông nghiệp nước ta có nhiều tiềm năng và điều kiện thuận lợi để phát triển cây lúa nước, cây cà phê… Nhưng về sản lượng và chất lượng sản phẩm không bằng so với một số nước trong khu vực. Kéo theo đó mức thu nhập và chất lượng cuộc sống của người dân chưa cao. Hòa Sơn là một xã vùng II, thuộc huyện Krông Bông, tỉnh ĐakLak. Đời sống của người dân chủ yếu phụ thuộc vào sản xuất nông nghiệp. Đất đai bạc màu, giá cả không ổn định đã ảnh hưởng đến thu nhập và đời sống của người dân nơi đây. Ngoài ra người nông dân ở đây còn thu nhập từ một số vật nuôi như: trâu, bò,lợn,…phải nói trên địa bàn cũng có điều kiện khá thuận lợi để phát triển các loại cây trồng và vật nuôi này. Tuy nhiên mức thu nhập hàng năm vẫn còn ở mức thấp. Vậy đâu là nguyên nhân dẫn đến hiện trạng trên và các nhà lãnh đạo đưa ra biện pháp và chính sách gì để khắc phục tình trang trên chưa? Xuất phát từ lý luận và thực tiễn trên, tôi quyết định chọn đề tài “ Tìm hiểu tình hình thu nhập của nông hộ tại xã Hòa Sơn, huyện Krông Bông, tỉnh ĐakLak.” làm đề tài nghiên cứu của mình. 1.2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài: - Tìm hiểu tình hình cơ bản của xã Hòa Sơn, huyện Krông Bông, tỉnh ĐakLak. Xem lại mục tiêu nay, vấn đề của em là tìm hiểu thực trạng, các yếu tố ảnh hưởng đến thu nhập của nông hộ - Phân tích tình hình thu nhập của nông hộ. - Đề xuất một số kiến nghị góp phần nâng cao thu nhập của nông dân. 1.3. Phạm vi nghiên cứu: - Phạm vi về nội dung: Tình hình thu nhập, cơ cấu thu nhập, các nguồn thu chính của nông hộ tại xã Hòa Sơn, huyện Krông Bông, tỉnh ĐakLak. - Phạm vi về không gian: Xã Hòa Sơn, huyện Krông Bông, tỉnh ĐakLak - Phạm vi về thời gian: + Thời gian thực tập: từ 17/10/2011 đến 17/11/2011. + Số liệu thứ cấp: Được thu thập trong 3 năm từ 2008 đến 2010 + Số liệu sơ cấp: Tổng hợp qua phiếu điều tra năm 2011 PHẦN II: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1. Cơ sở lí luận: - Khái niệm về hộ Có rất nhiều khái niệm về hộ được đưa ra: Theo Martin (1988) thì hộ là đơn vị cơ bản liên quan đến sản xuất, tái sản xuất, đến tiêu dùng và các hoạt động xã hội khác. Theo Harris, ở viện nghiên cứu phát triển trường Đại học tổng hợp Susex (Lon Don- Anh) cho rằng: “ Hộ là một đơn vị tự nhiên tạo nguồn lao động” Theo Raul Iturna, giáo sư trường đại học tổng hợp Liôbon khi nghiên cứu cộng đồng nông dân trong quá trình quá độ ở một số nước châu Á đã chứng minh “Hộ là một tập hợp những người cùng chung huyết tộc có quan hệ mật thiết với nhau trong quá trình sáng tạo ra vật phẩm để bảo tồn chính bản thân họ và cộng đồng” Qua các quan điểm khác nhau về khái niệm hộ trên, có thể rút ra một số đặc trưng về hộ. - Hộ là một nhóm người cùng chung huyết tộc hay không cùng huyết tộc. - Hộ cùng sống chung hay không cùng sống chung một mái nhà. - Có chung một nguồn thu nhập và ăn chung. - Cùng tiến hành sản xuất chung. -Khái niệm về hộ nông dân: Nghị quyết X của BCT (05/04/1988) ra đời đã khẳng định hộ nông dân là một đơn vị kinh tế cơ sở. - Khái niệm nông hộ: Nông hộ được hiểu là hộ có phương tiện kiếm sống từ ruộng đất và sử dụng chủ yếu lao động gia đình và sản xuất. Luôn nằm trong hệ thống kinh tế rộng lớn nhưng về cơ bản được đặc trưng tham gia một phần vào thị trường với mức độ chưa hoàn chỉnh. - Khái niệm về kinh tế nông hộ: GS. Frank Ellis (1988) cho rằng kinh tế nông hộ khác những người làm kinh tế khác trong nền kinh tế thị trường ở 3 yếu tố: đất đai, lao động, vốn “Kinh tế nông hộ là một hình thức tổ chức kinh tế cơ sở của nền kinh tế xã hội. Các nguồn lực đất đai, tư liệu sản xuất, vốn, lao động được góp chung, chung một ngân sách, ngủ chung một mái nhà, ăn chung, mọi quyết định trong sản xuất kinh doanh và đời sống đều do chủ hộ phát ra” Từ khái niệm trên đã thống nhất những vấn đề cơ bản của kinh tế nông hộ đó là: - Kinh tế hộ nông dân là đơn vị hoạt động của xã hội, làm cơ sở cho phân tích kinh tế. - Các nguồn lực cùng được góp vào thành nguồn vốn chung của mọi thành viên trong gia đình và cùng chung một ngân sách. - Cùng sống chung dưới một mái nhà. - Khái niệm về thu nhập: Thu nhập là phần nông hộ thu được sau quá trình sản xuất, bao gồm nhiều nguồn thu khác nhau: Phân loại thu nhập??? - Từ sản xuất lâm nghiệp. - Từ các hoạt động sản xuất nông nghiệp như trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thủy hải sản. - Từ các hoạt động dịch vụ. - Từ các hoạt động là thuê. - Từ các hoạt động, sản xuất của các ngành nghề phi nông nghiệp. - Vai trò của thu nhập: ▪ Là nguồn lực để chi tiêu cho mọi nhu cầu cần thiết trong đời sống hàng ngày của mỗi nông hộ, mỗi người như lương thực thực phẩm, y tế, giáo duc… ▪ Đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao đời sống vật chất mỗi hộ. Các yếu tố ảnh hưởng đến thu nhập 2.2. Phương pháp nghiên cứu: 2.2.1 Phương pháp chọn mẫu: - Chọn điểm nghiên cứu: Người dân ở xã Hòa Sơn, huyện KrôngBông, tỉnh Đăklăk chủ yếu tham gia sản xuất nông nghiệp ( trồng lúa, cà phê và nuôi bò ) để tạo thu nhập cho họ. Tuy nhiên, nguồn thu nhập của các nông hộ ở xã này còn thấp, tỷ lệ hộ nghèo còn cao. Cụ thể tỉ lệ hộ nghèo chiếm 30.74%, hộ cận nghèo chiếm 69.26%, trong tổng số hộ của xã. Do tình hình thu nhập của nông hộ ở xã Hòa Sơn còn thấp như vậy nên tôi chọn xã Hòa Sơn để tìm hiểu thực trang này. Phương pháp chọn mẫu: Số mẫu được chọn là 135 hộ thuộc thôn 1, 8,10, buôn Ya, xã Hòa Sơn, huyện KôngBông, tỉnh Đăklăk. Trong đó gồm: 31 hộ nghèo 9 hộ cận nghèo 95 hộ khá Việc chọn số lượng mẫu này dựa vào tỉ lệ phân loại hộ của xã. Đây là số lượng mẫu được chọn có tính đại diện cho tình hình phát triển của xã Hòa Sơn. 2.2.2 Phương pháp thu thập thông tin: - Đối với tài liệu thứ cấp: Thông qua các báo cáo của ủy ban nhân dân xã Hòa Sơn để nắm được tình hình cơ bản của xã. Bên cạnh đó còn tham khảo một số thông tin, tư liệu từ sách báo, internet, … - Đối với tài liệu sơ cấp: Thông qua việc điều tra phỏng vấn 135 hộ của thôn 1, 8,10, buôn Ya của xã Hòa Sơn, huyện KrôngBông, tỉnh Đăklăk để phục vụ cho đề tài. 2.2.3 Phương pháp phân tích: - Phương pháp phân tổ thống kê: Dùng xác định tiêu thức phân tổ và phạm vi mỗi tổ trong việc sử lí số liệu. - Phương pháp so sánh: Đề tài sử dụng phương pháp này để so sánh thu nhập giữa các nhóm hộ, giữa các ngành trồng trọt,chăn nuôi… trong sản xuất nông nghiệp và các hoạt động sản xuất khác của nông hộ. - Phương pháp thống kê mô tả: Dùng mô tả một số chi tiết nhằm nhận dạng thực trạng thu nhập của nông dân. - Tiêu chí phân loại nhóm hộ: Xã Hòa Sơn sử dụng tiêu chí phân loại nhóm hộ dựa vào đặc điểm kinh tế, xã hội: + Hộ nghèo có thu nhập bình quân dưới 400.000 đồng/người/tháng. + Hộ cận nghèo có thu nhập bình quân từ 401.000 đến 520.000 đồng/người/tháng. + Hộ khá có thu nhập bình quân trên 520.000 đồng/người/tháng. 2.2.4 Phương pháp xử lí số liệu: Số liệu được xử lý bằng phần mềm Microsoft Excel và các công cụ khác có liên quan. 2.2.5 Hệ thống chỉ tiêu: - Thu nhập bình quân/hộ = Tổng thu nhập của các hộ/số hộ điều tra. - Thu nhập bình quân/khẩu = Thu nhập của các hộ/số nhân khẩu của hộ. - Thu nhập bình quân/lao động = Thu nhập bình quân hộ/tổng lao động. Thu nhập chính là dựa vào sản xuất nông – lâm – nghiệp. Các chỉ tiêu tổng thu nhập, thu nhập ròng PHẦN III: ĐẶC ĐIỂM ĐỊA BÀN VÀ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 3.1 Đặc điểm địa bàn nghiên cứu. 3.1.1 Điều kiện tự nhiên: 3.1.1.1 Vị trí địa lý: Xã Hoà Sơn là xã nằm dọc theo tỉnh lộ 12 ở phía Đông Nam của Huyện Krông Bông cách trung tâm Huyện 5Km về phía Đông Nam, vị trí thuận lợi cho việc giao thông hàng hóa và phát triển kinh tế. Với diện tích tự nhiên là 5.396,00 ha, dân số toàn xã là 2.033 hộ với 9.364 khẩu. Ranh giới hành chính của xã được xác định như sau: Phía Đông giáp với thị trấn Krông Kmar. Phía Tây giáp với xã Ea Trul. Phía Nam giáp Huyện Lăk. Phía Bắc giáp với xã Hoà Tân và xã Khuê Ngọc Điền. *Địa hình: Địa hình của Xã Hoà Sơn bị chia cắt mạnh, thấp dần theo hướng Đông – Nam xuống Tây – Bắc, tạo ra sự phân hoá rõ rệt với các dạng địa hình khác nhau mang lại ưu thế đa dạng trong khả năng khai thác sử dụng và phát triển nông, lâm nghiệp. Tuy nhiên, trong sử dụng đất cần đặc biệt chú trọng năng cao hiệu quả khai thác, đặc biệt đối với vùng địa hình bằng là nơi tập trung đông dân cư và phát triển cơ sở hạ tầng. Các vùng địa hình đồi núi khai thác và sử dụng việc bảo vệ đất, chống rửa trôi, xói mòn, nhầm đảm bảo tính bền vững trong quá trình sử dụng. Có thể chia địa hình xã Hoà Sơn thành 03 dạng chính ( núi cao, núi thấp,và đất bằng). Dạng địa hình núi cao: Chiếm trên 40% diện tích tự nhiên toàn xã, phân bố tập trung tại phái Nam của xã, mức độ chia cắt mạnh, độ cao trung bình từ 1.500 – 2.500 m, độ cao phổ biến trên 25, có dãy núi cao Cư Yang Sin( độ cao 2.442m). Nhìn chung địa hình này khong thích hợp cho việc phát triển nông nghiệp, hiện trạng chủ yếu là rừng tự nhiên. Dạng địa hình núi thấp: Có diện tích không đáng kể, chiếm dưới 1% diện tích tự nhiên, phân bố rải rác ở một số khu vực thuụoc phía Bắc, Đông bắc của xã, độ cao trung bình từ trên 500m, độ cao phổ biến từ 15 – 25 , nhìn chung dạng địa hình này cũng không thích hợp cho việc phát triển nông nghiệp, hiện trạng chủ yếu là rừng tự nhiên đồi núi chưa sử dụng. -Dạng địa hình đất bằng: Chiếm gần 60% diện tích tự nhiên của xã, phân bố tập trung phần nửa xã phía Bắc, địa hình tương đối bằng, độ cao trung bình dưới 500m, độ dốc phổ biến dưới 8 . Do hạ lưu sông hẹp nên nhiều khu vực bị ngập nước sau do các trận mưa lớn, nhưng sau đó nước rút nhanh, thổ nhưỡng chủ yếu là phù sa và đất xám, khá thích hợp với canh tác hoá và các cây nông nghiệp ngắn ngày. 3.1.1.2 Khí hậu: Nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, nhưng do vừa ảnh hưởng bởi đọ cao, do bị ảnh hưởng bởi các dãy lớn Cư Yang Sin nên khí hậu xã Hoà Sơn có hai mùa nắng ưa rõ rệt với những đặc trưng chính sau: -Chế độ nhiệt: Liên quan đến vĩ độ thấp của vùng nhiệt độ cao đều và hầu như không chịu ảnh hưởng của mùa đông lạnh. Nhiệt độ cao và ôn hoà. Nhiệt độ trung bình từ 23,7 – 27,30C, tháng có nhiệt độ trung bình thấp nhất là tháng 12 và tháng 1 nhiệt độ có thể xuống đến khoảng 17,3 – 20,10C, tháng có nhiệt độ cao nhất là tháng 4 và tháng 5 nhiệt độ trung bình có thể lên đến 28 – 300C. Bên cạnh đó chênh lệch nhiệt độ ngày đêm khá lớn (mùa khô biên độ nhiệt độ trên 100C). Số giờ nắng trung bình là 180 giờ/ ngày. Năng lượng bức xạ tổng cộng lớn, trung bình từ 155 – 165kcal/cm2. Tổng tích ôn trên 9.0000C. Nắng nhiều, bức xạ dồi dào, nhiệt độ cao và hầu như không có bão là những thuận lợi rất lớn cơ bản cho xã Hoà Sơn trong phát triển nông nghiệp, đặc biệt là đối với các cây công nghiệp như cà phê, thuốc là…. -Lượng mưa: Lượng mưa lớn, trung bình năm biến động từ 1.800 – 2.200mm/năm và chia làm 2 mùa: mùa mưa và mùa khô, mùa mưa dài 7 – 8 tháng (từ cuối tháng 4 đến đầu tháng 12) chiếm 90-95%. Lượng mưa cả năm do mưa rất lớn vào giai động từ tháng 6 đến tháng 10 (từ 250-390mm/tháng) trong khi hạ lưu sông nhỏ hẹp, thoát nước chậm nên lượng nước đổ về một mặt gây xói mòn và rửa trôi đất ở vùng đồi núi thượng nguồn, mặt khác làm mực nước sông dâng nhanh và vào đồng ruộng gây tình trạng ngập lũ cục bộ ở khu vực trũng và ven sông. Mùa khô ngắn, khoảng 4-5 tháng, bắt đầu từ tháng 12 đến tháng 4 năm sau với lượng mưa chỉ chiếm khoảng 5-10% tổng lượng mưa năm, tuy chỉ kéo dài khoảng 4 tháng nhưng xũng đủ gây tình trạng mất cân đối nghiêm trọng về độ ẩm, ảnh hưởng lớn đến quá trình sinh trưởng phát triển của cây trồng vật nuôi. Việc xây dựng các công trình thuỷ lợi để cung cấp nước trong phát triển kinh tế xã hội của xã. 3.1.1.3 Thủy văn: Khả năng tập trung nước tương đối nhanh do đặc trưng dòng chảy của hệ thống ở đây cao nhất thường gấp 50 lần, lúc nhỏ nhất lưu lượng dòng chảy trung bình của lưu vực lớn hơn 251/s/km2. Mùa khô xuất hiện từ tháng 11năm này đến tháng 4 năm sau, các tháng xuất hiện lũ là tháng 9, 10. Mùa cạn từ tháng 12 đến hết tháng 5 năm sau. 3.1.1.4 Các nguồn tài nguyên: a.Tài nguyên đất: Theo kết quả điều tra thổ nhưỡng và tổng hợp từ các nguồn tài liệu cho thấy toàn xã có nhóm đất chính với loại đất sau: *Nhóm đất phù sa: Diện tích 1465 ha, chiếm tỷ lệ 27,29% diện tích tự nhiên toàn xã, phân bố tập trung ở khu vực thung lũng ven sông thuộc phía bắc của xã. Đất được bổi đắp hàng năm do ngập lụt nên khá phì nhiêu. Thành phần cơ giới đất từ trung bình đến nặng, tương đối giàu mùn và đạm, hàm lượng lân tổng số từ trung bình đến nghèo, theo nguồn gốc phát sinh được chia thành 3 loại: Đất phù sa được bồi hàng năm, đất phù sa loảng lổ đỏ vàng, đát phu sa ngoải suối. hiện đất phù sa đang được sử dụng vào trồng lúa, hoa màu và cây công nghiệp ngắn ngày. - Đất phù sa được bồi (Pb): diện tích khoảng 97 ha, chiếm 1,87% diện tích tự nhiên,phân bố tập trung ven sông Krông Ana. Đất có tầng dày lớn, hơi chua, thành phần cơ giới từ trung bình đến nhẹ, một phần bị ngập vào mùa mưa, thích hợp cho tròng lúa nước, các cây hàng năm như: Bắp, Đậu đỗ và các cây công nghiệp ngắn ngày như: sắn, Thuốc lá,… Đất phù sa có tầng loang lổ đỏ vàng (Pf), Đất phù sa ngòi suối (Py), *Nhóm đất xám: Phân bố ờ khu vực Đông bắc xã, thành phần cơ giới nh; hàm lượng đạm, lân, kali ở mức từ nghèo đến trung bình, hiện đang được khai thác trồng Mỳ, Điều, Tiêu, Cà phê,… *Nhóm đất đỏ vàng: Bao gồm ba loại đất: Đất đỏ vàng trên đá phiến sét, đất đỏ vàng trên đá Granit và đất mùn vàng trên đá granit. Đất đỏ vàng trên đá phiến (Fs): Phân bố nhiều ở khu vực phía Tây của xã, đất có thành phần cơ giới thịt trung bình, tầng dày < 30cm. -Đất vàng trên đá granit (Fa, Ha): Phân bố tập trung ở khu vực nữa xã, phía đông. Đất có tầng dày <30vm, thành phần cơ giới từ thịt nặng đến sét, khả năng giữ ẩm kém, có đá lẫn. *Nhóm đất khác: Bao gồm các loại đất lầy thụt và đất dốc tụ, phân bố dưới các khe suối hợp thủy. Loại đất này có độ phì khá cao, giùa mùn, khả năng giữ ẩm rất tốt, tuy nhiên chỉ chiếm tỷ lệ rất nhỏ. b.Tài nguyên nước: *Nước mặt: Hòa Sơn là một trong những xã có (mật độ 0,35 -055km/m2). Có sông chính (sông Krông Ana) là ranh giới tự nhiên phía Bắc giữa Hòa Sơn và xã Hòa Tân, chảy theo hướng Đông Nam – Tây Bắc. Ngoài ra còn có mạng lướng suối nhỏ phân bố khá đều khắp trên địa bàn xã. Cùng với lượng mưa khá lớn từ 1.800-2.200mm/năm nên sông suối trên địa bàn xã có tổng lưu lượng dòng chảy năm tương đối lơn, do đó nguồn nước mặt của xã Hòa Sơn khá dồi dào. Tuy nhiên, nguồn nước mặt phân bố không đều trong năm. Mùa mưa chiếm tới 90 -95% tổng lượng mưa năm, dòng chảy lớn, nhất là thời kỳ mưa lũ gây ra tình trạng ngập nước ở khu vực đất thấp. Mùa khô dòng chảy nhỏ, mực nước và cao trình đồng ruộng chênh lệch lớn, nên khả năng khai thác kém nếu không có các công trình thủy lợi. Chất lượng nước mặt khá tốt, nước sối thường có độ khóa hóa nhỏ, pH trung tính, sử dụng tốt cho nông nghiệp. Cùng với đặc điểm địa hình, mạng lưới sông suối của xã thuận lợi cho việc xây dụng một công trình thủy lợi nhỏ. *Nước ngầm: Trên địa bàn xã hiện chưa có tài liệu nghiên cứu, đánh giá chi tiết về nước ngầm, song dựa vào kết quả điều tra của sở công nghiệp ĐăkLăk và kết quả lập bản đồ địa chất thủy văn của Liên đoàn Địa chất Thủy văn – Địa chất Công trình miền Trung cho thấy: Nước ngầm trên địa bàn xã thuộc phía hệ thống chứa nước lỗ hổng các thành tạo bờ rồi đệ tứ (albq): diện phân bố của phức hệ chứa nước không lớn và chủ yếu dọc theo các thung lũng sông suối, như sông Krông Ana. Phức hệ này có khả năng cung cấp nước khá phong phú, độ sâu phân bố 15 đến 20m. c.Tài nguyên rừng: Qua kết quả điều tra từng theo chỉ thị 286/TTg và kết quả tổng kiểm kê đất đai theo chỉ thị 24/TTg thì xã Hòa Sơn có diện tích rừng là 2.328,00 ha, chiếm 43,36% diện tích tự nhiên. Trong đó: -Đất rùng trồng chỉ có 11,00 ha, chiếm 0,47% diện tích rừng, trong đó chỉ có rừng sản xuất với cây trồng chính là bạch đàn trắng. Năm trong vùng có điều kiện khí hậu, đất đai nhiều thuận lợi nên thảm động thực vật ở đây phát triển đa dạng và phong phú với nhiều chủng loại khác nhau: -Thảm thực vật rừng: Thảm thực vật rừng tác động là kho tàng thiên nhiên quý giá và đa dạng với nhiều chủng loại cây rừng có giá trị như thông 2 lá dẹt, hoàng đàn giả, thông nàng, pơmu , cẩm lai, gõ, trắc, kiền kiền,…. Trong đó có những loài cây đặc hữu và quý hiếm ghi trong sách đỏ của Việt nam cần được bảo vệ nghiêm ngặt. Rừng ở Hòa Sơn chẳng những có nhiều về chủng loại mà còn giàu về sản lượng, trung bình là 14.150m3 gỗ tròn trên 1ha như rừng Cư Yang Sin. Hiện rừng Cư Yang Sin đã được nâng cấp thành vườn Quốc gia để bảo vệ môi trường sinh thái và các loại động thực vật quý hiếm nhằm phục vụ cho nghiên cứu khoa học, du lịch và bảo tồn. -Động vật rừng: Đi đôi với nguồn tài nguyên về thực vật, hệ động vật của rừng ở Hòa Sơn cũng khá phong phú về số lượng và chủng loại, có giá trị kinh tế cũng như nghiên cứu khoa học, nhóm động vật quý hiếm (bò, rừng, hổ, báo, cầy, mực, vượn đen…) nhòm động vật kinh tế (nai, hoãng, lợn rừng, khỉ, vượn…), nhóm động vật cung cấp dược liệu, da lông, làm cảnh (tê tê, rắn, bò sát…)cùng các loại chin, bò sát, ếch nhái… trong đó có rất nhiều loại được nêu trong sách đỏ Việt Nam cần được bảo vệ, phục hồi và phát triển. d.Tài nguyên khoáng sản: Qua tham dò và đánh giá ở mức sơ bộ cho thấy xã Hòa Sơn không có nguồn tài nguyên khoáng sản nào đáng kể, chỉ có đá, cát xây dựng, nhưng chất lượng không cao, không đồng bộ và trữ lượng cũng không lớn. đ. Thủy văn, nguồn nước Khả năng tập trung nước
Tài liệu liên quan