Bệnh đạo ôn hại lúa và biện pháp quản lý

Việt Nam được coi là một trong những nơi phát sinh cây lúa, lúa được thuần hóa và trồng cấy từ 4000 năm nay. Với điều kiện khí hậu nhiệt đới, lượng mưa hàng năm lớn, rất thích hợp cho cây lúa sinh trưởng và phát triển. Cùng với việc áp dụng giống mới, đầu tư phân bón cao thì cũng không tránh khỏi các đối tượng dịch hại ngày càng nghiêm trọng, đặc biệt là bệnh đạo ôn. Các tỉnh vùng Khu 4 hàng năm gieo trồng 670.000- 680.000ha lúa. Việc mở rộng diện tích lúa đặc sản, lúa hàng hóa chất lượng đang gặp phải một trở ngại lớn là mức độ và quy luật phát sinh của một số đối tượng sâu bệnh chủ yếu ngày càng phức tạp. Trong đó bệnh đạo ôn hại lúa (Pyricularia oryzae Cav.) là một trong những bệnh hại lúa nguy hiểm, gây hại nghiêm trọng cả trên lá và cổ bông. Mức độ và tác hại của bệnh thay đổi liên quan đến nhiều yếu tố như: giống lúa, thời kỳ sinh trưởng, chế độ canh tác, mùa vụ, phân bón, khí hậu, thời tiết

pdf8 trang | Chia sẻ: thuylinhqn23 | Ngày: 08/06/2022 | Lượt xem: 437 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bệnh đạo ôn hại lúa và biện pháp quản lý, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí KH-CN Nghệ AnSỐ 3/2018 [16] NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI 1. Mở đầu Việt Nam được coi là một trong những nơi phát sinh cây lúa, lúa được thuần hóa và trồng cấy từ 4000 năm nay. Với điều kiện khí hậu nhiệt đới, lượng mưa hàng năm lớn, rất thích hợp cho cây lúa sinh trưởng và phát triển. Cùng với việc áp dụng giống mới, đầu tư phân bón cao thì cũng không tránh khỏi các đối tượng dịch hại ngày càng nghiêm trọng, đặc biệt là bệnh đạo ôn. Các tỉnh vùng Khu 4 hàng năm gieo trồng 670.000- 680.000ha lúa. Việc mở rộng diện tích lúa đặc sản, lúa hàng hóa chất lượng đang gặp phải một trở ngại lớn là mức độ và quy luật phát sinh của một số đối tư ợng sâu bệnh chủ yếu ngày càng phức tạp. Trong đó bệnh đạo ôn hại lúa (Pyricularia oryzae Cav.) là một trong những bệnh hại lúa nguy hiểm, gây hại nghiêm trọng cả trên lá và cổ bông. Mức độ và tác hại của bệnh thay đổi liên quan đến nhiều yếu tố nh ư: giống lúa, thời kỳ sinh trư ởng, chế độ canh tác, mùa vụ, phân bón, khí hậu, thời tiết Vụ xuân 2017, bệnh đạo ôn cổ bông đã phát sinh gây hại trên 22.636,1ha, trong đó nặng 7.825,8ha, (mất trắng 13.238,5ha), tỷ lệ bệnh phổ biến 5-10%, nơi cao 15-70%. Bài viết này cung cấp những thông tin, dữ liệu khoa học về bệnh đạo ôn hại lúa và biện pháp phòng trừ. 2. Triệu chứng bệnh đạo ôn Pyricularia oryzae Cav Bệnh đạo ôn phát sinh gây hại cả trên mạ và trên lúa cấy ở các thời kỳ sinh trưởng, phát triển ngoài đồng ruộng. Cây lúa có thể bị bệnh ở các bộ phận khác nhau như cổ lá, phiến lá, đốt thân, cổ bông, cổ gié, hạt. Dựa vào vị trí bị bệnh, người ta phân chia các dạng hình bệnh: đạo ôn lá, đạo ôn đốt thân, đạo ôn cổ bông - Vết bệnh trên lá mạ, lá lúa: Lúc đầu là những chấm nhỏ màu hơi vàng mờ. Vài ngày sau, vết bệnh kéo dài về hai phía, phình to ở giữa tạo thành vết bệnh có dạng hình thoi, ở giữa vết bệnh màu xám tro, có một viền nâu, xung quanh vết bệnh có thể có n Nguyễn Tuấn Lộc Trung tâm BVTV vùng Khu 4 BỆNH ĐẠO ÔN HẠI LÚA VÀ BIỆN PHÁP QUẢN LÝ Tạp chí KH-CN Nghệ AnSỐ 3/2018 [17] NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI quầng vàng (tùy theo loại giống). Đây là vết bệnh đặc trưng. Trong điều kiện thời tiết phù hợp cho bệnh phát triển, điều kiện dinh dưỡng đạm quá nhiều thì triệu chứng vết bệnh ban đầu là một chấm nhỏ, sau lan rộng ra có màu xanh tái, kéo dài nhiều ngày. Đó là vết bệnh cấp tính, sau mới chuyển thành vết bệnh đạo ôn đặc trưng (dạng vết bệnh mãn tính). Kích thước vết bệnh hình thoi dao động trong khoảng 0,5 - 4 x 1 - 25mm. Trong trường hợp bệnh phát triển mạnh, nhiều vết bệnh nhỏ liên kết nối liền với nhau tạo thành một dải vết bệnh, lá cháy khô lụi đi nhanh chóng. - Vết bệnh trên cổ lá: Lúc đầu là chấm nâu, sau phát triển thành vết nâu hình khum theo chiều cong giữa cổ lá và phiến lá. Khi cổ lá bị bệnh toàn lá tái xanh, xám, khô lụi, gẫy gục xuống. - Vết bệnh trên đốt thân: Lúc đầu là một đốm nhỏ màu nâu sau lớn rộng ra thành một vành tròn bao quanh đốt thân làm cho thân lõm tóp lại, màu nâu đen. Khi trời mưa ẩm, đốt thân bị bệnh mềm nhũn, dễ bị gãy gập khi gặp giông, gió. - Vết bệnh trên cổ bông: Trên cổ bông, cổ gié có vết bệnh lúc đầu là đốm nhỏ, sau lan ra theo chiều dài làm cả đoạn cổ bông có màu nâu xám, khô tóp lại, cả bông lép trắng nếu nhiễm bệnh sớm ngay thời gian trỗ. Trong trường hợp nhiễm bệnh muộn vào thời kỳ làm hạt - chín thì gây ra hiện tượng nhiều hạt lép lửng, bông lúa nhỏ, dễ gãy cổ bông, rụng gié, dẫn đến làm giảm năng suất lúa. - Vết bệnh trên hạt: Vết bệnh gây hại trên hạt không đồng nhất về hình dạng như trên lá lúa mà có dạng đốm tròn hoặc không định hình, có màu nâu đen hoặc xám. Nấm ký sinh ở vỏ trấu và có thể ở bên trong hạt. Hạt giống bị nhiễm bệnh là nguồn bệnh truyền từ vụ này qua vụ khác. Trên bề mặt vết bệnh ở các bộ phận: lá, đốt thân, cổ bông đều có thể hình thành bào tử trông như một lớp mốc xám. 3. Các yếu tố ảnh hưởng đến phát sinh gây hại của bệnh đạo ôn 3.1. Ảnh hưởng của điều kiện thời tiết, khí hậu đến bệnh đạo ôn Bệnh đạo ôn có thể phát sinh gây hại với các mức độ khác nhau, trên các mùa vụ khác nhau. Riêng ở các tỉnh miền Bắc, bệnh phát sinh gây hại ở vụ lúa chiêm xuân thường lớn hơn vụ lúa mùa. Ở vụ chiêm xuân, bệnh thường xuất hiện vào tháng 1, 2 trên mạ chiêm, đầu tháng 3 bệnh xuất hiện cục bộ trên lúa xuân đẻ nhánh. Từ giữa tháng 3 đến giữa tháng 5, bệnh thường phát sinh gây hại mạnh trên diện rộng. Trên các trà lúa mùa bệnh phát sinh vào thời kỳ lúa trỗ trở đi từ tháng 10-11. Điều đó chứng tỏ bệnh đạo ôn phát sinh theo quy luật chung trong những tháng có nhiều ngày liên tiếp đảm bảo nhiệt độ 18- 250C, ẩm độ cao trên 90%, mưa lai rai, số giờ nắng ít (nhỏ hơn 2 giờ/ngày). Những kết quả nghiên cứu ở Viện Lúa đồng bằng sông Cửu Long cũng cho thấy các tác động ảnh hưởng của điều kiện khí hậu tới bệnh đạo ôn. Mật độ bào tử bắt được trong bẫy tỷ lệ thuận với ẩm độ không khí. Sự phát tán của bào tử nấm Pyricularia oryzae Cav mạnh nhất trong các tháng 8, 9 và tháng 11 trong năm. Lượng mưa trong các tháng ở mùa mưa tỷ lệ thuận với sự nhiễm bệnh của cây ký chủ. 3.2. Ảnh hưởng của dinh dưỡng, chế độ bón phân đến bệnh đạo ôn Nhiều kết quả nghiên cứu và cho rằng, đạm, kali bón nhiều không hợp lý đều làm cho bệnh đạo ôn phát triển mạnh. Đạm là yếu tố dinh dưỡng ảnh hưởng lớn đến bệnh đạo ôn, làm giảm tính chống chịu bệnh, hạn chế quá Nguyên nhân gây bệnh do nấm Pirycularia oryzae Cav. gây ra Tạp chí KH-CN Nghệ AnSỐ 3/2018 [18] NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI trình silic hóa của tế bào làm tăng hàm lượng axit amin tự do trong cây. 3.3. Ảnh hưởng của chế độ nước, mật độ, thời vụ đến bệnh đạo ôn Chế độ nước và mật độ có ảnh hưởng trực tiếp đến chế độ dinh dưỡng của cây. Nước là môi trường hòa tan các chất dễ tiêu cho cây hấp thu. Nhờ nước, các hợp chất silic có thể hòa tan để cây hấp thụ đẩy nhanh quá trình silic hóa vách tế bào, biểu bì, tăng sức chống chịu bệnh đạo ôn, hạn chế ảnh hưởng của đạm đối với bệnh. Bệnh đạo ôn phát triển mạnh hơn ở những ruộng có mật độ cấy quá cao, các trà lúa xuân cấy sớm và mùa muộn thường bị đạo ôn phá hại sớm và kéo dài. 4. Tổng hợp những nghiên cứu về chủng nấm sinh lý gây bệnh và tính chống chịu bệnh đạo ôn của các giống lúa Nấm bệnh đạo ôn là loại nấm ký sinh chuyên tính, quần thể loại nấm đạo ôn Pyric- ularia oryzae Cav. không đồng nhất về tính độc, tính gây bệnh. Trong tự nhiên, tính gây bệnh của nấm đạo ôn luôn biến đổi do đột biến và do sự biến động của các yếu tố sinh thái địa lý và sự xuất hiện của các giống lúa khác nhau. Từ đó hình thành nên các nòi sinh lý (race) của nấm đạo ôn. Ở Việt Nam, từ 1976, những khảo sát về sự phổ biến các nhóm nòi đạo ôn bước đầu được tiến hành ở Viện Bảo vệ thực vật và Trường Đại học Nông Nghiệp I - Hà Nội. Kết quả cho thấy, toàn bộ 8 giống lúa trong bộ giống lúa quốc tế chỉ thị nòi nhiễm bệnh khác nhau trong một số vùng miền Bắc và miền Nam. Ở vùng Bắc Hà, toàn bộ giống chỉ thị nhóm nòi A, B, C, D, IE, IF, H đều bị nhiễm bệnh đạo ôn nặng từ cấp 5-9. Nhưng ở vùng Điện Biên, 3 trong 8 giống quốc tế chỉ thị nòi lại nhiễm đạo ôn rất nhẹ ở cấp bệnh từ cấp 1-2. Đó là giống Raminad St- 3 chỉ thị nhóm nòi A, giống Zenith chỉ thị nòi B, giống Usen chỉ thị nhóm nòi D. Ở vùng Tiền Giang chỉ có giống Usen chỉ thị nhóm nòi D nhiễm đạo ôn nặng ở cấp 6, còn các giống Zenith chỉ thị nòi B và giống Kunto - 51 chỉ thị nhóm nòi IF chống bệnh cao chỉ nhiễm ở cấp 1. Các giống khác còn lại nhiễm Các vết bệnh đạo ôn kế tiếp nhau gây héo lá mạ Vết bệnh đạo ôn trên lá lúa Vết chấm dạng hình thoi đặc trưng, viền nâu, tâm màu xám trắng Tạp chí KH-CN Nghệ AnSỐ 3/2018 [19] NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI đạo ôn trung bình ở cấp 3- 4 như giống NP - 125 chỉ thị nhóm nòi C, giống Dular chỉ thị nhóm nòi IE và giống Caloro chỉ thị nhóm nòi H Cho đến năm 1985-1987, những kết quả nghiên cứu bổ sung đã bắt đầu khẳng định rõ hơn ở vùng Quảng Nam - Đà Nẵng chủ yếu có 3 nhóm nòi đạo ôn trong 5 là nhóm nòi IB, IC, IF. Trong đó, nhóm nòi IB phổ biến hơn chiếm ưu thế trong vụ đông xuân còn nhóm nòi IC và IF chiếm ưu thế trong vụ lúa xuân hè, nhóm nòi IC chiếm ưu thế trong vụ lúa hè thu. Trong thí nghiệm với 12 nguồn mẫu nấm phân lập từ 12 tỉnh ở các vùng địa lý khác nhau của nước ta, sơ bộ phân định ra 5 nhóm nòi chủ yếu như sau: Nhóm nòi IA: Có mặt ở vùng Tiền Giang, Sơn La. Nhóm nòi IB: Có mặt ở Quảng Nam - Đà Nẵng, Nghệ Tĩnh, Hà Nam Ninh, Hà Nội, Hải Phòng, Hải Hưng, Hà Bắc. Nhóm nòi IC: Có mặt ở vùng Quảng Nam - Đà Nẵng, Vĩnh Phúc. Nhóm nòi ID: Có mặt ở Thái Bình, Hà Bắc. Nhóm nòi IF: Có mặt ở Quảng Nam - Đà Nẵng. Kết quả nghiên cứu phối hợp giữa Trường Đại học Nông Nghiệp I và Viện Khoa học kỹ thuật Nông nghiệp Việt Nam cho thấy, các nòi nấm có tính độc khác nhau. Mẫu phân lập nấm đạo ôn ở vùng Nghệ Tĩnh có tính độc cao hơn và đặc tính sinh trưởng khác nhau so với mẫu nấm đạo ôn ở vùng Điện Biên. Theo tác giả Lê Đình Đôn, YuKio Tosa, Hitoshi Nakayazshiki và Shigeyuki Mayama (1999), khi nghiên cứu cấu trúc quần thể nấm Pyricularia oryzae Cav. Ở Việt Nam, đã thu thập được 78 mẫu phân lập ở Đồng bằng sông Hồng (Hà Tây, Thái Bình) và Đồng bằng sông Cửu Long (Long An, Tiền Giang, Hậu Giang). Kết quả cho thấy, có 4 dòng nấm được tìm thấy ở miền Bắc là VL1, VL2, VL3, VL4. Trong đó, dòng VL2 chiếm ưu thế và chỉ 1 dòng được tìm thấy ở Đồng bằng sông Cửu Long là VL5. Trong số các mẫu phân lập tham gia thí nghiệm có 15 nòi được tìm ra đó là: 000, 002, 200, 122, 232, 102, 103, 105, 106, 107, 112, 132, 502, 505, 507. Sự phân bố các nòi này cũng khác nhau ở miền Bắc và miền Nam. Nòi 000 chiếm ưu thế ở vùng Đồng bằng sông Hồng còn ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long thì nòi 102 lại chiếm ưu thế và không có nòi nào được tìm thấy ở cả 2 vùng đồng bằng. Nado Takahito, Nagao Hayashi, Phan Văn Du, Hoàng Dinh Dinh and Lai Van E, October (1999) khi nghiên cứu về các chủng sinh lý của nấm Pyricularia ôryzae Cav. Ở Việt Nam đã thu được 129 mẫu và sắp xếp vào 12 chủng sinh lý dựa trên cơ sở tính độc của 12 giống lúa khác nhau ở miền Bắc Việt Nam. Trong đó có chủng 002.4 chiếm 31% của các mẫu phân lập, chủng 106.4 chiếm 19,4%, chủng 006.4 chiếm 17,1%, chủng 102.4 chiếm 14,7% và chủng 002.0 chiếm 7% còn 7 chủng khác là các chủng thứ yếu ở Việt Nam. Bigimana.J, NT Ninh Thuân (2002) đã xác định được 114 mẫu phân lập thu thập cuối vụ 2001 tại 11 tỉnh miền Bắc Việt Nam. Hầu hết các nòi nấm Pyric- ularia oryzae Cav. đều không lan rộng, tại miền Bắc 87% số mẫu phân lập đã được xác định thuộc 3 nhóm nòi. Nhóm nòi lớn nhất chiếm 52% tổng số lượng mẫu phân lập ở miền Bắc, miền Nam và miền Trung nước ta cho thấy hầu hết các mẫu phân lập đều thuộc Mat 1-2. Mặt khác nghiên cứu trên 9 mẫu phân lập thu thập ở cả 3 miền Bắc, Trung, Nam; 6 mẫu phân lập ở Brundi và 5 mẫu phân lập từ Ấn Độ đã phân ra được 8 nhóm nòi khác nhau trong đó số mẫu phân lập giống nhau chiếm tới 80%. Việc nghiên cứu và sử dụng các giống chống bệnh đạo ôn ở nước ta được tiến hành rộng rãi, kết quả bước đầu đã phát hiện được trong tập đoàn giống cổ truyền Việt Nam có nhiều giống chống chịu bệnh cao như: Tẻ Tép, Chiêm Chanh Phú Thọ, Chiêm Bầu Thanh Hóa, Gié, Tép Sài Gòn, Nàng Thơm, Nàng Chét Nhiều giống nhập nội được chọn lọc lai tạo có tính chống bệnh đạo ôn ở nhiều vùng như: NN 75-2, NN- 3B, NN-3A, IR1820, IR56, IR64 Chọn tạo giống kháng bệnh đạo ôn theo phương pháp phả hệ là một phương pháp có khả năng định hướng trước từ giai đoạn chọn bố mẹ để truyền lại cho con cháu ở các thế hệ sau trong quá trình tái tổ hợp các gen kháng. Phương pháp nuôi cấy túi phấn từ cây F1 cũng có thể có nhiều khả năng cho ta một kết quả tốt nhờ cố định được tính trội, kháng bệnh đạo ôn ở thế hệ F1. Tạp chí KH-CN Nghệ AnSỐ 3/2018 [20] NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI Theo tác giả Lê Xuân Cuộc, Vũ Tuyên Hoàng, Hà Minh Trung, (1993) [8] về di truyền tính kháng bệnh đạo ôn ở 2 giống CH3 và CH133 do Viện Cây lương thực và thực phẩm chọn từ cặp lai DCH1/424 và lúa khô Nghệ An/Xuân số 2 đã kết luận: Mỗi giống có ít nhất 1 gen trội riêng kháng bệnh đạo ôn. Đây là cơ sở cho công tác lai tạo giống kháng bệnh đạo ôn có hiệu quả trong sản xuất. Lê Xuân Cuộc và ctv, (1994) cho thấy, các nòi nấm Pyricularia oryzae Cav. rất dễ bị biến dị và tạo ra nòi mới, sinh ra các độc tính và khả năng xâm nhiễm khác nhau trên cây lúa. Theo Hà Minh Trung, Ngô Vĩnh Viễn và ctv (1991-1995) sau khi nghiên cứu về thời gian duy trì tính kháng bệnh của một số giống lúa kháng bệnh đạo ôn ở các vùng sinh thái khác nhau cho thấy, sự thay đổi khả năng ký sinh của nấm gây bệnh đạo ôn được biểu hiện rõ nhất là sự đổ vỡ tính kháng bệnh của các giống kháng bệnh sau một thời gian gieo cấy trên đồng ruộng. Ở các vùng sinh thái khác nhau, tốc độ thay đổi khả năng ký sinh của nấm gây bệnh đạo ôn cũng khác nhau, ngoài ra nguyên nhân gây nên sự đổ vỡ tính kháng còn phụ thuộc vào gen kháng. Như vậy, tuyển chọn gen kháng bệnh là vấn đề được quan tâm trong công tác lai tạo và tuyển chọn giống kháng bệnh. Theo Hà Minh Trung và ctv, (1996- 1997), kết quả nghiên cứu phản ứng của các giống lúa với các đơn bào tử nấm gây bệnh đạo ôn ở các vùng sinh thái khác nhau cho thấy: Không phải 1 giống lúa bị nhiễm bệnh đạo ôn trên đồng ruộng là nhiễm tất cả các nguồn nấm đạo ôn. Chúng chỉ nhiễm một vài isolate và cũng kháng một vài isolate. Ngay cả giống Tẻ Tép được coi là kháng bệnh cao nhưng cũng nhiễm một vài isolate nấm Pyricularia oryzae Cav. Tuy nhiên, phải khẳng định giống Tẻ Tép kháng với hầu hết nguồn nấm gây bệnh đạo ôn ở các vùng khác nhau. Trong thí nghiệm tiến hành ở IRRI cuối năm 1995 đến đầu năm 1996 thử phản ứng của các giống lúa gieo cấy phổ biến ở nước Phun thuốc hóa học khi bệnh gây hại nặng Biện pháp phòng trừ bệnh đạo ôn: Áp dụng kỹ thuật thâm canh lúa cải tiến SRI Sử dụng giống kháng bệnh Tạp chí KH-CN Nghệ AnSỐ 3/2018 [21] NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI ta với nguồn nấm Pyricularia oryzae Cav. gây bệnh đạo ôn ở IRRI cũng phần nào nói lên sự phong phú của quần thể nấm gây bệnh đạo ôn. Đặc biệt là nấm bệnh đã gây hại được trên giống Tẻ Tép thì có sức gây bệnh cao đối với các giống khác. Do vậy, việc tạo giống kháng bệnh đạo ôn bằng cách lai hữu tính giữa các giống có nguồn gen khác nhau sẽ tạo ra được con lai kháng bệnh trên đồng ruộng. Hà Minh Trung và ctv (1996-1997) khi nghiên cứu về khả năng sinh sản thế hệ nấm Pyricularia oryzae Cav. mới trên một số giống lúa cho thấy: Nguồn nấm Pyricularia oryzae Cav. trên đồng ruộng là rất phong phú. Trong điều kiện tự nhiên, quần thể nấm này luôn thay đổi mà nguyên nhân là do đột biến, lai tạo và sự di chuyển của nấm từ vùng này sang vùng khác. Người ta nhận thấy rằng trên đồng ruộng gieo trồng một loại giống lúa chủ lực nhiều năm liền sẽ là nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ nhanh chóng tính kháng của giống. Do vậy, gieo cấy đa dạng hóa nguồn gen kháng bệnh trên đồng ruộng sẽ góp phần hạn chế phạm vi gây hại của bệnh đạo ôn ở một số địa phương. Khi đánh giá tính kháng bệnh đạo ôn của một số giống lúa đang trồng phổ biến ở Đồng bằng sông Cửu Long gồm các dòng, giống triển vọng và các giống nhập nội, tác giả Lưu Văn Quỳnh và Bùi Bá Bổng, (1998) đã nhận định rằng: Số lượng giống kháng cao và kháng ổn định qua các vùng sinh thái ở Đồng bằng sông Cửu Long là thấp, trong khi đó giống nhiễm cao chiếm gần 30% và giống kháng không ổn định chiếm 50% số giống thử nghiệm. Lưu Văn Quỳnh và Bùi Bá Bổng (1998) khi nghiên cứu về tính kháng bền của các giống lúa đối với bệnh đạo ôn ở Đồng bằng sông Cửu Long thì thấy rằng, trong 500 giống lúa, qua 7 thí nghiệm đã xác định 16 giống lúa có chỉ số SDI bằng hoặc nhỏ hơn 5 được xem như là có khả năng kháng bền (tính kháng được xác định thông qua chỉ số SDI) trong khi đó giống Tẻ Tép cho chỉ số SDI là 6. Giống IR64 được đưa vào sản xuất trên 10 năm vẫn duy trì tính kháng bền. Nghiên cứu của Phan Hữu Tôn, (2004) trên 24 dòng lúa chứa các gen chống bệnh khác nhau với 4 isolate nấm Pyricularia oryzae Cav., kết quả cho thấy, 10 dòng chống được 3 isolate, 3 dòng chống được 2 isolate và chỉ có 3 dòng chống được 1 isolate. Điều đó chứng tỏ các gen khác nhau thì khả năng chống isolate bệnh đạo ôn cũng khác nhau. Kết quả giám định về các chủng sinh lý (race) của nấm Pyricularia oryzae Cav. tại Hà Tĩnh vụ xuân 2017 của Bộ môn Bệnh cây, Học viện Nông nghiệp Việt Nam, Viện Bảo vệ thực vật đã xác định có 4 nòi cùng xuất hiện, gây hại các nòi nấm gây bệnh đạo ôn ở Hà Tĩnh khác nòi 106,4 đã được công bố năm 1999. Kết quả nghiên cứu cũng chỉ ra trên một giống có thể có 2 hay nhiều nòi bệnh đạo ôn gây hại; một nòi có thể gây hại nhiều giống khác nhau. Các nhà khoa học của Học viện Nông nghiệp Việt Nam và Viện Bảo vệ thực vật tiếp tục nghiên cứu độc tính của các nòi gây bệnh đạo ôn ở Hà Tĩnh để phục công tác chỉ đạo phòng trừ bệnh. 5. Biện pháp phòng trừ bệnh đạo ôn Nấm gây bệnh đạo ôn tồn tại trên hạt giống, rơm rạ, cỏ dại, đất trồng, lúa chét sau gặt bằng sợi nấm và bào tử truyền lan bệnh bằng nhiều con đường khác nhau. Để phòng ngừa và khống chế bệnh gây hại, cần thiết phải áp dụng đồng bộ một hệ thống các biện pháp tổng hợp trong đó bao gồm hệ thống các biện pháp kỹ thuật trồng trọt, sử dụng giống kháng bệnh, cơ cấu theo mùa vụ thích hợp với các biện pháp hóa học nhằm chủ động phòng ngừa bệnh và ngăn chặn sự phát triển bệnh dịch, đảm bảo được năng suất ổn định của các giống lúa gieo trồng. 5.1. Sử dụng giống kháng bệnh Đây là biện pháp an toàn và hiệu quả nhất cho các loài dịch hại nói chung và bệnh đạo ôn nói riêng. Hiện nay, hầu hết các giống gieo trồng phổ biến ở Việt Nam đều nhiễm bệnh đạo ôn. Các nghiên cứu chọn tạo giống kháng bệnh đạo ôn đang được các nhà chọn tạo giống nghiên cứu lai tạo nhằm phục vụ nhu cầu của sản xuất trong tương lai gần. 5.2. Biện pháp canh tác Điều chỉnh hợp lý các biện pháp canh tác có tác dụng phòng ngừa, hạn chế nguồn bệnh lây lan, đồng thời điều hòa môi trường sống và sự sinh trưởng phát triển của cây, nâng cao tính chống chịu bệnh là biện pháp chính trong công tác phòng trừ đạo ôn. Áp dụng kỹ thuật thâm canh lúa cải tiến SRI, gieo, cấy mật độ hợp lý tùy theo từng chân đất (gieo sạ với Tạp chí KH-CN Nghệ AnSỐ 3/2018 [22] NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI lượng giống 2-2,5kg/500m2, hoặc cấy thưa, cấy 1-2 dảnh/khóm). Bón phân cân đối (NPK), không bón thừa đạm. Tăng cường phân hữu cơ, sau bón thúc đẻ nhánh cần làm cỏ, sục bùn và giữ ấm đồng ruộng. Khi lúa bị bệnh đạo ôn, tuyệt đối không bón đạm, hoặc phun bất kỳ một loại kích thích sinh trưởng hoặc phân bón lá mà nông dân cần giữ đủ ẩm (nước) trên ruộng, phun thuốc đặc hiệu theo 4 đúng, khi bệnh ngừng hẳn mới tiến hành bón bổ sung thêm. Ở những khu đồng có điều kiện tưới tiêu thì khi lúa đẻ nhánh rộ cần tiến hành để khô ruộng từ từ cho đến nứt chân chim và khi lúa đứng cái cho nước vào bón thúc. 5.3. Biện pháp sử dụng các chế phẩm sinh học, chất kích thích kháng Theo Lăng Cảnh Phú và Phạm Văn Kim, (2000), sử dụng vi khuẩn hoại sinh Flavi- monas Oryzihabitans với mật số 108 CFU/ml lên lá lúa trên giống OM 269 và MLT 265, sau đó phun nấm Pyricularia Oryzae Cav. tấn công cây lúa. Kết quả cho thấy vi khuẩn có khả năng kích kháng tốt, giúp cây lúa giảm từ 60- 69% bệnh so với đối chứng, 28 ngày sau khi tấn công vi khuẩn này không gây tác hại cho cây trồng. Theo Ngô Chí Thành và ctv, (2003) khi nghiên cứu về diễn biến hoạt tính của Cata- lase và Peroxidase trong kích thích tính kháng lưu dẫn của clorua đồng, acibenzolar- S- methyl và nấm Colletotrichum sp. đối với bệnh đạo ôn cho thấy, hiệu quả giảm bệnh đạo ôn được xử lý với clorua đồng là 68,7%, acibenzolar - S - methyl là 68,4%, Col- letotrichum sp. là 60,2%. Kết quả này cho thấy clorua đồng, acibenzolar- S- methyl và nấm Colletotrichum sp là những tác nhân kích kháng lưu dẫn chống bệnh đạo ôn của lúa. Điều đó chứng tỏ 3 tác nhân gây kích kháng trên đã kích thích cơ chế kháng bệnh bên trong cây lúa được xử lý bằng