Công ty Rượu Hà Nội có tên viết tắt là HaLiCo. Hiện nay Công Ty có 662 cán bộ công nhân viên chức. Tổ chức của Công Ty gồm:
Ban Giám Đốc
Tổ chuyên viên, trợ giúp Giám Đốc từng phần việc như: công tác cải tiến dây chuyền công nghệ, công tác cổ phần hoá, công tác chuẩn bị di chuyển Công Ty ra ngoại thành theo yêu cầu của UBND thành phố Hà Nội.
Văn phòng Công Ty
Phòng thị trường
37 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1578 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Báo cáo Tình hình thực tập tại công ty rượu Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MụC ĐíCH của đợt thực tập
Thực tập là một hình thức học tập bổ ích và hiệu quả, giúp chúng em có những kiến thức thực tế, làm quen với nhà máy thực phẩm, cơ cấu vận hành của nhà máy từ đó cho cái nhìn khái quát về dây chuyền công nghệ. Từ đó xem xét máy móc, nắm được nguyên lý hoạt động của các thiết bị trong dây chuyền mà chúng em đã được học. Rèn luyện bản thân, tham gia lao động đồng thời cho chúng em hiểu chính xác hơn công việc sau này của mình và của nhuđượững người kĩ sư sinh học nói chung.
Phần: CôNG ty rươu hà nội
Chương I
Cơ cấu tổ chức quản lý của công ty rượu hà nội
Công ty Rượu Hà Nội có tên viết tắt là HaLiCo. Hiện nay Công Ty có 662 cán bộ công nhân viên chức. Tổ chức của Công Ty gồm:
Ban Giám Đốc
Tổ chuyên viên, trợ giúp Giám Đốc từng phần việc như: công tác cải tiến dây chuyền công nghệ, công tác cổ phần hoá, công tác chuẩn bị di chuyển Công Ty ra ngoại thành theo yêu cầu của UBND thành phố Hà Nội.
Văn phòng Công Ty
Phòng thị trường
Phòng kế hoạch vật tư
Phòng kỹ thuật công nghệ và kiểm tra chất lượng sản phẩm
Phòng kỹ thuật cơ điện và nghiên cứu phát triển
Phòng kế toán tài chính
Chi nhánh tại thành phố Hồ Chí Minh
Xí Nghiệp Rượu Mùi: là xí nghiệp sản xuất rượu pha chế từ nguyên liệu cồn và các loại hương liệu chiết xuất từ hoa quả.
1.Tổ quản lý
2.Tổ pha chế
3. Tổ cơ khí
4. Tổ máy rửa
5. Tổ đóng chai
6. Tổ chọn rượu
7. Tổ dán nhãn
8. Tổ bao bì
9. Tổ đai két
10. Tổ vận chuyển
11. Tổ cắt nhãn
12. Tổ rượu nước
Trong đó tổ pha chế và tổ chọn rượu là 2 tổ kỹ thuật cần công nhân lành nghề.
Xí Nghiệp Rượu Trắng(Cồn): là xí nghiệp sản xuất cồn từ nguyên liệu tinh bột.
1. Tổ quản lý
2.Tổ vận hành lò dầu
3. Tổ nấu tinh bột
4. Tổ đường hoá, gây men giống và lên men
5. Tổ chưng cất
6. Tổ vận chuyển
7. Tổ phân tích
8. Tổ vận hành máy nén, máy bơm
Xí Nghiệp Cơ Điện: phục vụ sản xuất, thực hiện các công việc sửa chữa lớn trung đại tu máy móc, thiết bị, nhà xưởng theo định kỳ và đột xuất.
Xí Nghiệp Tổng Hợp sản xuất rượu vang, champage sản xuất bao bì.
Phòng bảo vệ
Tổ chưng cất
Văn phòng
XNSX-Rượu
Cồn
Phân xưởng dịch hoá và đường hoá
Phòng sinh khối nấm men
Phòng lên men
Bể chứa giấm
chín
Phòng kiểm tra chất lượng
Tổ chưng cất hương liệu ở XNSX rượu mùi
Tổ pha,tàng trữ ở XNSX rượu mùi
Tổ lọc và thành phẩm
Văn phòng PGĐ,và phòng kế toán tài vụ
Các quầy căngtin của nhà máy
Nhà kho chứa nguyên liệu và xay xát
Phòng hoà trộn nguyên liệu trước khi đem dịch hoá
Phòng chứa các bình khí CO2
Khu vực khai thác nước ngầm cho sản xuất
Xưởng cơ khí
Xưởng Lò hơi
Hội trường
Hệ thống lọc nước trước khi cho vào lò hơi
Kho chứa rác và ,phế phẩm chai lọ bao bì
Bể chứa dầu để đốt ỏ lò hơi
Phố Nguyễn Công Trứ
Nhà che cho các xe vận chuyển
Sơ đồ tổng mặt bằng nhà máy rượu hànội
Nhà đựng vỏ chai và thành phẩm rượu mùi
chương ii: quy trình công nghệ sản xuất rượu tại công ty rượu Hà Nội
A. Quy trình công nghệ sản xuất cồn
Cồn là rượu trắng có nồng độ cao được sản xuất từ nguyên liệu tinh bột
Quy trình công nghệ sản xuất cồn êtylic bao gồm các giai đoạn chính sau:
Nấu nguyên liệu
Đường hoá dịch cháo
Gây men giống và lên men
Chưng cất
Sơ đồ dây chuyền công nghệ sản xuất cồn (hình 1)
Nghiền nguyên liệu chuẩn bị cho quá trình đường hoá
Giai đoạn dịch hoá và đường hoá
Giai đoạn lên men,và ta thu được dịch giấm chín
Công đoạn chưng cất và tinh luyện ta thu được cồn thực phẩm
Nguyên liệu (bột sắn) được hoà trộn trước trong nồi hoà bột theo tỷ lệ 1 bột: 4 nước . Khi nguyên liệu được hoà trộn kỹ thì ta dùng bơm bơm lên nồi nấu và dùng hơi để nấu, sau khoảng 2.5h đến 3.5h thì chuyển sang nồi đường hoá.
Sau khi đường hoá xong ta chuyển sang lên men, thời gian lên men khoảng 80h đến 100h. Khi đã lên men đạt yêu cầu thì chuyển sang chưng cất và cuối cùng là chuyển cồn về kho cồn.
Trong các giai đoạn của quy trình sản xuất đều sử dụng hơi. Hơi được cung cấp từ lò cung cấp hơi.
I. lò cung cấp hơi
Công Ty Rượu Hà Nội có 2 lò cung cấp hơi. Đó là lò hơi SEOM đốt dầu FO được thiết kế như sau:
Công suất: 10 tấn/h
+ áp suất thiết kế: 10kg/cm3
+ áp suất làm việc: 07kg/m3
+ Năm chế tạo: 1979
Nơi chế tạo: Pháp
+ Loại lò hơi: đốt dầu FO, ống lò, ống lửa đặt nằm ngang
I.1. Cấu tạo lò hơi
1
2
3
4
Lò hơi gồm các bộ phận chính sau:
1. Mặt sàng
2. ống lò
3. ống lửa
4. thân lò
ống lò dài 6,2m có đường kính f = 1000mm, chiều dầy 16mm, ống lửa có 172 ống, đường kính ống f70 x 4 mm, chiều dài 6,2m. Thân lò hình trụ, dài 6,2 m, dầy 20mm. Hai mặt sàng có chiều dày 34,5mm. Trên lò có cửa để mồi lửa, có các hệ thống tự động: hệ thống tự động cấp nước-đèn báo hết nước: đèn đỏ, xanh, vàng. Khi đèn đỏ sáng phải dừng lò ngay, đèn xanh hoạt động bình thường. Ngoài ra còn có hệ thống điều chỉnh dầu, gió và hệ thống điều chỉnh áp suất. Trên đỉnh lò có gắn ống lấy hơi và ống thoát khói dầu.
I.2. Sơ đồ, nguyên lý làm việc của hệ thống lò hơi
Sơ đồ hệ thống lò hơi ( hình 2)
Nguyên lý làm việc hệ thống lò hơi
Đường khói
Dầu FO sau khi từ bể chứa dầu, bể chứa có thể tích 90m3 đến 120m3, được lọc cặn qua lưới lọc. Dầu sạch được đưa vào bơm cao áp và đi qua hệ thống gia nhiệt lên 40°C để thuận lợi cho việc chảy vào đường ống đều được cung cấp tới bộ đầu đốt của lò. Khi dầu đủ điều kiện hoạt động (nhiệt độ 70°C á 85°C ) thì dầu được phun vào buồng đốt gặp lửa bốc cháy. Ngọn lửa và khói nóng được đốt cháy ở trong buồng đốt, sau đó khói nóng đi suốt chiều dài ống lò tới hộp lửa phía sau phân bố vào các ống lửa và đi về phía trước lò và tới ống khói ra ngoài trời. Trong các quãng đường đi, khói nóng là nguồn cung cấp nhiệt cho nước trong lò hơi để sinh ra hơi nước cung cấp cho các nơi sử dụng để sản xuất rượu.
+Đường nước
Nước từ bể, đi qua hệ thống bơm cấp nước ở phía dưới và được đưa vào trong bụng lò. Trước khi nước đưa vào lò phải xử lý độ cứng để giảm iôn
Ca2+, Mg2+ mục đích tránh hiện tượng làm cặn đường ống. Cách xử lý như sau: nước thành phố được bơm lên và đi qua bể lọc thô chứa các hạt cát, sỏi. Sau đó nước được đi qua bể lọc tinh chứa các hạt nhựa và lấy mẫu nước đi phân tích, nếu đạt yêu cầu thì được đưa lên bể chứa, bể chứa có thể tích 12m3. Nước khi xử lý phải đảm bảo Ê độ cứng 0,5mgĐL/lít, nếu vượt quá thì phải hoàn nguyên. Sau một thời gian sử dụng thì phải rửa hạt nhựa bằng cách cho muối vào bể ngâm muối, cho nước vào, ngâm cho muối tan hết rồi bơm vào bình lọc tinh, ngâm trong khoảng 2h á 4h, sau đó rửa lại một lần nữa bằng nước sạch. Còn bể lọc thô thì rửa bằng nước thường đến khi thấy nước rửa trong là được. Tại các bề mặt trao đổi nhiệt trong lò, nước được đun sôi và chuyển hoá thành hơi, hơi qua các hệ thống ống dẫn hơi đến nơi sử dụng.
Trong quá trình hoạt động, một phần nước phải được xả đáy để loại bỏ một phần cặn trong lò.
Việc cung cấp hơi tuỳ thuộc vào yêu cầu sản xuất. Mùa đông thì nhu cầu hơi từ 7 á 8 tấn/h, mùa hè lượng hơi cần cung cấp 5 á 6 tấn hơi/h. Lượng dầu tiêu thụ cũng phụ thuộc lượng hơi cần cung cấp, thông thường 1 ca sản xuất 8h thì cần 36 á 40m3 nước và khoảng 3 tấn dầu.+
ii. nguyên liệu
Chất lượng của nguyên liệu cũng là yếu tố quan trọng quyết định hiệu suất và chất lượng rượu.Vì vậy, nguyên liệu phải thoả mãn các yêu cầu sau:
Hàm lượng đường hoặc tinh bột cao, có khả năng đem lại hiệu quả kinh tế cao
Vùng nguyên liệu phải tập trung và thoả mãn nhu cầu sản xuất
Nguyên liệu chủ yếu của Nhà máy là bột sắn và một phần gạo. Bột sắn được làm bằng cách: sắn tươi được thái lát, rồi đem phơi khô và cuối cùng là nghiền thành bột mịn. Mục đích nghiền thành bột nhằm phá vỡ cấu trúc màng tế bào, tạo điều kiện giải phóng các hạt tinh bột khỏi các mô. Bột sắn và gạo sau khi thuỷ phân sẽ chuyển thành đường lên men được.
Thành phần hoá học (%) của sắn khô bao gồm:
Nước : 14
Gluxit : 67,6
Prôtít : 1,75
Chất tro : 17,9
Chất béo : 0,87
Xenlulôza : 3,38
III. nấu nguyên liệu
Khi nghiền nguyên liệu thành bột thì chỉ một phần các màng đó bị phá vỡ, phần lớn màng tế bào còn lại sẽ ngăn cản sự tiếp xúc của enzyme amylaza với tinh bột. Mặt khác ở trạng thái không hoà tan, enzyme amylaza tác dụng lên tinh bột rất chậm và kém hiệu quả. Mục đích chủ yếu của nấu nguyên liệu là nhằm phá vỡ màng tế bào của tinh bột, tạo điều kiện biến chúng thành trạng thái hoà tan trong dung dịch. Quá trình nấu có thể kết hợp với enzyme để phá vỡ thành tế bào.
III.1. Sơ đồ thiết bị và thao tác khi nấu
III.1.1.Sơ đồ, thiết bị nấu nguyên liệu
Cấu tạo nồi nấu
Thoát hơi thừa
5
1.nồi nấu
3
1
2.vỏ cách nhiệt
2
3.cánh khuấy thẳng
8
Hơi vào
4.cánh khuấy chân vịt
6
4
5.van cho dịch vào 7
6.nhiệt kế
7.van xả đáy
8.van thử mẫu
7
Nồi nấu có thể tích V=20m3, đường kính D=3m, chiều cao H=4,2m
Nồi nấu hình trụ, đáy côn, có 2 tầng cánh khuấy: cánh khuấy thẳng ở phía trên, cánh khuấy chân vịt ở phía dưới. Bên ngoài nồi có lớp vỏ cách nhiệt, ở giữa 2 lớp vỏ là lớp thuỷ tinh cách nhiệt. Nồi được làm bằng inox và dùng hơi nước để nấu.
III.1.2. Thao tác khi nấu
Tiến hành nấu theo phương pháp gián đoạn. Đặc điểm của phương pháp này là toàn bộ quá trình nấu được tiến hành trong cùng một nồi và dùng hơi để nấu.
Ưu điểm: tốn ít vật liệu để chế tạo thiết bị, thao tác đơn giản.
Nhược điểm: tốn hơi vì không sử dụng hơi thứ, nấu lâu ở áp suất và nhiệt độ cao nên gây tổn thất nhiều đường.
Trước khi nấu, tiến hành hoà bột ở nồi hoà bột, nồi hoà bột đặt chìm dưới đất và theo nguyên tắc:
Phải kiểm tra toàn bộ thiết bị, động cơ, lưới chắn, rác, bơm, khi an toàn và sạch mới vận hành nồi hoà bột.
Lấy nước ( nước thành phố ) vào nồi với tỷ lệ 1bột : 4nước. Khi lấy đủ nước mới cho bột vào nồi đồng thời chạy cánh khuấy và vận hành hút bụi
Khi bột hoà hết với nước tiến hành đưa lên nồi nấu
Sau mỗi ca phải vệ sinh nồi sạch sẽ
Sau khi hoà bột xong dùng bơm ly tâm bơm lên nồi nấu. Nguyên tắc vận hành nồi nấu:
Trước khi vận hành phải kiểm tra an toàn hệ thống bơm, van xả nguyên liệu, hơi, động cơ.
Trước khi bơm nguyên liệu mở hơi nhẹ trước 5 phút và mở nắp nồi
Bơm nguyên liệu vào nồi, đồng thời chạy cánh khuấy, cho dịch enzyme Termamyl nhằm mục đích phá vỡ màng tế bào của tinh bột. Và tạo điều kiện biến tinh bột thành trạng thái hoà tan trong nước. Tỷ lệ 610ml Termamyl trên một nồi nấu 2800kg bột sắn. Khi bơm phải đóng van xả nguyên liệu
xả hơi nóng từ từ để không rung động mạnh, tăng nhanh nhiệt độ lên 50oC á 60oC để rút ngắn thời gian hoạt động của enzyme Termamyl. Sau 2h thì đạt 90oC, đóng om 30 phút
Tiếp tục nâng nhiệt độ từ 90oC lên 100oC. Duy trì nhiệt độ 100oC trong 30 phút để cháo chín và sát trùng, duy trì bằng cách mở hé van hơi, mở hé van hơi còn có tác dụng tránh cháo tràn ra ngoài
Lấy mẫu đi kiểm tra, nếu đạt độ chín thì xả xuống nồi đường hoá ( thời gian chuyển khoảng 10 á 15 phút ). Nếu chưa chín thì tiếp tục nấu tiếp
Cách xác định tinh bột chín: dùng dung dịch chuẩn iôt, hàm lương tinh bột chín (g/l) sẽ tương đương với số gam iôt chuẩn, hoặc có thể dùng cảm quan nếu cháo chín sẽ có mùi thơm nhẹ, màu vàng rơm hoặc cánh gián.
Luôn luôn có người theo dõi
Sau mỗi chu kỳ nấu phải có người vệ sinh nồi sạch sẽ. Khi có người chui vào phải có người ở ngoài cảnh giới và dùng đèn 36V
Luôn mở nắp nồi trong quá trình nấu
Trong quá trình nấu phải có ống thoát hơi thừa ( không khí và khí không ngưng )
iv. đường hoá dịch cháo
Khi nấu xong, tinh bột trong dịch cháo đã chuyển sang trạng thái hoà tan nhưng chưa thể lên men trực tiếp để biến thành rượu, mà phải trải qua quá trình thuỷ phân do xúc tác của amylaza - chế phẩm enzyme có hoạt lực cao để biến thành đường. Quá trình đường hoá đóng vai trò quan trọng trong sản xuất cồn etylic. Quá trình này quyết định hiệu suất thu hồi rượu do giảm bớt hoặc gia tăng đường và tinh bột sót sau khi lên men.
IV.1. Vai trò, chức năng tác dụng của hệ amylaza trong quá trình thuỷ phân tinh bột.
Khi tham gia quá trình thuỷ phân tinh bột, enzyme có vai trò phân cắt nối glucozit trong phân tử amyloza và amylopectin và đính vào đó một phân tử nước. Enyme amylaza có 3 loại:
ã a-amylaza chỉ tác dụng lên nối a-1,4 glucozit ở vị trí bất kỳ nhưng tập trung vào giữa mạch amyloza và amylopectin. Do làm giảm nhanh độ nhớt nên a-amylaza được gọi là enzyme dịch hoá. Sản phẩm là các dextrin, đường maltoza và một ít glucoza.
ã b-amylaza, phân cách nối a-1,4 glucozit nhưng bắt đầu từ vòng không có nhóm khử và cắt theo hai gốc glucoza một trong phân tử amyloza và amylopectin. Sản phẩm tạo thành là đường maltoza, gọi là enzyme đường hoá. Cả hai enzyme trên đều không cắt được nối a-1,6 glucozit.
ã g-amylaza phân cắt được cả nối a-1,6 glucozit và biến 100% tinh bột thành đường glucoza.
IV.2. Sự biến đổi của các chất khác trong quá trình đường hoá
Khi đường hoá ngoài biến đổi của tinh bột thành đường còn có xảy ra một số biến đổi của các chất khác. Có thể tạo ra axit pectic, alcol metylic, dextrin và đường pentoza, glucoza. Dextrin sau này sẽ biến thành maltoza và lên men được, còn pentoza không tham gia vào phản ứng tạo rượu.
IV. 3. Sơ đồ thiết bị và thao tác khi đường hoá
IV.3.1. Sơ đồ thiết bị
Cấu tạo nồi đường hoá
ống thoát hơi 1
2
3 3
4
5
8
6
Nồi đường hoá hình trụ, đáy côn, vỏ bằng thép không gỉ, được sơn chống gỉ ở bên ngoài có thể tích 20m3 đường kính 3m, chiều cao 4,2m. Bao gồm các bộ phận sau:
Van lấy dịch cháo
Thân nồi
Khuấy chân vịt
ống ruột gà làm mát
Van thử mẫu
Van lấy dịch đường
Van lấy hơi để sát trùng
Đường tháo nước làm lạnh
Máng gom nước làm lạnh
Bên ngoài nồi còn có ống làm mát khi nấu nhiều, và có đường thải nước làm mát đi. Cánh khuấy giúp quá trình làm lạnh được nhanh.
IV.3.2. Thao tác đường hoá
Đường hoá theo phương pháp gián đoạn: toàn bộ quá trình nấu được thực hiện trong một nồi. Các bước tiến hành như sau:
• Trước khi vận hành phải kiểm tra an toàn nồi, động cơ, bơm, các van chặn nồi, nước dội. Khi an toàn sạch sẽ mới được vận hành.
• Vệ sinh nồi đường hoá. Dùng nước tia sạch môi trường còn lại trên thành thùng và ống ruột gà. Mở van đáy để đưa nước vệ sinh xuống cống. Xả hết, đóng van đáy.
• Khi cần thiết vào thùng, yêu cầu thực hiện đúng quy trình an toàn lao động đã học, phải có người cảnh giới ở ngoài dùng đèn 36V.
• Sát trùng thùng: mở van hơi sát trùng khoảng 15phút. Chỉ mở hơi vừa phải, khi thấy hơi bay nhẹ ra khỏi ống thoát hơi là được.
• Xả môi trường từ nồi nấu xuống đồng thời chạy cánh khuấy. Khi môi trường xuống hết, đo thể tích, nhiệt độ và ghi sổ, sau đó mở nước dội nguội.
• Hạ nhiệt độ môi trường xuống 55oC ± 1oC, cho SanSuper và thuốc sát trùng theo tỷ lệ đã quy định: 130ml SanSuper/1000kg tinh bột, thuốc sát trùng tỷ lệ 2/1000. Giữ nhiệt độ môi trường ở 30 phút.
• Lấy mẫu kiểm tra độ đường lần 1: nồng độ đường khoảng 50 á 60 g/l là được.
• Mở nước dội nguội xuống 36oC á 37oC.
• Lấy mẫu xác định độ đường lần 2: nồng độ khoảng 90 á 100 g/l là được, đồng thời kiểm tra môi trường qua kính.
• Mở van đáy, cho dịch bơm sang thùng lên men. Trước khi bơm phải kiểm tra độ đường chuyển hoá, lượng tinh bột sót, van, thiết bị an toàn.
• Khi ngừng sản xuất phải vệ sinh sạch sẽ trong và ngoài thùng đường hoá.
• Xác định hàm lượng đường chuyển hoá ( mg ) dựa vào số mg Cu: lấy cụ thể số ml dịch đường hoá, sau đó cho số mg Cu vào. Dựa vào số mg Cu tiêu tốn sẽ xác định được số mg đường chuyển hoá (tra bảng)
V. lên men dịch đường
Đường hoá xong, dịch đương được làm lạnh tới nhiệt độ lên men và bơm vào thùng lên men. Tại thùng lên men dưới tác dụng của nấm men, đường sẽ biến thành rượu và khí cacbonic cùng với nhiều sản phẩm trung gian khác. Lên men xong ta thu được hỗn hợp gồm rượu - nước - bã gọi là giấm chín.
V.1. Nấm men trong sản xuất cồn etylic
• Cấu tạo tế bào nấm men: gồm 2 phần chính vỏ tế bào và phần trong nội tế bào ( nhân tế bào có hình tròn, không bào là chỗ tạo ra các sản phẩm trung gian ). Tế bào nấm men có hình bầu dục hoặc ôvan và các hình thù khác
• Đặc điểm của nấm men: có khả năng nảy chồi và tách nhân ra làm hai, là chất xúc tác sinh học
• Thành phần dinh dưỡng của nấm men: thường bao gồm
Protit 35 á 50%, trung bình 40%
Gluxit 24 á 40%, trung bình 30%
Chất béo 2 á 5%, trung bình 4%
Chất khoáng 5 á 11%, trung bình 9%
• Nấm men dùng trong sản xuất cồn etylic là phải có năng lực lên men mạnh, biến đường thành rượu nhanh và hoàn toàn. Đồng thời phải ổn định và chịu được những biến đổi của canh trường. Thường là chủng saccaromyces, lên men trong sản xuất cồn là lên men nổi: trong giai đoạn lên men chính chúng tạo trên bề mặt một lớp bọt tương đối dày, trạng thái này được duy trì cho tới khi gần kết thúc. Sau đó nấm men sẽ lắng dần nhưng chậm và không tạo thành lớp men xít, bám chắc ở đáy thùng. Nấm men thuộc dạng hạt, ít liên kết nhau thành chuỗi như nấm men chìm.
V.2. Các yếu tố hoá lý học ảnh hưởng tới sinh trưởng, phát triển nấm men
+ ảnh hưởng của nhiệt độ: nấm men saccharomyces nhiệt độ tối ưu nằm trong giới hạn 28oC á 32oC. Nếu bắt đầu lên men ở nhiệt độ thấp thì khả năng lên men sẽ cao và kéo dài hơn. Trong quá trình lên men phải làm lạnh để đảm bảo nhiệt độ tối ưu. Nếu lên men ở nhiệt độ cao, hoạt tính của nấm men sẽ bị giảm nhanh nhưng chủ yếu là dễ bị nhiễm lactic và nấm men hoang dại, mặt khác còn tạo ra nhiều ester, aldehyt và tổn thất rượu theo CO2 sẽ tăng.
+ ảnh hưởng của pH: pH ảnh hưởng lớn đến hoạt động của nấm men. Chúng có khả năng làm thay đổi điện tích của vỏ tế bào, làm tăng hoặc giảm mức độ thẩm thấu các chất dinh dưỡng cũng như chiều hướng quá trình lên men. Dịch đường từ tinh bột sắn thường để ở pH = 4,8 á 5,2 nhằm kết hợp giữ cho amylaza tiếp tục chuyển hoá tinh bột và dextri thành đường lên men được. Nếu tăng pH thì dễ bị nhiễm khuẩn, tạo nhiều glyxerin và giảm hiệu suất lên men. Trong một dung dịch, khi pH gần như ổn định còn độ chua lại thay đổi nhiều phụ thuộc vào mức độ nhiễm khuẩn của nguyên liệu và dịch lên men. Vì vậy độ chua cũng ảnh hưởng đến lên men.
+ ảnh hưởng của nồng độ dịch lên men: nồng độ dịch đường quá cao sẽ dẫn đến làm tăng áp suất và làm mất cân bằng trạng thái sinh lý của nấm men. Dẫn đến rươụ nhiều sẽ ức chế cả tạp phẩm và nấm men. Khi đường nhiều sẽ dẫn đến tổn thất hoặc kéo dài thời gian lên men. Ngược lại nếu nồng độ dịch đường thấp sẽ không kinh tế vì sẽ làm giảm năng suất thiết bị lên men, mặt khác sẽ tốn hơi khi chưng cất và tăng tổn thất rượu trong bã rượu và nước thải.
+ ảnh hưởng của một số hoá chất và chất sát trùng: phải đảm bảo được hạn chế sự phát triển của tạp khuẩn và không làm ảnh hưởng xấu tới hoạt động của nấm men. Ngoài ra còn có furfurol, melanoidin có trong dịch đường làm ảnh hưởng đến sinh sản của nấm men.
+ ảnh hưởng của sục khí: sục khí vừa đủ để hoà tan ôxy vào dịch đường sẽ giúp cho nấm men phát triển nhanh hơn. Nhưng với nguyên liệu từ tinh bột thì khi sục khí sẽ làm tăng lượng rượu bay hơi. Mặt khác khi sục khí dư sẽ dẫn đến tạo nhiều sinh khối và aldehyt, do đó làm giảm hiệu suất lên men.
+ ảnh hưởng của nguồn nitơ bổ sung: vì lượng nitơ trong dịch đường hoá từ nguyên liệu sắn không đảm bảo cho phát triển của nấm men. Bổ sung thêm nitơ cho phép giảm bớt được thời gian lên men, đồng thời lên men tốt và đạt hiệu quả cao.
V.3. Sơ đồ thiết bị và thao tác gây men, lên men
V.3.1: Sơ đồ thiết bị
1
2
8
9
1.van lấy dịch gây men
5
3
2.ống ruột gà làm mát
4
3.thùng gây men 1 m3
4.van xả đáy
5.van hơi khử trùng
6
6.thùng gây men 6 m3
7.thùng lên men 60 m3
8.van lấy dịch đường
9.van sục khí
7
Thùng gây men và lên men hình trụ, đáy côn, được làm bằng tôn đen và có hệ thống ruột gà làm mát. Có nắp để quan sát quá trình sinh khối, lên men và để vệ sinh.
V.3.2. Thao tác gây men và lên men
Gây men: nấm men giống thường được chuẩn bị theo hai giai đoạn: giai đoạn trong phòng thí nghiệm tới 10 lít trong sản xuất, nhân giống tới số lượng đủ 10% thùng lên men.
Nhân giống trong phòng thí nghiệm: môi trường phải chứa đầy đủ chất dinh dưỡng và tiệt trùng.
Chuẩn bị môi trường: malt đại mạch đem nghiền nhỏ, cho nước vào với tỷ lệ 5:1, khuấy đều rồi tăng dần nhiệt độ tới 48 á 53oC, giữ 20 á 30 phút tạo điều kiện cho proteaza trong malt thuỷ phân protit thành axit amin. Tiếp đó tăng nhiệt độ lên 60 á 62oC và giữ 30 phút để amylaza b