Từ 01/01/1999, Việt Nam bắt đầu thi hành một luật thuế mới, đó là thuế Giá trị gia tăng (GTGT). Việc Nhà nước ta quyết định thay Luật thuế doanh thu bằng Luật thuế GTGT là hoàn toàn phù hợp với xu thế cải cách thuế ở các nước trên thế giới. Nhìn chung, thuế GTGT được coi là phương pháp thu tiến bộ nhất hiện nay, được đánh giá cao do đạt được mục tiêu lớn của chính sách thuế như tạo được nguồn thu lớn cho ngân sách Nhà nước, đơn giản, trung lập, .
Qua 3 năm thực hiện, Luật thuế GTGT về cơ bản đã phát huy các mặt tích cực đối với đời sống kinh tế xã hội, góp phần khuyến khích đầu tư, ổn định sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và trình độ quản lý của ngành thuế.
Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện đã gặp những vướng mắc khó khăn. Vì vậy, Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ và Bộ Tài chính đã ban hành nhiều văn bản sửa đổi, bổ sung và hướng dẫn thi hành Luật thuế này.
Với mong muốn tìm hiểu một luật thuế còn khá mới mẻ này, tôi đã quyết định chọn đề tài: "Tình hình thực hiện luật thuế GTGT tại một số doanh nghiệp Kinh doanh - Thương mại trên địa bàn quận Hoàn Kiếm - Hà Nội" làm báo cáo thực tập tốt nghiệp của mình.
65 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1234 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Báo cáo Tình hình thực hiện luật thuế GTGT tại một số doanh nghiệp Kinh doanh - Thương mại trên địa bàn quận Hoàn Kiếm - Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu
Từ 01/01/1999, Việt Nam bắt đầu thi hành một luật thuế mới, đó là thuế Giá trị gia tăng (GTGT). Việc Nhà nước ta quyết định thay Luật thuế doanh thu bằng Luật thuế GTGT là hoàn toàn phù hợp với xu thế cải cách thuế ở các nước trên thế giới. Nhìn chung, thuế GTGT được coi là phương pháp thu tiến bộ nhất hiện nay, được đánh giá cao do đạt được mục tiêu lớn của chính sách thuế như tạo được nguồn thu lớn cho ngân sách Nhà nước, đơn giản, trung lập, ....
Qua 3 năm thực hiện, Luật thuế GTGT về cơ bản đã phát huy các mặt tích cực đối với đời sống kinh tế xã hội, góp phần khuyến khích đầu tư, ổn định sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và trình độ quản lý của ngành thuế...
Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện đã gặp những vướng mắc khó khăn. Vì vậy, Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ và Bộ Tài chính đã ban hành nhiều văn bản sửa đổi, bổ sung và hướng dẫn thi hành Luật thuế này.
Với mong muốn tìm hiểu một luật thuế còn khá mới mẻ này, tôi đã quyết định chọn đề tài: "Tình hình thực hiện luật thuế GTGT tại một số doanh nghiệp Kinh doanh - Thương mại trên địa bàn quận Hoàn Kiếm - Hà Nội" làm báo cáo thực tập tốt nghiệp của mình.
chương I
những lý luận chung về thuế giá trị gia tăng
I- sơ lược về thuế nhà nước
1-Khái niệm về thuế
Thuế là một phạm trù lịch sử, nó phát sinh tồn tại và phát triển cùng với sự ra đời, tồn tại và triển của nhà nước.Có thể khẳng định rằng , dưới bất kỳ một chế độ xã hội nào khi đã có nhà nước thì phải có thuế. Sự xuất hiện của nhà nước đòi hỏi phải có cơ sở vật chất để đảm bảođiều kiện cho nhà nước tồn tại và thực hiện các chức năng của mình.Nhà nước dùng quyền lực chính trị của mình để ban hành những qui định pháp luật cần thiết nhằm làm công cụ phân phối lại một phần của cải xã hội và hình thành quỹ tiền tệ tập trung của nhà nước. Đồng thời, sự xuất hiện của sản phẩm thặng dư trong xã hội cũng là cơ sở chủ yếu tạo khả năng và nguồn thu để thuế tồn tại và phát triển. Như vậy, thuế ra đời là một tất yếu khách quan xuất phát từ nhu cầu đáp ứng chức năng của nhà nước. Nhà nước sử dụng thế như một công cụ quan trọng để điều tiết vĩ mô nền kinh tế, thuế không những là nguồn thu quan trọng chủ yếu của ngân sách nhà nước mà còn có ảnh hưởng to lớn đến công cuộc phát triển kinh tế.
Nhiệm vụ chính trị của mỗi nhà nước trong từng giai đoạn lịch sử, đặc điểm cuẩ phương thhức sản xuất, kết cấu giai cấp là những nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến vai trò, nội dung và đặc điểm của thuế khoá. Bản chất của thuế tuỳ thuộc vào bản chất nhà nước sinh ra nó. Trước thời kỳ phong kiến, hình thái ban đầu của thuế chỉ là hiện vật và ngày công lao động, kể từ chủ nghĩa tư sản cho đến nay, thuế đã dần chuyển sang hình thái phổ biến là tiền tệ và các sắc thuế khác nhau cũng không ngừng được hoàn thiện. Tuy nhiên, hệ thống thuế được coi là phù hợp không thể chỉ nhìn vào số lượng các sắc thuế nhiều hay ít, và mục tiêu đơn thuần về động viên tài chính mà được phân tích một cách cụ tể toàn diện mối quan hệ chặt chẽ với yêu cầu phát triển kinh tế lành mạnh, với đời sống xã hội không đối lập với quyền lợi và khả năng đóng góp của nhân dân. Do đó, cơ cấu và nội dung cẩ hệ thống và từng sắc thuế phải được nghiên cứu, sửa đổi bổ sung cải tiến và đổi mới, kịp thời thích hợp với tình hình, nhiệm vụ của từng giai đoạn. Đồng thời, phải giải quyết, tổ chức hợp tác , đủ sức bảo đảm thực hiện các quy định của pháp luật về thuế đã được nhà nước ban hành trong từng thời kỳ.
Khái niệm về thuế nhà nước chưa có một sự thống nhất, tuỳ thuộc vào từng đối tượng mà có những khái niệm về thuế khác nhau:
-Đối với nhà nước: Thuế là một khoản thu chủ yếu của nhà nước , đối với các tổ chức xã hội vầ mọi thành viên trong xã hội khoản thu này mang tính chất bắt buộc theo pháp luật, không hoàn trả trực tiếp
-Đối với người nộp thuế thuế là khoản đóng góp có tính chất bắt buộc mà các tổ chức kinh tế hay người kinh doanh phải thực hiện theo luật định nộp vào ngân sách nhà nước để đáp ứng nhu cầu chi tiêu của bộ máy nhà nước.
Tóm lại , thuế là một khoản thu mang tính chất bắt buộc gắn liền với quyền lực chính trị của nhà nước bằng các sấc lệnh do nhà nước quy định. Nó được thể hiện thông qua các luật và văn bản dưới luật được cơ quan quyền lực cao nhất ban hành đó là Quốc hội.
Thuế được tập trung vào ngân sách nhà nước,đáp ứng cho các nhu cầu chi tiêu,cho các mục đích: phát triển kinh tế , văn hoá , xã hội , quản lý nhà nước và an ninh quốc phòng. Một phần số thuế đã nộp cho ngân sách,nhà nước thực hiện phân phối lại thu nhập ,đảm bảo công bằng xã hội thông qua việc trả lại cho người dân một cách gián tiếp dưới hình thức trợ cấp xã hội, phúc lợi xã hội và quĩ tiêu dùng xã hội khác.
Nền kinh tế càng phát triển, xã hội càng công bằng, văn minh thì yêu cầu phải có một hệ thống thuế khoá phù hợp càng cao. Chúng ta phải luôn luôn đổi mới, bổ xung, không ngừng hoàn thiện hệ thống thuế hiện hành và phát huy những vai trò to lớn cuả nó, phục vụ cho nhà nước, cho quốc gia của mình.
2-Đặc điểm của thuế
Thuế là một biện pháp tài chính của nhà nước được thiết lập trên nguyên tắc luật định, mang tính quyền lực, tính cưỡng chế và tính pháp lý cao. Đồng thời khi được thực hiện thì có thể làm thay đổi quyền sở hữu về tài sản.
Thuế bao giờ cũng chứa đựng các yếu tố thuộc về kinh tế, xã hội. Tuy là biện pháp tài chínhcủa nhà nước mang tính chất bất buộc, song sự bắt buộc đó luôn luôn được xác lập trên nền tảng của các vấn đề kinh tế, xã hội của người làm nghĩa vụ đóng thuế. Việc xác lập một hệ thống thuế với các loại thuế xuất khác nhau trước hết bắt nguồn từ sự chi tiêu của nhu cầu nhà nước, song trong thực tế mức độ động viên qua thuế bao giờ cũng chịu sự ràng buộc của các yếu tố kinh tế, xã hôị của một quốc gia trong từng giai đoạn lịch sử.
Thuế là một khoản đóng góp không mang hoàn trả trực tiếp.
3-Phân loại thuế:
Tuỳ theo mục đích yêu cầu của việc xem xét, đánh giá, phân tích và phân loại các sắc thuế mà có các cách phân loại sau:
3.1 Phân loại theo tính chất chuyển giao thuế.
*Thuế trực thu: Là loại thuế mà người trực tiếp nộp thuế đồng thời là người chịu thuế.
Ví dụ: Thuế thu nhập doanh nghiệp ,thuế thu nhập cá nhân
*Thuế gián thu: là loại thuế đánh vào người tiêu dùng thông qua giá cả hàng hoá và dịch vụ, đồng thời người chịu thuế gián thu và người nộp thuế không đồng nhất.
Ví dụ: Thuế giá trị gia tăng, thuế xuất nhập khẩu
3.2 Phân loại theo đối tượng tính thuế:
*Thuế đánh vào nsản xuất kinh doanh và dịch vụ.
Ví dụ: Thuế doanh thu
Thuế đánh vào sản phẩm hàng hoá:
Ví dụ: thuế tiêu thụ đặc biệt
*Thuế đánh vào thu nhập :
Ví dụ :thuế thu nhập doanh nghiệp
*Thuế đánh vào việc sử dụng tài sản của nhà nước.
Ví dụ: Thuế tài nguyên, thuế sử dụng đất nông nghiệp...
3.3 Phân loại theo hình thức thuế:
*Thuế bằng hiện vật :
Ví dụ: Thuế nông nghiệp thu bằng thóc
Thuế bằng tiền:
Ví dụ: Thuế xuất khẩu ,thuế nhập khẩu...
3.4 Phân loại thuế theo quan hệ điều của thuế:
Thuế có tỉ lệ cố định
Thuế luỹ tiến
Thuế luỹ thoái
4-Các yếu tố cấu thành thuế:
4.1 Tên gọi:
Là cách qui ước gọi tên thuế do nhà nước qui định nhằm chỉ định rõ loại sắc thuế nào đó theo tính chất của chúng.
Ví dụ :Thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt..
4.2 Đối tượng nộp thuế:
Là những cơ sở kinh doanh được nhà nước công nhận về mặt pháp luật có các hoạt động kinh doanh, tài sản hoặc thu nhập thuộc phạm vi điều tiết của thuế.
Ví dụ: Các cơ sở kinh doanh có thu nhập phải nộp thuế thu nhập doanh nghiệp ,...
4.3 Đối tượng tính thuế:
Là căn cứ để từ đó tính ra tiền thuế. Đối tượng tính thuế là một yếu tố cần thiết của sắc thuế và phải triệt nhiều mặt của chính sách động viên đối với thuế đó .
Ví dụ: Tất cả các hàng hoá và dịch vụ dùng cho sản xuất kinh doanh và tiêu dùng trên lãnh thổ Việt Nam là đối tượng chịu thuế giá trị gia tăng.
4.4 Thuế suất, mức thuế:
- Thuế suất: là linh hồn của sắc thuế, biểu hiện yêu cầu động viên trên đối tượng tính thuế và thuế suất.
- Mức thuế: là số thuế phải nộp cho ngân sách nhà nước căn cứ vào giá tính thuế và thuế suất.
4.5 Giá tính thuế :
là giá cả hàng hoá , dịch vụ ,tài sản, súc vật ... làm căn cứ tính thuế .
Ví dụ: Giá tính thuế của một chiếc máy giặt LG -Sel là giá bán của cửa hàng hay giá mua của khách hàng .
4.6 Chế độ miễn, giảm thuế :
Là số thuế được qui định phải huy động vào ngân sách nhà nước cho phép để lại cho người nộp toàn bộ hay một phần để sử dụng trong một thời gian nhất định nhằm tạo điều kiện thuận lợi hay khuyến khích phát triển kinh tế .
4.7 Thủ tục nộp thuế:
Bao gồm những qui định về trách nhiệm và cách thức nộp thuế của đối tượng nộp thuế trước cơ quan hữu quan. Thủ tục nộp thuế là căn cứ pháp lý để thực hiện nộp thuế đúng, đủ ,kịp thời.
4.8 Xử lý các trường hợp vi phạm :
Tuỳ theo mức độ nặng nhẹ về việc vi phạm các qui định của luật thuế ban hành mà bị cảnh cáo, phạt tiền hay bị truy tố trước pháp luật
5-Vai trò của thuế nhà nước :
5.1 Thuế là công cụ tạo lập lên nguồn thu chủ yếu cho ngân sách nhà nước, vì:
-Thuế là một khoản đóng góp mang tính chất pháp lệnh của Nhà nước đối với các tổ chức , cá nhân trong xã hội.
-Thuế là một khoản thu mang tính tương đối ổn định.
-Thuế không hoàn trả trực tiếp cho người nộp mà thông qua quá trình thưc hiện các chức năng của mình.
- Hình thưc thu thuế bao quát hết được các hoạt động sản xuất kinh doanh, các nguồn thu nhập là mọi tiêu dùng trong xã hội.
- Thuế đảm bảo được tính tự chủ trong cân đối ngân sách .
- Việc thu thuế thể hiện một nền tài chính quốc gia lành mạnh.
5.2 Thuế là công cụ quản lý, điều tiết vĩ mô nền kinh tế của nhà nước
Thuế tác dụng trực tiếp đến giá cả và thu nhập. Một phần thu nhập của người tiêu dùng là khoản đóng thuế. Đồng thời,thuế cũng là một trong những biện pháp chế ngự lạm phát. Vì vậy ,dựa vào công cụ thuế mà Nhà Nước có thể thúc đẩy hoặc hạn chế việc tích luỹ và đầu tư ,khuyến khích kinh tế phát triển công bằng, lành mạnh.
5.3 Thuế là công cụ góp phần điều hòa thu nhập và thực hiện bình đẳng cân bằng xã hội
Nền kinh tế hàng hoá thị trường sẽ tạo ra hai thái cực đối lậo nhau đó là: Giàu -Nghèo nếu không có sự can thiệp của Nhà nước để phân phối thu nhập trong xã hội.Trên thực tế, sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia đều do những đóng góp nỗ lực của toàn dân,của mỗi thành viên trong xã hội. Vì vậy để có được sự công bằng thì tất cả mọi người đều được hưởng thành quả của sự phát triển kinh tế đó. Do đó, sự can thiệp của Nhà nước trong việc phân phối lại thu nhập - thông qua công đặc biệt là thuế là hết sức quan trọng ,góp phần tạo sự công bằng và bình đẳng xã hội .
II. Thuế giá trị gia tăng ( gtgt)
1.Khái niệm "giá trị gia tăng" và thuế giá trị gia tăng:
1.1 Lịch sử ra đời của thuế GTGT
Thuế GTGT có nguồn gốc từ thuế doanh thu. Từ sau đại chiến thế giới lần thứ nhất ( 1914-1918), thuế doanh thu đã dược nghiên cứu ,áp dụng nhằm động viên sự đóng góp rộng rai của quảng đại quần chúng nhân dân cho nhu cầu chi tiêu của nhà nước, để nhanh chóng hàn gắn vết thương chiến tranh. Thuế doanh thu được áp dụng ở Pháp từ năm 1917. Thời kỳ đầu ,thuế doanh thu chỉ đánh ở giai đoạn cuối cùng của quá trình lưu thông hàng hoá với thuế suất thấp.Đầu năm 1920 ,thuế doanh thu được diều chỉnh,đánh vào từng khâu của quá trình sản xuất. Qua thực tế, cách đánh thuế này đã bộc lộ rõ nhược điểmđó là thuế tính chồng chéo, trùng lặp.
Qua nhiều lần sửa đổi, bổ sung, thuế doanh thu vẫn tồn tại những nhược điểm trên. Để đã ban hành loại thuế mới có tên gọi: "Taxe Sur La Valeur ajoutéa ( viết tắt là TVA ), theo tiêng anh là: "Value Added Tax" (viết tắt là VAT), theo tiếng việt là "thuế giá trị gia tăng". Đến năm 1966, trong xu hướng cải thiện hệ thống thuế "đơn giản, hiện đại" nói chung ở Châu Âu, TVA được ban hành chính thức để thay thế một số sắc thuế gián thu. Năm 1986, TVA được áp dụng rộng rãi đối với tất cả các ngành nghề sản xuất, lưu thông hàng hoá, dịch vụ, nhằm đáp ứng hai mục tiêu quan trọng: bảo đảm số thu kịp thời, thường xuyên cho ngân sách nhà nước, và khắc phục thu thuế trùng lặp của thuế doanh thu.
ở thời điểm này, thuế GTGT đã nhanh chóng được áp dụng rộng rãi trên thế giới, có khoảng 130/210 quốc gia áp dụng thuế GTGT và trở thành nguồn thu quan trọng cho nhiều nước .
ở miền Nam Việt Nam trước 1975 chính quyền Sài Gòn cũng đã ban hành luật thuế GTGT trùng với thơì điểm cải cach thuế năm 1972. Ngày 05/07/1993, được chính phủ cho phép, Bộ Tài Chính đã có quyết định số 486TC/QĐ/TCT ban hành thuế giá trị gia tăng để thực hiện thí điểm như: công ty dệt Hà Đông, công ty dệt kim Đông Xuân, nhà máy dệt Đông á, nhà máy đường Biên Hoà, nhà máy xi măng Bỉm Sơn,...
Tuy nhiên, việc thực hiện thí điểm đã không mang lại kết quả do hoạt động sản xuất kimh doanh của các doanh nghiệp trong xã hội có mối quan hệ chặt chẽ lẫn nhau, từ quá trình cung cấp nguyên vật liệu đến quá trình tiêu thụ sản phẩm. Vì vậy, VAT không thể thực hiện riêng rẽ ở một số khâu hay một số doanh nghiệp.
Để góp phần hoàn thiện hệ thống chính sách thuế sao cho phù hợp với sự vận động và phát triển của nền kinh tế thị trường, tạo điều kiện mở rộng hợp tác với các nước trong khu vực và thế giới, đồng thời để phù hợp với xu thế cải cách thuế ở các nước trên thế giới. Tại kỳ họp thứ 11, Quốc hội khoá IX, từ ngày 02/04 đến ngày 10/05/1997 đã thông qua luật thuế GTGT và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/1999 thay thế cho luật thuế doanh thu.
Chính phủ có Nghị định 79/2000/NĐ-CP ngày 29/12/2000 hướng dẫn chi tiết thi hành luật thuế GTGT. Nghị định này ban hành thay thế các Nghị định hướng dẫn về thuế GTGT của Chính phủ đã ban hành trước đây.
Bộ Tài Chính đã ban hành Thông tư số 122/2000/TT-BTC ngày 29/12/2000 hướng dẫn nghị định số 79/2000/NĐ-CP ngày 29/12/2000 của Chính phủ. Thông tư này thay thế các Thông tư hướng dẫn về thuế GTGT đã ban hành trước đây.
Để thấy rõ ưu điểm của việc thay thế luật thuế doanh thu bằng luật thuế GTGT ta hãy xét những điểm giống nhau và khác nhau của hai luật thuế này.
1.1.1 Những điểm giống nhau:
- Thuế GTGT và thuế doanh thu là thuế gián thu đánh vào người tiêu dùng hàng hoá được cung ứng dịch vụ, thuế này do người sản xuất - kinh doanh, dịch vụ nộp cho nhà nước, nhưng thực chất người tiêu dùng là người chịu thuế. Nhà doanh nghiệp đóng vai trò là người chịu thuế. Nhà doanh nghiệp đóng vai trò là người thu hộ thuế cho nhà nước, họ đã cộng số thuế gián thu phải nộp vào giá bán sản phẩm hoặc giá dịch vụ để người tiêu dùng trả, nên họ phải nộp đầy đủ số thuế thu hộ này vào ngân sách nhà nước.
- Thuế gián thu bảo đảm cho mọi người có thể tự do lựa chọn hàng hoá ,quyết định tiêu dùng để chịu thuế cao hay thấp tuỳ thuộc vào túi tiền, sở thích của mình. Thuế tránh được mối quan hệ trực tiếp giữa người tiêu dùng là người chịu thuế với cơ quan thuế nên có phần dễ thu hơn thuế trực thu. Đồng thời ,dễ điều chỉnh mức thuế tăng lên vì thuế gián thu thường nằm ẩn trong giá cả hàng hoá, dịch vụ. Do vậy, phản ứng của người dân về thuế gián thu cũng ít gay gắt hơn thuế trực thu. Về mặt quản lý, thuế GTGT và thuế doanh thu không quan tâm đến các khoản chi phí hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ của nhà doanh nghiệp, nên chi phí quản lý có phần thấp hơn thuế trực thu .
1.1.2 Những điểm khác nhau:
- Thuế GTGT chỉ đánh vào giá trị tăng thêm của sản phẩm ở từng khâu sản xuất ,lưu thông. Nhưng thuế doanh thu lại đánh trên toàn bộ doanh thu của sản phẩm, qua mỗi lần chuyển dịch từ sản xuất đến lưu thông.
- Thuế GTGT có khấu trừ thuế ở các giai đoạn trước. Thuế doanh thu không khấu trừ thuế đã nộp ở giai đoạn trước.
- Tổng số thuế GTGT thu đối với từng sản phẩm không phụ thuộc sự tổ chức và phân chia các chu kỳ kinh tế. Sản phẩm hàng hoá càng trải qua nhiều công đoạn sản xuất, lưu thông thì tổng số thuế thu đối với từng sản phẩm từ khâu đầu đến khâu cuối cùng mà người tiêu dùng phải chịu càng cao.
- Thuế GTGT thường có ít thuế suất hơn thuế doanh thu nên có phần đơn giản, rõ ràng, dễ thực hiện hơn thuế doanh thu.
Qua hai năm thực hiện, luật thuế GTGT đã bộc lộ rõ những ưu điểm của mình. Về cơ bản đã phát huy các mặt tích cực đối với đời sống kinh tế xã hội, góp phần khuyến khích đầu tư, ổn định sản xuất kinh doanh, góp phần khuyến khích xuất khẩu, bảo hộ sản xuất trong nước, nâng cao hạch toán kinh doanh của doanh nghiệp và trình độ quản lý của ngành thuế...
Cụ thể :
- Thuế GTGT khắc phục được việc thu trùng lắp của thuế doanh thu. Đối với hàng xuất khẩu không phải nộp thuế GTGT mà còn được khấu trừ hoặc hoàn trả lại số thuế GTGT đầu vào, tạo điều kiện để hạ giá bán, nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường Quốc tế, góp phần đẩy mạnh xuất khẩu.
- Hạn chế được việc thất thu thuế do thuế GTGT được thu tập trung ngay từ đầu mà thu thuế ở khâu sau còn kiểm tra được việc tính thuế, nộp thuế ở khâu trước, đảm bảo động viên số thu quan trọng và tương đối ổn định cho ngân sách nhà nước.
- Tăng cường công tác hạch toán kế toán và thúc đẩy việc mua bán hàng hoá có hoá đơn, chứng từ. Việc tính thuế ở đầu ra được khấu trừ số thuế đầu vào là biện pháp kinh tế góp phần thúc đẩy cả người mua và người bán thực hiện tốt chế độ hoá đơn, chứng từ.
- Góp phần hoàn hệ thống chính sách thuế ta với sự vận động và phát triển của nền kinh tế thị trường, tạo điều kiện mở rộng hợp tác kinh tế với các nước trong khu vực và thế giới. Việc Nhà nước ta quyết định thay luật thuế doanh thu bằng luật thuế GTGT là hoàn toàn phù hợp với xu thế cải cách thuế ở các nước trên thế giới.
1.2 Khái niệm GTGT:
Là khoản giá trị tăng thêm của hàng hoá, dịch vụ phát sinh trong quá trình từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng.
1.3 Khái niệm "Thuế GTGT" :
Thuế GTGT là loại thuế chỉ đánh vào tổng giá trị tăng thêm qua mỗi khâu của quá trình sản xuất - kinh doanh.
Tổng số thuế thu được ở mỗi khâu bằng chính số thuế tính trên giá bán cho người tiêu dùng cuối cùng.
1.4 Bản chất của thuế GTGT:
Thuế GTGT do nhà sản xuât - kinh doanh nộp hộ cho người tiêu dùng thông qua việc tính gộp thuế này vào giá bán mà người tiêu dùng phải thanh toán. Do vậy, thuế GTGT là một loại thuế gián thu.
1.5 Tác dụng của thuế GTGT:
- Thu đúng, thu đủ, kịp thời.
- Đảm bảo cân đối thu ngân sách nhà nước
2. Đối tượng nộp thuế và đối tượng tính thuế:
2.1 Đối tượng nộp thuế:
Theo quy định tại điều 3 Luật thuế GTGT và điều 3 Nghị định số 79/2000/NĐ - CP ngày 29/12/2000: Tất cả các tổ chức, cá nhân có hoạt động sản xuất - kinh doanh hàng hoá, dịch vụ chiụ thuế (Gọi chung là cơ sở kinh doanh) và tổ chức cá nhân khác có nhập khẩu hàng hoá chịu thuế (Gọi chung là người nhập khẩu) đều là đối tượng nộp thuế GTGT.
Cụ thể:
2.1.1 Doanh nghiệp Nhà Nước.
2.1.2 Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tham gia hợp tác kinh doanh theo luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
2.1.3 Doanh nghiệp tư nhân, công ty TNHH, công ty cổ phần thành lập và hoạt động theo luật pháp Việt Nam.
2.1.4 Công ty nước ngoài và tổ chức nước ngoài hoạt động kinh doanh trên lãnh thổ Việt Nam không theo luật đầu tư nước ngoài vào Việt Nam.
2.1.5 Các tổ chức kinh tế của tổ chức xã hội, tổ chức xã hội chính trị của đơn vị sự nghiệp...
2.1.6 Những ngưòi kinh doanh độc lập, hộ gia đình các cá nhân hợp tác kinh doanh ...nhưng không hình pháp nhân kinh doanh.
2.2 Đối tượng tính thuế (chịu thuế):
Theo quy định tại điều 2 Luật thuế GTGT và điều 2 Nghị định số 79/2000/NĐ - CP ngày 29/12/2000: Tất cả các hàng hoá, dịch vụ dùng cho sản xuất - kinh doanh và mgười tiêu dùng ở Việt Nam là đối tượng chịu thuế GTGT, loại trừ 26 loại hàng hoá, dịch vụ không thuộc diện chịu thuế GTGT được quy định tại điều 4 của luật này.
3. Căn cứ tính thuế GTGT:
Theo điều 6 luật thuế G TGT thì căn cứ tính thuế GTGT là giá tính thuế và thuế suất
3.1 Giá tính thuế:
3.1.1 Khái niệm:
Giá tính thuế là một căn cứ quan trọng để xác định số thuế GTGT khác phải nộp, giá tính thuế GTGT là giá bán chưa có thuế GTGT được ghi trên hoá đơn bán hàng của người bán hàng, người cung cấp dịch hoặc người nhập khẩu.
3.1.2 Cách xác định giá tính thuế GTGT của hàng hoá dịch vụ:
Theo quy định tại điều 7 luật thuế GTGT và điều 6 nghị định số 79/2000/NĐ - CP ngày 29/12/2000, giá tính thuế GTGT của hàng hoá, dịch vụ được tính như sau:
Đối với hàng hoá, dịch vụ do c