Báo cáo tình hình phát triển, phương hướng và giải pháp phát triển Công ty cổ phần May 19

Sau hơn ba năm học tập tại trường đại học Kinh tế quốc dân Hà Nội, em được giới thiệu đến thực tập tại Công ty cổ phần May 19, tọa lạc tại số 311 Đường Trường Chinh – Thanh Xuân – Hà Nội. Đây là một công ty hoạt động trong lĩnh vực may mặc, trực thuộc Bộ quốc phòng. Mục đích ban đầu khi thành lập công ty là để cung cấp các trang phục cho Bộ quốc phòng. Cùng với sự phát triển của đất nước, ngày nay đối tượng khách hàng của công ty đã được mở rộng thêm, công ty sẵn sàng đáp ứng nhu cầu cho bất kỳ khách hàng nào, từ nhu cầu cá nhân đến tập thể, cả trong và ngoài ngành. Bên cạnh đó, công ty còn nhận gia công thuê cho một số đối tác nước ngoài như EU, Mỹ và một số quố gia Nam Á. Trước đây, công ty Công ty cổ phần May 19 là một công ty Nhà nước. Đến tháng 11/2005 được cổ phần hóa theo quyết định số 890/QĐ – QP của Bộ quốc phòng với kỳ vọng tạo nên một bước ngoặt cho sự phát triển của công ty. Sau khi cổ phần công ty không còn được hưởng những trợ cấp của Nhà nước như trước đây, đồng thời được miễn nộp thuế thu nhập doanh nghiệp trong ba năm đầu để công ty quen dần với cơ chế mới. Đây là một sự ưu đãi cần thiết mà Nhà nước dành cho công ty. Nhờ đó mọi hoạt động của công ty đã nhanh chóng đi vào ổn định và dần khởi sắc. Quá trình đến công ty thực tập, xem xét, tìm hiểu về hoạt động của công ty, vừa qua quan sát thực tế, vừa qua các tài liệu công ty cho mượn em đã thấy được một cách khái quát hoạt động của công ty, cơ cấu tổ chức bộ máy của công ty, cả những ưu điểm, hạn chế hiện tại của công ty. Với những gì tìm hiểu được em đã viết báo cáo này và mạnh dạn đề xuất một số giải pháp để công ty có thể khắc phục những hạn chế, phát huy tối đa nội lực, vươn lên trở thành một doanh nghiệp lớn mạnh trong lĩnh vực may mặc, có thương hiệu nổi tiếng không chỉ ở thị trường trong nước mà cả trên thế giới. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Báo cáo nghiên cứu về Công ty cổ phần May 19, một doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực sản xuất và kinh doanh may mặc. Đối tượng cụ thể của báo cáo là tình hình sản xuất và kinh doanh, cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý của công ty. Xem xét xem công ty đã đạt được những kết gì và còn những hạn chế, yếu kém gì. Báo cáo nghiên cứu về quá trình hình thành và phát triển của công ty kể từ ngày mới thành lập (ngày 1/4/1983) cho đến nay, không đề cập đến những doanh nghiệp khác trong cùng lĩnh vực, trong đó tập trung vào giai đoạn từ năm 2000 đến nay. Đây là giai đoạn công ty có những sự thay đổi lớn cả về chất và lượng.

doc28 trang | Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1378 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Báo cáo tình hình phát triển, phương hướng và giải pháp phát triển Công ty cổ phần May 19, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu Sau hơn ba năm học tập tại trường đại học Kinh tế quốc dân Hà Nội, em được giới thiệu đến thực tập tại Công ty cổ phần May 19, tọa lạc tại số 311 Đường Trường Chinh – Thanh Xuân – Hà Nội. Đây là một công ty hoạt động trong lĩnh vực may mặc, trực thuộc Bộ quốc phòng. Mục đích ban đầu khi thành lập công ty là để cung cấp các trang phục cho Bộ quốc phòng. Cùng với sự phát triển của đất nước, ngày nay đối tượng khách hàng của công ty đã được mở rộng thêm, công ty sẵn sàng đáp ứng nhu cầu cho bất kỳ khách hàng nào, từ nhu cầu cá nhân đến tập thể, cả trong và ngoài ngành. Bên cạnh đó, công ty còn nhận gia công thuê cho một số đối tác nước ngoài như EU, Mỹ và một số quố gia Nam Á. Trước đây, công ty Công ty cổ phần May 19 là một công ty Nhà nước. Đến tháng 11/2005 được cổ phần hóa theo quyết định số 890/QĐ – QP của Bộ quốc phòng với kỳ vọng tạo nên một bước ngoặt cho sự phát triển của công ty. Sau khi cổ phần công ty không còn được hưởng những trợ cấp của Nhà nước như trước đây, đồng thời được miễn nộp thuế thu nhập doanh nghiệp trong ba năm đầu để công ty quen dần với cơ chế mới. Đây là một sự ưu đãi cần thiết mà Nhà nước dành cho công ty. Nhờ đó mọi hoạt động của công ty đã nhanh chóng đi vào ổn định và dần khởi sắc. Quá trình đến công ty thực tập, xem xét, tìm hiểu về hoạt động của công ty, vừa qua quan sát thực tế, vừa qua các tài liệu công ty cho mượn em đã thấy được một cách khái quát hoạt động của công ty, cơ cấu tổ chức bộ máy của công ty, cả những ưu điểm, hạn chế hiện tại của công ty. Với những gì tìm hiểu được em đã viết báo cáo này và mạnh dạn đề xuất một số giải pháp để công ty có thể khắc phục những hạn chế, phát huy tối đa nội lực, vươn lên trở thành một doanh nghiệp lớn mạnh trong lĩnh vực may mặc, có thương hiệu nổi tiếng không chỉ ở thị trường trong nước mà cả trên thế giới. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Báo cáo nghiên cứu về Công ty cổ phần May 19, một doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực sản xuất và kinh doanh may mặc. Đối tượng cụ thể của báo cáo là tình hình sản xuất và kinh doanh, cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý của công ty. Xem xét xem công ty đã đạt được những kết gì và còn những hạn chế, yếu kém gì. Báo cáo nghiên cứu về quá trình hình thành và phát triển của công ty kể từ ngày mới thành lập (ngày 1/4/1983) cho đến nay, không đề cập đến những doanh nghiệp khác trong cùng lĩnh vực, trong đó tập trung vào giai đoạn từ năm 2000 đến nay. Đây là giai đoạn công ty có những sự thay đổi lớn cả về chất và lượng. Mục đích nghiên cứu Nghiên cứu để thấy được hoạt động thực tiễn của một doanh nghiệp, thấy cơ cấu tổ chức quản lý của doanh nghiệp và mối quan hệ giữa các bộ phận trong cơ cấu đó, những hoạt động giao dịch kinh doanh, koạt động sản xuất diễn ra như thế nào. Từ đó rút ra đánh giá về kết quả đạt được và những yếu kém cần khắc phục của công ty. Cuối cùng là đề xuất một số giải pháp để giúp công ty khắc phục hạn chế, vươn lên phát triển. Qua việc nghiên cứu về công ty, tác giả mong muốn rút ngắn khoảng cách giữa lý thuyết và thực tế, vận dụng những kiến thức đã học vào nghiên cứu thực tiễn. Phương pháp nghiên cứu Báo cáo được hoàn thành dựa trên việc sử dụng kết hợp nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau. Trong đó phương pháp nghiên cứu chủ đạo được sử dụng là phương pháp duy vật biện chứng và phân tích đánh giá. Bên cạnh đó, phương pháp tổng hợp - thống kê, tư duy logic và phương pháp lịch sử cũng được sử dụng. Ngoài phần mở đầu có tính chất giới thiệu khái quát về báo cáo, bao gồm: lời nói đầu, đối tượng và phạm vi nghiên cứu, mục đích nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu, thì phần nội dung chính của Báo cáo được trình bày theo ba chương: Chương 1. Quá trình hình thành và phát triển của Công ty cổ phần May 19 Chương 2. Tình hình phát triển của Công ty cổ phần May 19 Chương 3. Phương hướng và giải pháp phát triển Công ty cổ phần May 19 Chương 1. Quá trình hình thành và phát triển của Công ty cổ phần May 19 1.1.Sự hình thành Để đáp ứng nhu cầu về trang phục cho Bộ quốc phòng, ngày 01/4/1983, Xí nghiệp May Đo X19 thuộc Bộ quốc phòng được thành lập. Với chức năng là may trang phục cho các đơn vị của bộ quốc phòng. Sau một quá trình hoạt động, cơ sở vật chất, kỹ thuật của xí nghiệp được mở rộng và xí nghiệp đổi tên thành Công ty 247 cho tương xứng với hoạt động của công ty. Công ty 247 đã nối tiếp truyền thống của Xí nghiệp May Đo X19 và ngày càng mở rộng hoạt động sản xuất – kinh doanh, hoạt động đầu tư vào cơ sở hạ tầng, máy móc trang thiết bị, và hoạt động phát triển nhân lực. Đến tháng 11/2005, theo chủ trương cổ phần hóa các doanh nghiệp Nhà nước của Đảng, Công ty 247 được cổ phần hóa theo quyết định số 890/QĐ – QP của Bộ trưởng Bộ quốc phòng, đổi tên công ty thành Công ty cổ phần May 19 như ngày nay. Trong công ty này, Nhà nước sở hữu 51% vốn kinh doanh, 49% còn lại là của các cá nhân có nhu cầu. Như vậy Nhà nước vẫn giữ quyền gia quyết định của công ty. Mặc dù mới được chuyển sang một cơ chế quản lý mới nhưng Công ty cổ phần May 19 đã kịp thời chấn chỉnh mọi hoạt động, đi vào ổn định sản xuất - kinh doanh, tiếp bước sự tăng trưởng của Công ty 247. Công ty có tên giao dịch quốc tế là 19 Garment Joint Stock Company. Công ty mới xây dựng thêm một chi nhánh nữa ở thành phố Hồ CHí Minh, chuyên gia công các đơn đặt hàng cho đối tác nước ngoài. 1.2. Các giai đoạn phát triển của công ty Cho đến nay có thể chia quá trình hình thành và phát triển của công ty thành ba giai đoạn chính: 1.2.1. Giai đoạn 1983 – 1988 Giai đoạn này công ty có tên là Xí nghiệp May Đo X19, được thành lập theo số 769/QĐ – QP của Bộ quốc phòng. Đây là giai đoạn đầu mới thành lập công ty. Ở giai đoạn này, quy mô nhà xưởng còn rất nhỏ bé, máy móc trang thiết bị thô sơ lạc hậu, nhân lực cũng bé nhỏ. Toàn xí nghiệp chỉ có một xưởng may với hơn 40 công nhân, các khâu sản xuất như cắt, máy, là được thực hiện ở trong cùng xưởng đó. Máy móc thiết bị của xí nghiệp thì rất lạc hậu going như tình trạng chung của đất nước lúc bấy giờ. Lúc đó xí nghiệp sử dụng máy khâu đạp chân của Trung Quốc, các thao tác hầu như được thực hiện một cách thủ công, năng suất lao động rất khiêm tốn, mỗi ngày chỉ hoàn thành được hơn 20 sản phẩm. Đời sống của người lao động rất thiếu thốn, eo hẹp, tuy nhiên cũng dần được cải thiện theo sự đổi mới của đất nước và xí nghiệp. Công việc quản lý và sản xuất cũng chưa tách bạch, người quản lý cũng vẫn tham gia vào hoạt động sản xuất. Năng suất và chất lượng sản phẩm rất thấp. Hoạt động sản xuất của xí nghiệp chỉ nhằm cung cẩp trang phục chuyên ngành cho Bộ quốc phòng, hoạt động kinh doanh với thị trường bên ngoài rất ít. Lúc đó sản phẩm chủ yếu của công ty là trang phục công an, bộ đội, trang phục bảo hộ lao động. Mọi chi phí của xí nghiệp như nguyên liệu, nhiên liệu, tiền lương công nhân viên…đều do Nhà nước bao cấp, xí nghiệp chỉ sản xuất theo kế hoạch được Nhà nước giao xuống. Hiệu quả kinh tế trong sản xuất không được đề cập đến, không phải là một chỉ tiêu quyết định sự tồn tại của xí nghiệp. Dù sao xí nghiệp cũng đã góp phần làm giảm bớt sự khan hiếm hàng hóa của đất nước lúc bấy giờ. 1.2.2. Giai đoạn từ năm 1989 – 2005 Số lượng khách hàng của xí nghiệp ngày càng nhiều lên, mở rộng ra nhiều tỉnh thành. Thời gian này, trên thế giới khoa học công nghệ đang rất phát triển. Khiến yêu cầu mở rộng sản xuất, hiện đại hóa máy móc trở nên cấp thiết. Vì thế Bộ quốc phòng đã quyết định mở rộng nhà xưởng, thay thế những thiết bị sản xuất lạc hậu bằng những thiết bị hiện đại hơn, tuyển thêm lao động, đồng thời nâng cấp và chuyển xí nghiệp thành Công ty 247. Công ty đã tiến hành quy hoạch lại nhà xưởng, thực hiện chuyên môn hóa trong sản xuất cao hơn. Hai xưởng may, một xưởng cắt, một xưởng là và đóng gói sản phẩm được xây dựng mới. Cơ sở hạ tầng từng bước được sửa sang, xây mới, được bố trí lại một cách chuyên biệt, hợp lý hơn. Hệ thống máy móc thiết bị liên tục được đổi mới theo xu hướng hiện đại, thay thế cho những máy móc lỗi thời lạc hậu trước đây. Số lượng công nhân viên tăng lên đáng kể so với ngày đầu mới thành lập. Năm 2000, tổng số cán bộ công nhân viên của Công ty đã là 514 người. Giai đoạn này còn đánh dấu một bước ngoặt trong công tác mở rộng thị trường của công ty. Ngoài việc đáp ứng các đơn hàng truyền truyền thống của Bộ quốc phòng, Công ty còn nhận may đo cho các khách hàng ngoài ngành có nhu cầu, mặc dù doanh thu từ thị phần này chưa chiếm tỷ lệ đáng kể. Bên cạnh đó, theo xu thế hội nhập mạnh mẽ của đất nước, Công ty cũng đã bước đầu nhận gia công thuê các đơn hàng cho đối tác nước ngoài như Hàn Quốc, EU, Mỹ…. Xuất khẩu hiện đang chiếm một tỷ lệ tăng dần trong tổng doanh thu, cụ thể năm 2000 tỷ lệ này mới chỉ chiếm 3,7%, năm 2001 là 6,4% đến năm 2005 đã đạt 40,3%. Công ty xác định xuất khẩu là một trong những mũi nhọn phát triển trong tương lai. Kể từ giai đoạn này, Nhà nước đã bắt đầu chú ý tới hiệu quả kinh tế trong sản xuất đối với tất cả các doanh nghiệp Nhà nước. Càng về cuối giai đoạn yêu cầu đó càng gay gắt, phần nào đã gây áp lực phải cải tiến phương pháp quản lý đối với lãnh đạo công ty. Vì thế những hạn chế của cơ chế bao cấp đã dân bị phai mờ. Lãnh đạo công ty chú ý đôn đốc nhân viên, kỷ luật lao động được thắt chặt hơn. Doanh thu của công ty liên tục tăng lên kể từ khi thành lập, nhất là trong những năm gần đây. Bảng 1.2: Doanh thu của Công ty 247 từ năm 2000 – 2005, đơn vị: tỷ đồng Năm 2000 2001 2002 2003 2004 2005 Doanh thu 23,2 28,6 34,8 40,7 46,3 50,1 Nguồn: Báo cáo tổng kết cuối năm 2000, 2001,2002, 2003, 2004, 2005 của Công ty 247. Qua bảng trên ta thấy doanh thu của công ty không ngừng tăng lên, năm 2005 tăng gấp 2,2 lần so với năm 2000, chứng tỏ hoạt động kinh doanh của công ty đang ngày càng phát triển. Tuy nhiên đây vẫn là một công ty Nhà nước cho nên vẫn tồn tại những nhược điểm của cơ chế bao cấp. Kết quả hoạt động vẫn chưa tương xứng với tiềm năng của Công ty, tâm lý trông chờ ỷ lại vẫn còn khá nặng nề trong hàng ngũ cán bộ công nhân viên Công ty. Chính vì vậy cùng với xu hướng cổ phần hóa, tư nhân hóa đang diễn ra như một giải pháp cấp thiết đối với sự làm ăn kém hiệu quả của các doanh nghiệp Nhà nước, thì vào tháng 11/2005 Bộ quốc phòng đã quyết định cổ phần hóa Công ty và đổi tên Công ty thành Công ty cổ phần May 19. Nhưng Nhà Nước vẫn nắm giữ 51% số cổ phần của Công ty. Trong giai đoạn này Công ty 247 đã nhận được nhiều phần thưởng cao quý: Năm 1996 và 1997: Bộ tư lệnh quân chủng phòng không không quân tặng cờ: “Đơn vị sản xuất – kinh doanh khá nhất” và cờ “ Đơn vị điển hình tiên tiến”. Năm 1998: Nhà nước tặng thưởng huân chương Lao động hạng Nhì, Bộ tư lệnh quân chủng tặng cờ: “ Đơn vị sản xuất – kinh doanh khá nhất khối doanh nghiệp kinh tế - quốc phòng” và cờ: “ Đơn vị điển hình tiên tiến – xuất sắc giai đoạn 1989 – 1999”. Năm 2000: Bộ tư lệnh quân chủng tặng cờ: “Đơn vị xuất sắc khối công ty, xí nghiệp kinh tế - quốc phòng” và cờ: “ Đơn vị điển hình tiên tiến phong trào thi đua ngành hậu cần quân đội làm theo lời Bác Hồ dạy 1995 – 2000” Năm 2002: Nhà nước tặng huân chương Lao động hạng B Năm2003: Bộ tư lệnh tặng cờ: Đơn vị tiên tiến - xuất sắc 2000 – 2003” 1.2.3.Giai đoạn từ tháng 11/2005 đến nay Để thúc đẩy sự tăng trưởng của công ty nhanh hơn nữa, tháng 11/2005 Bộ quốc phòng quyết định cổ phần hóa công ty 247 theo quyết định số 890/ QĐ – QP và đổi tên công ty thành Công ty cổ phần May 19. Sau hơn một năm cổ phần đã cho thấy đây là một quyết định đúng đắn đối với công ty nói riêng và các doanh nghiệp Nhà nước nói chung.Cổ phần hóa đã thổi vào Công ty một luồng sinh khí mới. Không khí làm việc trong công ty đã có nhiều thay đổi, kỷ luật lao động được thắt chặt hơn. Thái độ làm việc của nhân viên các phòng ban đã bớt ì trệ, hiệu quả hơn trước.Có thể nói sự thay đổi về hình thức sở hữu này là một bước ngoặt đối với công ty, báo hiệu một khi thế phát triển mới của công ty. Hiện nay đối tác của Công ty có mặt ở cả 64 tỉnh thành trên toàn quốc. Khách hàng truyền thống đã tăng lên nhiều, số lượng đối tác nước ngoài cũng nhiều hơn. Nếu như năm 2000 tỷ lệ xuất khẩu trên tổng doanh thu của công ty mới chỉ chiếm 10%, thì năm 2006 đã đạt hơn 50%. Doanh thu năm 2006 đạt 60 tỷ đồng, tăng 25% so với năm 2005. Ngày nay công ty đã có một hệ thống trang thiết bị hiện đại, có khả năng đảm nhận các sản phẩm may đo cao cấp phục vụ nhu cầu đa dạng của thị trường trong và ngoài nướcnhư hệ thống ép hơi đa năng, máy tra tay complet tự động… Từ khi thành lập đến nay công ty đã nhận được nhiều phần thưởng cao quý, đó là 18 huy chương các loại ( 13 huy chương vàng. 5 huy chương bạc) tại các hội chợ quốc tế hàng công nghiệp Việt Nam, những sản phẩm đạt huy chương vàng tiêu biểu là: trang phục sĩ quan an ninh, trang phục đông len kiểm soát, trang phục công sở nữ, trang phục cảnh sát, áo măng tô nam, mũ kê - pi ngành kiểm lâm… 1.3. Cơ cấu bộ máy Qua một thời gian dài phát triển, bộ máy của công ty đã nhiều lần được thay đổi và hoàn thiện. Hiện nay, bộ máy này gồm bốn cấp: Cấp cao nhất là Hội đồng quản trị: gồm những cổ đông góp vốn của công ty. Hội đồng quản trị bầu ra Ban giám đốc và hai phó tổng giám đốc giúp việc cho. Ban giám đốc có nhiệm vụ quản lý mọi hoạt động của công ty, ra các quyết định và hướng dẫn cấp dưới thực hiện. Cấp thứ ba là các phòng ban, bao gồm: phòng kinh doanh - xuất nhập khẩu, phòng kế hoạch, phòng kế toán, kho vật tư, kho sản phẩm. Cấp thứ tư là cấp phân xưởng, gồm năm xưởng may, một xưởng cắt, một xưởng là. Sơ đồ cơ cấu bộ máy của công ty như sau: Bộ quốc phòng Hội đồng quản trị Ban giám đốc Kho vật tư Phòng KD - XNK Phòng kế hoạch Phòng kế toán Phòng kỹ thuật Kho sản phẩm Xí nghiệp cắt Xí nghiệp may 2, 3, 5 Xí nghiệp là và đóng gói Qua sơ đồ ta thấy Bộ máy của công ty được tổ chức khá đơn giản, linh hoạt, phù hợp với quy mô của công ty. Mỗi bộ phận có một chức năng rõ ràng, đảm bảo cho hoạt động của công ty luôn thông suốt. Dưới đây là chức năng cụ thể của từng bộ phận trong bộ máy của công ty: - Hội đồng quản trị: gồm những cổ đông chính của công ty, mỗi năm họp hai lần ( sấu tháng một lần) để nghe báo cáo về tình hình hoạt động của công ty và đề ra những chỉ tiêu cơ bản cho kỳ sau. - Ban giám đốc: gồm một Tổng giám đốc và hai phó tổng giám đốc do Hội đồng quản trị cử ra để quản lý công ty. Ban giám đốc có nhiệm vụ thay mặt cho Hội đồng quản trị theo dõi tình hình hoạt động của công ty từng ngày và ra các quyết định cần thiết để chỉ đạo hoạt động tới các phòng ban, xí nghiệp. Ban giám đốc có thể thực hiện giao dịch với các đối tác quan trọng của công ty. - Kho vật tư: có chức năng xuất, nhập nguyên vật liệu cho các xí nghiệp theo số liệu mà phòng kế hoạch chuyển tới. - Phòng kinh doanh – xuất nhập khẩu: có chức năng giao dịch với khách hàng, giải đáp các yêu cầu của khách hàng - Phòng kế hoạch: căn cứ vào các hợp đồng đã kí kết để sắp xếp kế hoạch sản xuất cụ thể , sau đó chuyển xuống các xí nghiệp để sản xuất. - Phòng kỹ thuật: chuyên ngiên cứu thiết kế những sản phẩm mới, may theo mẫu mà đối tác yêu cầu, đưa ra những giải pháp kỹ thuật hữu hiệu cho công ty. - Phòng kế toán: tiến hành ghi chép các khoản thu, chi của công ty, giải quyết ché độ lương thưởng cho người lao động. - Xí nghiệp cắt: có chức năng cắt sản phẩm theo số đo mà phòng kế hoạch gửi xuống. - Phân xưởng may 2,3,5: có nhiệm vụ máy lại những bán thành phẩm đã được cắt. - Kho sản phẩm: lưu giữ sản phẩm đã hoàn thành và giao cho khách hàng. 1.4. Mối quan hệ trong bộ máy quản trị của Công ty Giữa các cấp cũng như giữa các bộ phận trong cùng một cấp có quan hệ rất chặt chẽ với nhau. Đó thường là quan hệ hai chiều, quan hệ qua lại, giúp cho quá trình ra quyết định được dân chủ, mọi người đều có quyền tham gia góp ý vào quyết định đó. Cụ thể: Hội đồng quản trị thống nhất những chỉ tiêu cơ bản nhất mà công ty cần phải đạt được trong một năm như doanh thu, lợi nhuận….Những chỉ tiêu này sẽ được giao đến ban giám đốc. Ban giám đốc vạch ra kế hoạch và ra các quyết định cho các phòng ban. Phòng ban chịu tác động sẽ tiến hành nghiên cứu các quyết định này và kiến nghị trở lại ban giám đốc nếu quyết định đó cần phải sửa đổi hoặc triển khai thực hiện quyết định nếu không có gì cần sửa. Giữa các phòng ban và các phân xưởng cũng có quan hệ trực tuyến với nhau. Phòng kinh doanh – xuất nhập khẩu sẽ đảm nhận việc giao dịch với khách hàng, cụ thể là nhận các đơn đặt hàng, các hợp dồng từ khách hàng trong và ngoài nước, đo đạc cho khách, sau đó chuyển số liệu sang phòng kế hoạch và phòng kế toán. Phòng kế toán sẽ tiến hành lưu số liệu. Phòng kế hoạch căn cứ vào các đơn hàng để sắp xếp kế hoạch sản xuấtvà chuyển xuống các xưởng: cắt, may và kho vật tư để tiến hành triển khai sản xuất. Sản phẩm hoàn thành sẽ được chuyển xuống kho sản phẩm, rồi giao cho khách hàng. Phòng kế toán tiến hành ghi chép các khoản thu chi của công ty, rồi tổng hợp lại đưa lên ban giám đốc. Giữa các phân xưởng cũng có quan hệ mật thiết với nhau.đó là một giây chuyền sản xuất bao gồm các khâu để hoàn thành một sản phẩm. Phân xưởng cắt sẽ nhận các số liệu từ phòng kế hoạch và nguyên liệu từ kho vật tư để cắt ra các bán thành phẩm rồi chuyển sang bên phân xưởng may để máy lại, sau đó chuyển sang bên phân xưởng thêu và là để hoàn thiện sản phẩm, chuyển xuống kho. Như vậy mỗi bộ phận trong bộ máy sẽ đảm nhận những công việc nhất định nhằm đảm bảo cho hoạt động của công ty luôn diễn ra nhịp nhàng, trôi chảy. 1.5. Lĩnh vực kinh doanh Kể từ khi thành lập cho đến nay công ty luôn hoạt động trong lĩnh vực sản xuất và kinh doanh các sản phẩm may mặc. Thị trường mục tiêu mà công ty hướng tới là trang phục cho các đơn vị thuộc Bộ quốc phòng, trang phục bảo hộ lao động và các trang phục cao cấp như áo complet, áo jăcket, áo măng tô…. Công ty có truyền thống lâu đời về các sản phẩm này, được khách hàng tin dùng. Vì thế sản phẩm công ty hiện nay đang có mặt ở khắp 64 tỉnh thnàh trên toàn quốc. Một đặc điểm đặc trưng là ở thị trường trong nước công ty chủ yếu đáp ứng cho những nhu cầu tiêu dùng cuối cùng, nghĩa là khách hàng đặt hàng để sử dụng cho chính bản thân, quan hệ giữa công ty và khách hàng là quan hệ trực tiếp. Công ty chỉ phục vụ những yêu cầu cụ thể đó nên hầu như không có tình trạng hàng tồn kho, không phải chịu rủi ro về hàng tồn kho. Hoạt động chính của công ty là sản xuất và kinh doanh các sản phẩm may mặc, mà chủ yếu là các bộ đồng phục cho ngành công an, kiểm lâm, quần áo bảo hộ lao động, áo complet, quần âu, áo jăcket…. Công ty đảm nhận từ khâu đo đạc, chọn vải cho khách hàng đến khâu cuối cùng của sản phẩm. Cách thức kinh doanh này giúp quan hệ giữa khách hàng với công ty gần gũi hơn, tạo điều kiện thuận lợi cho việc nắm bắt nhu cầu khách hàng, nhu cầu thị trường của công ty. Sản phẩm của công ty mang tính đặc trưng, chuyên biệt, đồng phục của các đơn vị thuộc Bộ quốc phòng, vì thế sức ép cạnh tranh trên thị trường không quá gay gắt do rất ít doanh nghiệp tham gia vào lĩnh vực này. Ngoài ra, công ty cũng nhận may trang phục theo yêu cầu cá nhân. Với hoạt động may gia công cho đối tác nước ngoài thì công ty sẽ nhận từ họ mẫu mã, nguyên liệu và làm theo mẫu đó. Sau công đoạn kiểm tra chất lượng công ty tiến hành đóng hàng vào container và chuyển gửi sang cho đối tác bằng đường biển, nhận về chi phí gia công như đã thỏa thuận giữa hai bên. Như vậy sản phẩm của công ty phát triển theo hai hướng chính ( gồm hai nhóm chính). Thứ nhất là trang phục cho các đơn vị thuộc Bộ quốc phòng ở thị trường trong nước. Thứ hai là các sản phẩm may cao cấp ( complet, jăcket, măng tô) phục vụ cho thị trường xuất khẩu. Chương 2. Tình hình phát triển của Công ty cổ phần May 19 2.1. Hoạt động xuất nhập khẩu, nhận sự, đầu tư. 2.1.1. Hoạt động xuất nhập khẩu Công ty bắt đầu nhận những đơn hàng gia công xuất khẩu vào năm 2000. Những đối tác đầu tiên của công ty là EU và Hàn Quốc. Ban đầu tỷ lệ xuất khẩu/doanh thu rất thấp. Đến năm 2002 tỷ lệ này mới chỉ đạt 10%, hoạt động sản xuất cho thị trường trong nước vẫn là chủ yếu. Uy tín của công ty tăng dần trên thị trường quốc tế, số lượng các đơn hàng gia công tăng lên nhanh chóng, đến năm 2005 đã c
Tài liệu liên quan