Sau đại hội lần thứ 6 của Đảng, nền kinh tế nước ta chuyển sang cơ chế thị trường. Từ đó đến nay, nền kinh tế nước ta đã có nhiều khởi sắc quan trọng dưới sự tác động của nhiều chủ trương, chính sách kinh tế mới.
Trong xu thế ngày càng trở thành một chỉnh thể thống nhất của nền kinh tế thế giới, các quan hệ được mở rộng đa phương đa dạng dưới nhiều hình thức. Bên cạnh các quan hệ ngoại giao, đầu tư quốc tế thì thương mại quốc tế đặc biệt phát triển. Trong đó xuất khẩu lại được coi là hoạt động cơ bản của thương mại quốc tế.
Hoạt động xuất khẩu xuất hiện từ rất sớm, với những vai trò hết sức to lớn như tạo khả năng xâm nhập thị trường quốc tế, giải quyết công ăn việc trong nước, tạo nguồn thu ngoại tệ phục vụ hoạt động nhập khẩu, phát triển kinh tế đất nước. Do đó xuất khẩu phải được nghiên cứu cả về phương diện lý luận và thực tiễn một cách khách quan và khoa học. Đây cũng là vấn đề phức tạp đang đặt ra với tất cả các nhà quản lý, nhà khoa học và kinh doanh.
25 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1214 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Báo cáo Tổng hợp hoạt động của công ty xuất nhập khẩu tổng hợp i, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
báo cáo tổng hợp
hoạt động của công ty xuất nhập khẩu tổng hợp I
Sau đại hội lần thứ 6 của Đảng, nền kinh tế nước ta chuyển sang cơ chế thị trường. Từ đó đến nay, nền kinh tế nước ta đã có nhiều khởi sắc quan trọng dưới sự tác động của nhiều chủ trương, chính sách kinh tế mới.
Trong xu thế ngày càng trở thành một chỉnh thể thống nhất của nền kinh tế thế giới, các quan hệ được mở rộng đa phương đa dạng dưới nhiều hình thức. Bên cạnh các quan hệ ngoại giao, đầu tư quốc tế thì thương mại quốc tế đặc biệt phát triển. Trong đó xuất khẩu lại được coi là hoạt động cơ bản của thương mại quốc tế.
Hoạt động xuất khẩu xuất hiện từ rất sớm, với những vai trò hết sức to lớn như tạo khả năng xâm nhập thị trường quốc tế, giải quyết công ăn việc trong nước, tạo nguồn thu ngoại tệ phục vụ hoạt động nhập khẩu, phát triển kinh tế đất nước... Do đó xuất khẩu phải được nghiên cứu cả về phương diện lý luận và thực tiễn một cách khách quan và khoa học. Đây cũng là vấn đề phức tạp đang đặt ra với tất cả các nhà quản lý, nhà khoa học và kinh doanh.
Trong thời gian vừa qua em đã có những hiểu biết sơ lược về Công ty như sau:
I - lịch sử hình thành và cơ cấu tổ chức của Công ty XNK tổng hợp I.
1. Lịch sử hình thành
Đầu những năm 1980, Nhà nước ban hành nhiều chủ trương chính sách phát triển kinh tế, khuyến khích các ngành,các địa phương nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất nhập khẩu trên thị trường trong nước và quốc tế.Nền kinh tế đã có nhiều chuyển biến tích cực, tuy sản xuất trong nước mới chỉ đáp ứng được một phần nào nhu cầu thị trường,nhưng cũng đã có nhiều sản phẩm xuất khẩu vượt chỉ tiêu phải giao nộp kế hoạch, bên cạnh đó còn có sự xuất hiện nhu cầu xuất khẩu ngoài các nghị định thư trao đổi hàng clearing. Trong đó, việc mở rộng quyền xuất nhập khẩu cho các ngành, các địa phương, quyền được sử dụng số ngoại tệ thu được do xuất khẩu địa phương từ các tỉnh Trung Du miền núi đều dấy lên sôi nổi và rầm rộ. Thị trường bắt đầu có sự cạnh tranh trong kinh doanh hàng xuất nhập khẩu.
Bên cạnh những kết quả đạt được, thể hiện trong nhịp độ tăng kim ngạch lại phát sinh nhiều hiện tượng tranh mua, tranh bán ở cả thị trường trong và ngoài nước. Cụ thể như các cuộc “Chiến tranh con tôm”, “chiến tranh dược liệu”... đã bùng nổ gây ra hiện tượng cạnh tranh không lành mạnh, phá giá trị trường, dẫn đến nguy cơ mất thị trường. Công ty XNK tổng hợp ra đời trong hoàn cảnh đó, nhận nhiệm vụ trước Bộ, góp phần giải quyết mâu thuẫn này bằng các biện pháp kinh tế, thu hút các đầu mối đã bung ra nhằm tập trung về một mối.
Căn cứ vào nghị định số 231/CP ngày 21/06/1979 của Hội đồng Chính phủ quy định nghĩa vụ, quyền hạn, cơ cấu bộ máy của Bộ Ngoại Thương. Để phục vụ kịp thời việc xuất nhập khẩu vật tư, hàng hoá theo yêu cầu của ngành và địa phương.
Theo đề nghị của đồng chí Vụ trưởng Vụ tổ chức cán bộ.
Bộ trưởng Bộ Ngoại Thương đã quyết định thành lập công ty xuất nhập khẩu tổng hợp I.
Công ty này được chính thức thành lập từ ngày 15/12/1981 theo Quyết định số 1365/TCCB của Bộ Ngoại Thương, nhưng phải đến tháng 08/1982 mới thực tế đi vào hoạt động, với trụ sở chính đặt tại 46 Ngô Quyền - Hà Nội và lấy tên giao dịch là: GENERALEXIM - Hà Nội.
Công ty trực thuộc Bộ Thương Mại, hoạt động theo chế độ hạch toán, có tư cách pháp nhân, vốn và tài sản riêng tại Ngân hàng. Một điểm cũng cần nói tới là trong năm 1993 theo quyết định số 858/TCCN của Bộ Thương Mại đã quyết định hợp nhất Công ty phát triển sản xuất và xuất nhập khẩu vào Công ty XNK tổng hợp I, giúp tạo thêm cho Công ty những thế và lực mới hết sức to lớn.
2. Cơ cấu tổ chức bộ máy cán bộ của Công ty.
Bộ máy quản lý của Công ty được tổ chức theo mô hình trực tuyển chức năng, mô hình tổ chức bộ máy của Công ty được thể hiện trong sơ đồ dưới đây.
Sơ đồ số I:
Sơ đồ và kết cấu bộ máy tổ chức của Công ty XNK Tổng hợp I
Giám đốc
P. Giám đốc hành chính
P. Giám đốc kinh doanh
P. Giám đốc tài chính
khối
phục vụ
khối
kinh doanh
khối
quản lý
Phòng hành chính
Phòng kho vận
Các phòng nghiệp vụ XNK
Các liên doanh
Hệ thống cửa hàng
Hệ thống cơ sở SX
Các
chi nhánh
Phòng tổ chức
Phòng tổng hợp
Phòng kế toán tài vụ
Chức năng, nhiệm vụ chủ yếu của từng phòng ban và quyền quản lý của nó được cụ thể hoá như sau:
Ban Giám Đốc: lãnh đạo tình hình chung của Công ty, ra quyết định, ký duyệt các hợp đồng lớn, quản lý về các mặt hoạt động khác...
Khối các phòng quản lý và dịch vụ:
- Phòng tổ chức cán bộ:
+ Giúp Ban Giám đốc quản trị toàn bộ nhân lực của Công ty
+ Tham mưu cho Giám đốc về sắp xếp nhân lực cho phù hợp với cơ
cấu Công ty.
+ Quy hoạch cán bộ dài hạn và ngắn hạn
+ Đưa ra các chính sách chế độ về lao động, tiền lương
+ Tuyển dụng và điều tiết lao động phù hợp với mục tiêu kinh doanh.
- Phòng tổng hợp:
+ Xây dựng kế hoạch kinh doanh hàng năm và chiến lược kinh doanh
dài hạn.
+ Lập báo cáo hoạt động kinh doanh từng tháng, quý, năm trình
Giám đốc
+ Tổ chức công tác nghiên cứu thị trường, giao dịch đàm phán lựa
chọn khách hàng.
+ Kế hoạch chiến lược truyền thông, khuyến mại về Công ty.
- Phòng hành chính:
+ Phục vụ nhu cầu văn phòng phẩm của Công ty, tiếp khách và quản
lý toàn bộ tài sản của Công ty.
+ Kế hoạch sửa chữa lớn và sửa chữa thường xuyên.
- Phòng kế toán:
+ Giao kế hoạch tài chính cho các phòng ban.
+ Hạch toán đánh giá toàn bộ hoạt động kinh doanh của Công ty theo
kế hoạch (tháng, quý, năm)
+ Lo toàn bộ vốn phục vụ cho hoạt động của các phòng ban trong
Công ty.
+ Lập bảng cân đối tài sản, bản báo cáo tài chính cuối năm trình
Giám Đốc.
+ Quyết toán với cơ quan cấp trên (Bộ) và các cơ quan hữu quan về
tổ chức hoạt động, thu chi tài chính hàng năm.
- Phòng kho vận:
+ Giao nhận toàn bộ hàng hoá kinh doanh của Công ty
+ Quản lý và bảo dưỡng toàn bộ xe của Công ty
+ Được phép kinh doanh vận tải, chuyên chở hàng hoá.
Khối các phòng kinh doanh:
- Các phòng nghiệp vụ:
+ Phòng nghiệp vụ 1,5,6,7 kinh doanh xuất nhập khẩu tổng hợp.
+ Phòng nghiệp vụ 2 chuyên nhập khẩu.
+ Phòng nghiệp vụ 3 chuyên gia công hàng xuất khẩu.
+ Phòng nghiệp vụ 4 chuyên lắp ráp xe máy.
- Hai cửa hàng bán buôn và bán lẻ hàng hoá.
Cửa hàng 46 Ngô Quyền.
Cửa hàng 28 Trần Hưng Đạo.
- Liên doanh xây dựng trụ sở văn phòng cho thuê tại số 52 Quang
Trung - Hà Nội.
- Xây dựng Công ty cổ phần khách sạn tại số 7 Triệu Việt Vương -
Hà Nội.
- Các chi nhánh tại thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Hải Phòng.
- Bộ phận sản xuất:
+ Xí nghiệp may Đoan Xá tại Hải Phòng.
+ Xưởng lắp ráp xe máy tại Tương Mai - Hà Nội.
+ Xưởng sản xuất và chế biến sản phẩm gỗ (trực thuộc phòng 6) tại
Cầu Diễn - Từ Liêm - Hà Nội.
Công ty xuất nhập khẩu tổng hợp I là một Công ty lớn, với nghiệp vụ chủ yếu là xuất nhập khẩu mang tính chất tổng hợp nên việc tổ chức cơ cấu bộ máy một cách hiệu quả tránh cồng kềnh là hết sức quan trọng. Tuy nhiên, nhìn vào cơ cấu tổ chức của Công ty như hiện nay ta thấy tương đối phù hợp với điều kiện của Công ty: Các phòng phân định một cách rạch ròi với những chức năng, nghiệp vụ cụ thể của mình tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh của họ. Song còn một điều không mấy thuận lợi đó là phòng tổng hợp với nhiệm vụ làm công tác thị trường lại thuộc khối quản lý chứ không thuộc khối kinh doanh gây sự vòng vèo trong truyền đạt thông tin thị trường đến các phòng ban thuộc khối kinh doanh.
3. Tình hình cán bộ công nhân viên của Công ty.
ở Công ty, các nhân viên thuộc các phòng ban chủ yếu đều là lực lượng trẻ, năng động và có trình độ, đây là một trong số những điểm mạnh của công ty. Trong tổng số cán bộ thì khoảng 80% ở trình độ đại học. Số cán bộ công nhân viên của Công ty trong những năm gần đây có tăng nhưng với mức độ thấp, đó là sự quán triệt tinh thần gọn nhẹ và hiệu quả trong cơ cấu quản lý, tiết kiệm chi phí, lấy hiệu quả kinh tế là chỉ tiêu số một.
Biểu số 1: Số lượng cán bộ công nhân viên toàn Công ty xuất nhập khẩu Tổng hợp I những năm 1990 - 1999.
Năm
1990
1991
1992
1993
1994
1995
1996
1997
1998
Số lượng cán bộ CNV (người)
207
298
379
392
412
430
450
460
460
Trong tổng số nhân lực của Công ty nổi lên một số bộ phận được phân bổ cụ thể như sau:
* Ban Giám đốc: gồm 1 Giám đốc và 3 Phó Giám đốc
* Phòng tổ chức cán bộ: 18 nhân viên
* Phòng hành chính tổng hợp: 15 nhân viên
* Phòng kế toán tài vụ: 22 nhân viên.
* Chi nhánh tại Hải Phòng: 34 cán bộ
* Chi nhánh tại Đà Nẵng: 36 cán bộ.
* Chi nhánh tại Thành phố Hồ Chí Minh: 40 cán bộ
* Xí n ghiệp may Đoan Xá tại Hải Phòng: 172 người.
* Số nhân viên phân bố cho 7 phòng nghiệp vụ xuất nhập khẩu là 68 người.
Về vấn đề nhân lực Công ty luôn coi yếu tố chất lượng là hàng đầu. Cũng xuất phát từ đó Công ty thường xuyên coi trọng công tác đào tạo, cử các cán bộ đi học tập nâng cao trình độ quản lý kinh doanh, đối với công nhân viên thì áp dụng những biện pháp khích lệ nhằm phát huy tính năng động sáng tạo, nâng cao tri thức và tay nghề để họ sẵn sàng gắn bó với Công ty.
4.Tình hình tài chính của Công ty.
Từ khi mới thành lập (1981) chỉ có số vốn là 139 nghìn đồng đến nay Công ty đã có một số vốn rất lớn duy trì và phát huy tốt khả năng sản xuất kinh doanh, hoàn thành các chỉ tiêu được giao. Đồng thời thực hiện tốt nghĩa vụ với Nhà nước, góp phần nâng cao đời sống công nhân viên trong toàn Công ty.
Biểu số 2: Một số chỉ tiêu phản ánh tình hình tài chính của Công ty XNK Tổng hợp I.
Đơn vị: Triệu đồng
Năm
Vốn cố định
Vốn lưu động
Vốn đầu tư XDCB
Nộp ngân sách
Lợi nhuận để lại
Thu nhập bq/người/năm (1000 đ)
Giá trị
Mức tăng
Giá trị
Mức tăng
1990
5.437
8.213
1.567
4.563
1.549
540
1991
7.823
10.124
1.976
7.648
2.357
593
1992
10.646
13.600
2.204
11.651
3.530
610
1993
11.496
16.778
1.636
23.588
3.600
613,7
1994
13.129
22.866
2.109
36.765
2.882
763,5
1995
14.210
24.125
1.542
40.000
3.000
880,6
1996
14.300
25.837
52.913
3.400
896
1997
15.076
27.643
49.240
5.025
910
1998
Theo số liệu trên ta thấy số vốn đầu tư cho xây dựng cơ bản phân bổ không đều qua các năm mà công ty tiến hành đầu tư tuy theo tình hình từng thời kỳ. Tốc độ tăng của vốn cố định ngày càng chậm so với vốn lưu động, chứng tỏ công ty đang hết sức tranh thủ đồng vốn hiện có. Tuy nhiên, không phải công ty không chú ý đến những yếu tố dài hạn.
Là một công ty làm ăn có hiệu quả với tốc độ quay vòng vốn 6 vòng/ năm và các khoản lợi nhuận cũng được phân bổ hợp lý: Dành 45% lợi nhuận ngân sách Nhà nước; còn lại 55% phân bổ cho 3 quỹ, trích sang quỹ phát triển sản xuất tối thiểu phải là 35% và còn lại là quỹ khen thưởng và phúc lợi.
II - Các giai đoạn hoạt động kinh doanh của Công ty:
Nhìn lại 18 năm hoạt động của Công ty có thể tạm chia thành 2 giai đoạn lớn. Trong mối giai đoạn, Công ty đều phải giải quyết 3 vấn đề lớn. Đó là tổ chức và cán bộ, định hướng phát triển Công ty và tạo vốn và phát triển vốn.
1. Sự vận hành và phát triển của Công ty
Giai đoạn I: Từ ngày thành lập Công ty đến đầu năm 1993 (11 năm)
Thời kỳ cuối 1981 đến 1993, đất nước ta đã trải qua những biến đổi sâu sắc về kinh tế - xã hội. Do chính sách đổi mới của Đảng, kinh tế thị trường với cách quản lý theo cơ chế kế hoạch tập trung và bị suy kiệt do khủng hoảng kéo dài hàng chục năm. Chính sách quản lý XNK, lúc “thắt” lúc “mở “, không đồng bộ, khi thì chồng chéo không phù hợp với diễn biến phức tạp của thị trường hàng hoá .
Thị trường trong nước thiếu vốn, thiếu hàng trầm trọng, thời gian sau tình hình được cải thiện hơn.
Hoạt động tài chính, ngân hàng phát triển chậm hơn kinh doanh mang nặng tính quản lý bao cấp hơn phục vụ. Tiền tệ biến động phức tạp (đổi tiền VN năm 1985 ), lạm phát liên tục tăng cao. Tỷ giá giữa đồng Việt Nam và đô la Mỹ /Rúp CN thời gian kéo dài do Nhà nước ấn định không phù hợp với tương quan sức mua thực tế, sau Nhà nước lại đột ngột ddieef chỉnh nâng cao tới 2,6 lần (1988). Chính sách thuế cùng đầy biến động, phát sinh nhiều sắc thuế mới như thuế XNK, thuế vốn, thuế lợi tức, thuế doanh thu, .... tỷ suất thuế đã cao lại hay điều chỉnh không phù hợp với chu kỳ hàng hoá .
Về tổ chức kinh doanh ngoại thương, trước đây (1981) chỉ có 12 đơn vị thuộc bộ Ngoại thương được kinh doanh XNK trực tiếp, quan hệ kinh doanh với địa phương đều tập trung qua 1 đầu mối thống nhất là Công ty XNK tỉnh . Nhiều mặt hàng XNK lớn được bàn giao cho các Bộ quản lý sản xuất, xuất hiện thêm các Công ty XNK chuyên ngành . Năm 1990 do việc hợp nhất 3 Bộ Ngoại thương và Nội thương, Bộ Vật tư đồng thời do áp dụng chính sách khuyến khích phát triển thương mại, các đầu mối tập trung kinh doanh XNK theo quản lý hành chính địa phương teo dần xuất hiện nhiều chủ thể thuộc các thành phần sở hữu tham gia hoạt động XNK với quy mô khác nhau (Theo thống kê của bộ Thương mại tính đến đầu 1993 có tới 1200 đơn vị được phép kinh doanh XNK). Cạnh tranh trong kinh doanh XNK ngày càng trở nên gay gắt, có cả yếu tố thiếu lành mạnh như lừa đảo, chộp giật, chiếm dụng vốn của nhau trong kinh doanh . Sự thâm nhập của các công ty nước ngoài thông qua các VP Đ D trên thị trường VN, càng làm cho cạnh tranh thêm phức tạp, gay gắt . Nạn buôn lậu, trốn thuế... phổ biến , có cả quy mô lớn .
Ngoài nước, Mỹ bao vây kinh tế, thị trường Liên Xô, Đông Âu tan rã làm chúng ta mất hàng loạt thị trường cung ứng và tiêu thụ hàng XNK, mất nguồn viện trợ chính yếu .
Đời sống cán bộ ăn lương hết sức khó khăn, bấp bênh sau được cải thiện đôi chút nhưng so với phát triển xã hội vẫn ở mức thấp .
Để xây dựng và phát triển Công ty, toàn thể Công ty đã tập trung cao độ giả quyết tốt các mặt sau :
1- Công tác tổ chức cán bộ :
Việc làm đầu tiên trong Công ty phải lo tổ chức bộ máy, ổn định tổ chức và đào tạo cán bộ. Trong công tác đào tạo, Công ty lấy công tác thực tiễn làm cơ sở đào tạo tại chỗ, thường xuyên tổ chức các buổi học tập, trao đổi kinh nghiệm nội bộ, rút kinh nghiệm trong cách làm hoặc nêu các vấn đề phát sinh, trao đổi tìm cách giải quyết. Chính nhờ những việc làm này, trong thời gian ngắn đã nâng dần kiến thức cho anh chị em làm công tác nghiệp vụ, quản lý, Công ty tranh thủ các chỉ tiêu đào tạo, gửi cán bộ đi học trong và ngoài nước hoặc mời các chuyên gia về phổ biến các chuyên đề có liên quan đến nghiệp vụ XNK, hạch toán kế toán, thanh toán quốc tế, lập hợp đồng, chứng từ thanh toán... Bên cạnh việc đào tạo bồi dưỡng chuyên môn cho cán bộ, Công ty còn chủ trương đề bạt cán bộ tại chỗ để bổ xung cho các vị trí lãnh đạo trong bộ máy của Công ty. Trong thời gian từ 1982 - 1993, Công ty đã đề bạt tại chỗ tổng số 25 người trong đó có 3 Phó giám đốc, 6 trưởng phòng, 1 Giám đốc, 2 phó giám đốc chi nhánh, 13 phó phòng... Đến năm 1993, Công ty đã có bộ máy hoạt động đầy đủ, gọn nhẹ với đội ngũ cán bộ nòng cốt tương đối mạnh đảm bảo yêu cầu chuyên môn vào thời điểm đó, với tổng biên chế 146 người.
Một mặt quan trọng khác trong công tác cán bộ là chăm lo đời sống mọi mặt cho CBCNV: Công ty đặt ra mục tiêu đảm bảo cho anh chị em CBCNV một đời sống kinh tế tạm đủ, không phải lo nghĩ nhiều để anh chị em yên tâm công tác, đây là một việc làm thiết thực và là động cơ thúc đẩy hoạt động kinh doanh của Công ty. Hàng năm có tổ chức dù là nghỉ mát cho toàn thể CBCNV. Đặc biệt, Công ty còn vận dụng chính sách “Nhà nước và nhân dân cùng làm” xây dựng nhà ở hoặc cơ sở hạ tầng để làm nhà cho hầu hết CBCNV trong Công ty.
Công ty hết sức coi trọng việc xây dựng đoàn kết nội bộ, phát huy được vai trò lãnh đạo của Đảng tạo điều kiện mọi mặt cho công tác đoàn thể.
2. Vấn đề xác định định hướng phát triển đúng
Thời gian đầu thành lập Công ty phải tập trung giải quyết một số vấn đề mang tính nguyên tắc như: Nguyên tắc hạch toán mới “lấy thu bù chi” phạm vi kinh doanh, ngành hàng, những nguyên tắc riêng về hoạt động cho Công ty trong việc lựa chọn phương thức kinh doanh, sử dụng vốn ngoại tệ, thu hoa hồng uỷ thác bằng ngoại tệ, lập quỹ hàng hoá...
Do yêu cầu phát triển của thị trường, trong từng giai đoạn Công ty còn đề nghị được nhận thêm cách nhiệm vụ khác như:
+ Bán vật tư nhập theo NĐT với Liên Xô và Đông Âu, nhập vật tư phục vụ sản xuất hàng xuất khẩu.
+ Đổi hàng với Tiệp
+ Giao một số mặt hàng theo NDDT lạc, cà phê cho Liên Xô (1987), tinh dầu - Liên Xô, đay - Triều Tiên...
+ Nhập hàng tiêu dùng phục vụ chương trình cải cách giá - lương - tiền của Nhà nước.
+ Đầu tư cho sản xuất: Đông lạnh Đồng Hới, xí nghiệp măng Lang Chánh, thiết bị đóng ép đay Hải Hưng, Hà Nam Ninh, dây chuyền sản xuất mũi giày Bắc Thái và Hà Bắc.
+ Nhập hàng phi mậu dịch phục vụ đối tượng 156...
+ XNK uỷ thác hàng gia công may mặc.
+ Tham gia vận động thành lập Ngân hàng XNK và là một cổ đông lớn của Ngân hàng.
+ Một số chuẩn bị về cơ sở vật chất cho việc kinh doanh bất động sản và đầu tư cho sản xuất: Mua nhà 53 Quang Trung, 7 Triệu Việt Vương, kho Đoạn Xá HP, nhận bàn giao kho Tương Mai...
Sau thời kỳ phát triển rực rỡ của công tác XNK uỷ thác cho địa phương 1985 - 1989 cùng với sự teo dần của các đầu mối.
+ Sau giai đoạn tự doanh hàng nhập sôi động mà trọng tâm là quỹ hàng hoá 1985 - 1989 mang lại hiệu quả kinh doanh đáng kể. Sự phát triển nhanh chóng của thị trường làm lợi nhuận kinh doanh giảm xuống - việc kinh doanh hàng phi mậu dịch là giải pháp thay thế trong bài toán hiệu quả kinh doanh.
+ Ngay từ đầu những năm 1990, nhận thấy kinh doanh XNK khó có thể phát triển lớn, Công ty đã xác định hướng phát triển mới là kinh doanh đồng thời với đầu tư cho sản xuất, kinh doanh các lĩnh vực mới về bất động sản và đầu tư cho ngân hàng.
Việc định hướng đúng còn thể hiện trên lĩnh vực thị trường và thương nhân (bạn hàng): Trong từng thời kỳ, Công ty đã chú ý xây dựng cho mình một đội ngũ bạn hàng và thị trường phù hợp với phạm vi và quy mô kinh doanh trong đó lấy thị trường nội là gốc là môi trường sống. Công ty luôn coi bạn hàng là đối tượng phục vụ để thu hút khách hàng đi với mình, và khi đã hợp tác với nhau Công ty hết sức hợp tác, tạo điều kiện để hai bên cùng phát triển. Nhờ vậy, uy tín của Công ty ngày càng được nâng cao. Tại các hội nghị khách hàng các năm 1985, 1987... nhiều đại biểu khách hàng (Vĩnh Phú, Bắc Thái, Thanh Hoá...) đã bày tỏ sự biết ơn với Công ty do sự hợp tác xây dựng trong quan hệ kinh doanh. Về thị trường ngoại, Công ty cũng xây dựng được một số thương nhân chính góp phần ổn định kế hoạch kinh doanh của Công ty, kế hoạch sản xuất của nhiều địa phương cơ sở trong nước hoặc góp phần đáp ứng nhu cầu cấp thiết trong nước. Những thành công đáng kể trên lĩnh vực này là các việc:
+ Nhập bao đay phục vụ đóng lạc giao theo NĐ thư với Liên Xô năm 1987, nhập đường phục vụ nhu cầu trong nước năm 1989 với thời gian giao dịch và điều hàng về trong vòng một tuần.
+ Xây dựng quan hệ làm ăn dài hạn về gia công may mặc với POSCELIN, PETER... từ đầu 1991 đến nay.
3. Vấn đề tạo vốn và bảo toàn phát triển vốn:
Khi thành lập, hầu như không được giao vốn, nhiệm vụ XNK uỷ thác là chính. Được Nhà nước cho cơ chế tạo vốn bằng cách thu 1% hoa hồng ngoại tệ qua XNK uỷ thác, Công ty không chỉ dừng lại ở đây mà chủ động tự doanh hàng nhập thông qua việc lập quỹ hàng hoá.
Khi việc kinh doanh quỹ hàng hoá không còn phù hợp với thị trường nữa, Công ty đã chủ động tìm các việc làm khác có hiệu quả hơn để thay thế như việc tự doanh hàng điện tử, làm hàng phi mậu dịch, lắp ráp điện tử, xe máy, đầu tư tài chính...
Do vậy, Công ty đã tạo lập được một số vốn tương đối lớn. Từ 139.000 đ (12/1981) đến năm 1993 đã có tổng số vốn khoảng 34 tỷ đồng. Nhờ có việc làm đúng đắn này, Công ty chẳng những vẫn bảo toàn vốn mà còn vượt qua những khó khăn thử thách.
- Việc Nhà nước nợ khê đọng vốn của Công ty từ 1986 - 1990 phát sinh trong việc Công ty ứng tiền nhập hàng phục vụ chương trình giá - lương - tiền trị giá vốn 2,5 triệu USD.
- Tiền giao hàng theo chỉ tiêu pháp lệnh cho Liên Xô năm 1987 mặt hàng lạc - cà phê trị giá 4,5 triệu Rúp.
- Chênh lệch do điều chỉnh tỷ giá một tỷ đồng năm 1988.
- Công nợ khó đòi phát sinh trong thời kỳ Nhà nước sắp xếp lại doanh nghiệp 1990 - 1991 đã đưa vào lưới nợ: 10 tỷ đồng đến nay vẫn chưa giải quyết xong.
Tóm lại, giai đoạn 1981 đến 1993 là giai đoạn phát triển đi lên từ hai bàn tay trắng trong bối cảnh thị trường mới mở đầy biến động, Côn