Việt Nam được coi là một trong những nơi phát
sinh cây lúa, lúa được thuần hóa và trồng cấy từ 4000
năm nay. Với điều kiện khí hậu nhiệt đới, lượng mưa
hàng năm lớn, rất thích hợp cho cây lúa sinh trưởng
và phát triển. Cùng với việc áp dụng giống mới, đầu
tư phân bón cao thì cũng không tránh khỏi các đối
tượng dịch hại ngày càng nghiêm trọng, đặc biệt là
bệnh đạo ôn.
Các tỉnh vùng Khu 4 hàng năm gieo trồng 670.000-
680.000ha lúa. Việc mở rộng diện tích lúa đặc sản, lúa
hàng hóa chất lượng đang gặp phải một trở ngại lớn
là mức độ và quy luật phát sinh của một số đối tượng
sâu bệnh chủ yếu ngày càng phức tạp. Trong đó bệnh
đạo ôn hại lúa (Pyricularia oryzae Cav.) là một trong
những bệnh hại lúa nguy hiểm, gây hại nghiêm trọng
cả trên lá và cổ bông. Mức độ và tác hại của bệnh thay
đổi liên quan đến nhiều yếu tố như: giống lúa, thời kỳ
sinh trưởng, chế độ canh tác, mùa vụ, phân bón, khí
hậu, thời tiết
8 trang |
Chia sẻ: thuylinhqn23 | Ngày: 08/06/2022 | Lượt xem: 415 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bệnh đạo ôn hại lúa và biện pháp quản lý, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí
KH-CN Nghệ AnSỐ 3/2018 [16]
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
1. Mở đầu
Việt Nam được coi là một trong những nơi phát
sinh cây lúa, lúa được thuần hóa và trồng cấy từ 4000
năm nay. Với điều kiện khí hậu nhiệt đới, lượng mưa
hàng năm lớn, rất thích hợp cho cây lúa sinh trưởng
và phát triển. Cùng với việc áp dụng giống mới, đầu
tư phân bón cao thì cũng không tránh khỏi các đối
tượng dịch hại ngày càng nghiêm trọng, đặc biệt là
bệnh đạo ôn.
Các tỉnh vùng Khu 4 hàng năm gieo trồng 670.000-
680.000ha lúa. Việc mở rộng diện tích lúa đặc sản, lúa
hàng hóa chất lượng đang gặp phải một trở ngại lớn
là mức độ và quy luật phát sinh của một số đối tư ợng
sâu bệnh chủ yếu ngày càng phức tạp. Trong đó bệnh
đạo ôn hại lúa (Pyricularia oryzae Cav.) là một trong
những bệnh hại lúa nguy hiểm, gây hại nghiêm trọng
cả trên lá và cổ bông. Mức độ và tác hại của bệnh thay
đổi liên quan đến nhiều yếu tố nh ư: giống lúa, thời kỳ
sinh trư ởng, chế độ canh tác, mùa vụ, phân bón, khí
hậu, thời tiết Vụ xuân 2017, bệnh đạo ôn cổ bông
đã phát sinh gây hại trên 22.636,1ha, trong đó nặng
7.825,8ha, (mất trắng 13.238,5ha), tỷ lệ bệnh
phổ biến 5-10%, nơi cao 15-70%. Bài viết
này cung cấp những thông tin, dữ liệu khoa
học về bệnh đạo ôn hại lúa và biện pháp
phòng trừ.
2. Triệu chứng bệnh đạo ôn Pyricularia
oryzae Cav
Bệnh đạo ôn phát sinh gây hại cả trên mạ
và trên lúa cấy ở các thời kỳ sinh trưởng,
phát triển ngoài đồng ruộng. Cây lúa có thể
bị bệnh ở các bộ phận khác nhau như cổ lá,
phiến lá, đốt thân, cổ bông, cổ gié, hạt. Dựa
vào vị trí bị bệnh, người ta phân chia các
dạng hình bệnh: đạo ôn lá, đạo ôn đốt thân,
đạo ôn cổ bông
- Vết bệnh trên lá mạ, lá lúa: Lúc đầu là
những chấm nhỏ màu hơi vàng mờ. Vài
ngày sau, vết bệnh kéo dài về hai phía, phình
to ở giữa tạo thành vết bệnh có dạng hình
thoi, ở giữa vết bệnh màu xám tro, có một
viền nâu, xung quanh vết bệnh có thể có
n Nguyễn Tuấn Lộc
Trung tâm BVTV vùng Khu 4
BỆNH ĐẠO ÔN HẠI LÚA VÀ BIỆN PHÁP QUẢN LÝ
Tạp chí
KH-CN Nghệ AnSỐ 3/2018 [17]
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
quầng vàng (tùy theo loại giống). Đây là vết
bệnh đặc trưng. Trong điều kiện thời tiết phù
hợp cho bệnh phát triển, điều kiện dinh
dưỡng đạm quá nhiều thì triệu chứng vết
bệnh ban đầu là một chấm nhỏ, sau lan rộng
ra có màu xanh tái, kéo dài nhiều ngày. Đó
là vết bệnh cấp tính, sau mới chuyển thành
vết bệnh đạo ôn đặc trưng (dạng vết bệnh
mãn tính). Kích thước vết bệnh hình thoi
dao động trong khoảng 0,5 - 4 x 1 - 25mm.
Trong trường hợp bệnh phát triển mạnh,
nhiều vết bệnh nhỏ liên kết nối liền với
nhau tạo thành một dải vết bệnh, lá cháy
khô lụi đi nhanh chóng.
- Vết bệnh trên cổ lá: Lúc đầu là chấm
nâu, sau phát triển thành vết nâu hình khum
theo chiều cong giữa cổ lá và phiến lá. Khi
cổ lá bị bệnh toàn lá tái xanh, xám, khô lụi,
gẫy gục xuống.
- Vết bệnh trên đốt thân: Lúc đầu là một
đốm nhỏ màu nâu sau lớn rộng ra thành một
vành tròn bao quanh đốt thân làm cho thân
lõm tóp lại, màu nâu đen. Khi trời mưa ẩm,
đốt thân bị bệnh mềm nhũn, dễ bị gãy gập
khi gặp giông, gió.
- Vết bệnh trên cổ bông: Trên cổ bông,
cổ gié có vết bệnh lúc đầu là đốm nhỏ, sau
lan ra theo chiều dài làm cả đoạn cổ bông
có màu nâu xám, khô tóp lại, cả bông lép
trắng nếu nhiễm bệnh sớm ngay thời gian
trỗ. Trong trường hợp nhiễm bệnh muộn
vào thời kỳ làm hạt - chín thì gây ra hiện
tượng nhiều hạt lép lửng, bông lúa nhỏ, dễ
gãy cổ bông, rụng gié, dẫn đến làm giảm
năng suất lúa.
- Vết bệnh trên hạt: Vết bệnh gây hại trên
hạt không đồng nhất về hình dạng như trên
lá lúa mà có dạng đốm tròn hoặc không định
hình, có màu nâu đen hoặc xám. Nấm ký
sinh ở vỏ trấu và có thể ở bên trong hạt. Hạt
giống bị nhiễm bệnh là nguồn bệnh truyền
từ vụ này qua vụ khác.
Trên bề mặt vết bệnh ở các bộ phận: lá,
đốt thân, cổ bông đều có thể hình thành bào
tử trông như một lớp mốc xám.
3. Các yếu tố ảnh hưởng đến phát sinh
gây hại của bệnh đạo ôn
3.1. Ảnh hưởng của điều kiện thời tiết, khí hậu
đến bệnh đạo ôn
Bệnh đạo ôn có thể phát sinh gây hại với các mức
độ khác nhau, trên các mùa vụ khác nhau. Riêng ở các
tỉnh miền Bắc, bệnh phát sinh gây hại ở vụ lúa chiêm
xuân thường lớn hơn vụ lúa mùa.
Ở vụ chiêm xuân, bệnh thường xuất hiện vào tháng
1, 2 trên mạ chiêm, đầu tháng 3 bệnh xuất hiện cục bộ
trên lúa xuân đẻ nhánh. Từ giữa tháng 3 đến giữa
tháng 5, bệnh thường phát sinh gây hại mạnh trên diện
rộng. Trên các trà lúa mùa bệnh phát sinh vào thời kỳ
lúa trỗ trở đi từ tháng 10-11. Điều đó chứng tỏ bệnh
đạo ôn phát sinh theo quy luật chung trong những
tháng có nhiều ngày liên tiếp đảm bảo nhiệt độ 18-
250C, ẩm độ cao trên 90%, mưa lai rai, số giờ nắng ít
(nhỏ hơn 2 giờ/ngày).
Những kết quả nghiên cứu ở Viện Lúa đồng bằng
sông Cửu Long cũng cho thấy các tác động ảnh hưởng
của điều kiện khí hậu tới bệnh đạo ôn. Mật độ bào tử
bắt được trong bẫy tỷ lệ thuận với ẩm độ không khí.
Sự phát tán của bào tử nấm Pyricularia oryzae Cav
mạnh nhất trong các tháng 8, 9 và tháng 11 trong năm.
Lượng mưa trong các tháng ở mùa mưa tỷ lệ thuận với
sự nhiễm bệnh của cây ký chủ.
3.2. Ảnh hưởng của dinh dưỡng, chế độ bón phân
đến bệnh đạo ôn
Nhiều kết quả nghiên cứu và cho rằng, đạm, kali
bón nhiều không hợp lý đều làm cho bệnh đạo ôn phát
triển mạnh.
Đạm là yếu tố dinh dưỡng ảnh hưởng lớn đến bệnh
đạo ôn, làm giảm tính chống chịu bệnh, hạn chế quá
Nguyên nhân gây bệnh do nấm Pirycularia oryzae Cav. gây ra
Tạp chí
KH-CN Nghệ AnSỐ 3/2018 [18]
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
trình silic hóa của tế bào làm tăng hàm lượng
axit amin tự do trong cây.
3.3. Ảnh hưởng của chế độ nước, mật
độ, thời vụ đến bệnh đạo ôn
Chế độ nước và mật độ có ảnh hưởng trực
tiếp đến chế độ dinh dưỡng của cây. Nước là
môi trường hòa tan các chất dễ tiêu cho cây
hấp thu. Nhờ nước, các hợp chất silic có thể
hòa tan để cây hấp thụ đẩy nhanh quá trình
silic hóa vách tế bào, biểu bì, tăng sức chống
chịu bệnh đạo ôn, hạn chế ảnh hưởng của đạm
đối với bệnh.
Bệnh đạo ôn phát triển mạnh hơn ở
những ruộng có mật độ cấy quá cao, các trà
lúa xuân cấy sớm và mùa muộn thường bị
đạo ôn phá hại sớm và kéo dài.
4. Tổng hợp những nghiên cứu về
chủng nấm sinh lý gây bệnh và tính chống
chịu bệnh đạo ôn của các giống lúa
Nấm bệnh đạo ôn là loại nấm ký sinh
chuyên tính, quần thể loại nấm đạo ôn Pyric-
ularia oryzae Cav. không đồng nhất về tính
độc, tính gây bệnh. Trong tự nhiên, tính gây
bệnh của nấm đạo ôn luôn biến đổi do đột
biến và do sự biến động của các yếu tố sinh
thái địa lý và sự xuất hiện của các giống lúa
khác nhau. Từ đó hình thành nên các nòi
sinh lý (race) của nấm đạo ôn.
Ở Việt Nam, từ 1976, những khảo sát về
sự phổ biến các nhóm nòi đạo ôn bước đầu
được tiến hành ở Viện Bảo vệ thực vật và
Trường Đại học Nông Nghiệp I - Hà Nội.
Kết quả cho thấy, toàn bộ 8 giống lúa trong
bộ giống lúa quốc tế chỉ thị nòi nhiễm bệnh
khác nhau trong một số vùng miền Bắc và
miền Nam. Ở vùng Bắc Hà, toàn bộ giống
chỉ thị nhóm nòi A, B, C, D, IE, IF, H đều bị
nhiễm bệnh đạo ôn nặng từ cấp 5-9. Nhưng
ở vùng Điện Biên, 3 trong 8 giống quốc tế
chỉ thị nòi lại nhiễm đạo ôn rất nhẹ ở cấp
bệnh từ cấp 1-2. Đó là giống Raminad St- 3
chỉ thị nhóm nòi A, giống Zenith chỉ thị nòi
B, giống Usen chỉ thị nhóm nòi D. Ở vùng
Tiền Giang chỉ có giống Usen chỉ thị nhóm
nòi D nhiễm đạo ôn nặng ở cấp 6, còn các
giống Zenith chỉ thị nòi B và giống Kunto -
51 chỉ thị nhóm nòi IF chống bệnh cao chỉ
nhiễm ở cấp 1. Các giống khác còn lại nhiễm
Các vết bệnh đạo ôn kế tiếp nhau gây héo lá mạ
Vết bệnh đạo ôn trên lá lúa
Vết chấm dạng hình thoi đặc trưng, viền nâu, tâm màu xám trắng
Tạp chí
KH-CN Nghệ AnSỐ 3/2018 [19]
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
đạo ôn trung bình ở cấp 3- 4 như giống NP -
125 chỉ thị nhóm nòi C, giống Dular chỉ thị
nhóm nòi IE và giống Caloro chỉ thị nhóm
nòi H
Cho đến năm 1985-1987, những kết quả
nghiên cứu bổ sung đã bắt đầu khẳng định
rõ hơn ở vùng Quảng Nam - Đà Nẵng chủ
yếu có 3 nhóm nòi đạo ôn trong 5 là nhóm
nòi IB, IC, IF. Trong đó, nhóm nòi IB phổ
biến hơn chiếm ưu thế trong vụ đông xuân
còn nhóm nòi IC và IF chiếm ưu thế trong
vụ lúa xuân hè, nhóm nòi IC chiếm ưu thế
trong vụ lúa hè thu.
Trong thí nghiệm với 12 nguồn mẫu nấm
phân lập từ 12 tỉnh ở các vùng địa lý khác
nhau của nước ta, sơ bộ phân định ra 5 nhóm
nòi chủ yếu như sau:
Nhóm nòi IA: Có mặt ở vùng Tiền Giang,
Sơn La.
Nhóm nòi IB: Có mặt ở Quảng Nam - Đà
Nẵng, Nghệ Tĩnh, Hà Nam Ninh, Hà Nội,
Hải Phòng, Hải Hưng, Hà Bắc.
Nhóm nòi IC: Có mặt ở vùng Quảng Nam
- Đà Nẵng, Vĩnh Phúc.
Nhóm nòi ID: Có mặt ở Thái Bình, Hà
Bắc.
Nhóm nòi IF: Có mặt ở Quảng Nam -
Đà Nẵng.
Kết quả nghiên cứu phối hợp giữa
Trường Đại học Nông Nghiệp I và Viện
Khoa học kỹ thuật Nông nghiệp Việt Nam
cho thấy, các nòi nấm có tính độc khác nhau.
Mẫu phân lập nấm đạo ôn ở vùng Nghệ Tĩnh
có tính độc cao hơn và đặc tính sinh trưởng
khác nhau so với mẫu nấm đạo ôn ở vùng
Điện Biên.
Theo tác giả Lê Đình Đôn, YuKio Tosa,
Hitoshi Nakayazshiki và Shigeyuki Mayama
(1999), khi nghiên cứu cấu trúc quần thể
nấm Pyricularia oryzae Cav. Ở Việt Nam,
đã thu thập được 78 mẫu phân lập ở Đồng
bằng sông Hồng (Hà Tây, Thái Bình) và
Đồng bằng sông Cửu Long (Long An, Tiền
Giang, Hậu Giang). Kết quả cho thấy, có 4
dòng nấm được tìm thấy ở miền Bắc là VL1,
VL2, VL3, VL4. Trong đó, dòng VL2 chiếm
ưu thế và chỉ 1 dòng được tìm thấy ở Đồng
bằng sông Cửu Long là VL5. Trong số các
mẫu phân lập tham gia thí nghiệm có 15 nòi được tìm
ra đó là: 000, 002, 200, 122, 232, 102, 103, 105, 106,
107, 112, 132, 502, 505, 507. Sự phân bố các nòi này
cũng khác nhau ở miền Bắc và miền Nam. Nòi 000
chiếm ưu thế ở vùng Đồng bằng sông Hồng còn ở
vùng Đồng bằng sông Cửu Long thì nòi 102 lại chiếm
ưu thế và không có nòi nào được tìm thấy ở cả 2 vùng
đồng bằng.
Nado Takahito, Nagao Hayashi, Phan Văn Du,
Hoàng Dinh Dinh and Lai Van E, October (1999) khi
nghiên cứu về các chủng sinh lý của nấm Pyricularia
ôryzae Cav. Ở Việt Nam đã thu được 129 mẫu và sắp
xếp vào 12 chủng sinh lý dựa trên cơ sở tính độc của
12 giống lúa khác nhau ở miền Bắc Việt Nam. Trong
đó có chủng 002.4 chiếm 31% của các mẫu phân lập,
chủng 106.4 chiếm 19,4%, chủng 006.4 chiếm 17,1%,
chủng 102.4 chiếm 14,7% và chủng 002.0 chiếm 7%
còn 7 chủng khác là các chủng thứ yếu ở Việt Nam.
Bigimana.J, NT Ninh Thuân (2002) đã xác định
được 114 mẫu phân lập thu thập cuối vụ 2001 tại 11
tỉnh miền Bắc Việt Nam. Hầu hết các nòi nấm Pyric-
ularia oryzae Cav. đều không lan rộng, tại miền Bắc
87% số mẫu phân lập đã được xác định thuộc 3 nhóm
nòi. Nhóm nòi lớn nhất chiếm 52% tổng số lượng mẫu
phân lập ở miền Bắc, miền Nam và miền Trung nước
ta cho thấy hầu hết các mẫu phân lập đều thuộc Mat
1-2. Mặt khác nghiên cứu trên 9 mẫu phân lập thu thập
ở cả 3 miền Bắc, Trung, Nam; 6 mẫu phân lập ở
Brundi và 5 mẫu phân lập từ Ấn Độ đã phân ra được
8 nhóm nòi khác nhau trong đó số mẫu phân lập giống
nhau chiếm tới 80%.
Việc nghiên cứu và sử dụng các giống chống bệnh
đạo ôn ở nước ta được tiến hành rộng rãi, kết quả bước
đầu đã phát hiện được trong tập đoàn giống cổ truyền
Việt Nam có nhiều giống chống chịu bệnh cao như:
Tẻ Tép, Chiêm Chanh Phú Thọ, Chiêm Bầu Thanh
Hóa, Gié, Tép Sài Gòn, Nàng Thơm, Nàng Chét
Nhiều giống nhập nội được chọn lọc lai tạo có tính
chống bệnh đạo ôn ở nhiều vùng như: NN 75-2, NN-
3B, NN-3A, IR1820, IR56, IR64
Chọn tạo giống kháng bệnh đạo ôn theo phương
pháp phả hệ là một phương pháp có khả năng định
hướng trước từ giai đoạn chọn bố mẹ để truyền lại cho
con cháu ở các thế hệ sau trong quá trình tái tổ hợp
các gen kháng. Phương pháp nuôi cấy túi phấn từ cây
F1 cũng có thể có nhiều khả năng cho ta một kết quả
tốt nhờ cố định được tính trội, kháng bệnh đạo ôn ở
thế hệ F1.
Tạp chí
KH-CN Nghệ AnSỐ 3/2018 [20]
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
Theo tác giả Lê Xuân Cuộc, Vũ Tuyên
Hoàng, Hà Minh Trung, (1993) [8] về di
truyền tính kháng bệnh đạo ôn ở 2 giống
CH3 và CH133 do Viện Cây lương thực và
thực phẩm chọn từ cặp lai DCH1/424 và lúa
khô Nghệ An/Xuân số 2 đã kết luận:
Mỗi giống có ít nhất 1 gen trội riêng
kháng bệnh đạo ôn. Đây là cơ sở cho công
tác lai tạo giống kháng bệnh đạo ôn có hiệu
quả trong sản xuất.
Lê Xuân Cuộc và ctv, (1994) cho thấy,
các nòi nấm Pyricularia oryzae Cav. rất dễ
bị biến dị và tạo ra nòi mới, sinh ra các độc
tính và khả năng xâm nhiễm khác nhau trên
cây lúa.
Theo Hà Minh Trung, Ngô Vĩnh Viễn và
ctv (1991-1995) sau khi nghiên cứu về thời
gian duy trì tính kháng bệnh của một số
giống lúa kháng bệnh đạo ôn ở các vùng sinh
thái khác nhau cho thấy, sự thay đổi khả
năng ký sinh của nấm gây bệnh đạo ôn được
biểu hiện rõ nhất là sự đổ vỡ tính kháng bệnh
của các giống kháng bệnh sau một thời gian
gieo cấy trên đồng ruộng. Ở các vùng sinh
thái khác nhau, tốc độ thay đổi khả năng ký
sinh của nấm gây bệnh đạo ôn cũng khác
nhau, ngoài ra nguyên nhân gây nên sự đổ
vỡ tính kháng còn phụ thuộc vào gen kháng.
Như vậy, tuyển chọn gen kháng bệnh là vấn
đề được quan tâm trong công tác lai tạo và
tuyển chọn giống kháng bệnh.
Theo Hà Minh Trung và ctv, (1996-
1997), kết quả nghiên cứu phản ứng của các
giống lúa với các đơn bào tử nấm gây bệnh
đạo ôn ở các vùng sinh thái khác nhau cho
thấy: Không phải 1 giống lúa bị nhiễm bệnh
đạo ôn trên đồng ruộng là nhiễm tất cả các
nguồn nấm đạo ôn. Chúng chỉ nhiễm một
vài isolate và cũng kháng một vài isolate.
Ngay cả giống Tẻ Tép được coi là kháng
bệnh cao nhưng cũng nhiễm một vài isolate
nấm Pyricularia oryzae Cav. Tuy nhiên,
phải khẳng định giống Tẻ Tép kháng với
hầu hết nguồn nấm gây bệnh đạo ôn ở các
vùng khác nhau.
Trong thí nghiệm tiến hành ở IRRI cuối
năm 1995 đến đầu năm 1996 thử phản ứng
của các giống lúa gieo cấy phổ biến ở nước
Phun thuốc hóa học khi bệnh gây hại nặng
Biện pháp phòng trừ bệnh đạo ôn:
Áp dụng kỹ thuật thâm canh lúa cải tiến SRI
Sử dụng giống kháng bệnh
Tạp chí
KH-CN Nghệ AnSỐ 3/2018 [21]
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
ta với nguồn nấm Pyricularia oryzae Cav.
gây bệnh đạo ôn ở IRRI cũng phần nào nói
lên sự phong phú của quần thể nấm gây
bệnh đạo ôn. Đặc biệt là nấm bệnh đã gây
hại được trên giống Tẻ Tép thì có sức gây
bệnh cao đối với các giống khác. Do vậy,
việc tạo giống kháng bệnh đạo ôn bằng
cách lai hữu tính giữa các giống có nguồn
gen khác nhau sẽ tạo ra được con lai kháng
bệnh trên đồng ruộng.
Hà Minh Trung và ctv (1996-1997) khi
nghiên cứu về khả năng sinh sản thế hệ nấm
Pyricularia oryzae Cav. mới trên một số
giống lúa cho thấy: Nguồn nấm Pyricularia
oryzae Cav. trên đồng ruộng là rất phong
phú. Trong điều kiện tự nhiên, quần thể nấm
này luôn thay đổi mà nguyên nhân là do đột
biến, lai tạo và sự di chuyển của nấm từ vùng
này sang vùng khác. Người ta nhận thấy
rằng trên đồng ruộng gieo trồng một loại
giống lúa chủ lực nhiều năm liền sẽ là
nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ nhanh chóng
tính kháng của giống. Do vậy, gieo cấy đa
dạng hóa nguồn gen kháng bệnh trên đồng
ruộng sẽ góp phần hạn chế phạm vi gây hại
của bệnh đạo ôn ở một số địa phương.
Khi đánh giá tính kháng bệnh đạo ôn của
một số giống lúa đang trồng phổ biến ở
Đồng bằng sông Cửu Long gồm các dòng,
giống triển vọng và các giống nhập nội, tác
giả Lưu Văn Quỳnh và Bùi Bá Bổng, (1998)
đã nhận định rằng: Số lượng giống kháng
cao và kháng ổn định qua các vùng sinh thái
ở Đồng bằng sông Cửu Long là thấp, trong
khi đó giống nhiễm cao chiếm gần 30% và
giống kháng không ổn định chiếm 50% số
giống thử nghiệm.
Lưu Văn Quỳnh và Bùi Bá Bổng (1998)
khi nghiên cứu về tính kháng bền của các
giống lúa đối với bệnh đạo ôn ở Đồng bằng
sông Cửu Long thì thấy rằng, trong 500
giống lúa, qua 7 thí nghiệm đã xác định 16
giống lúa có chỉ số SDI bằng hoặc nhỏ hơn
5 được xem như là có khả năng kháng bền
(tính kháng được xác định thông qua chỉ số
SDI) trong khi đó giống Tẻ Tép cho chỉ số
SDI là 6. Giống IR64 được đưa vào sản xuất
trên 10 năm vẫn duy trì tính kháng bền.
Nghiên cứu của Phan Hữu Tôn, (2004) trên 24
dòng lúa chứa các gen chống bệnh khác nhau với 4
isolate nấm Pyricularia oryzae Cav., kết quả cho thấy,
10 dòng chống được 3 isolate, 3 dòng chống được 2
isolate và chỉ có 3 dòng chống được 1 isolate. Điều đó
chứng tỏ các gen khác nhau thì khả năng chống isolate
bệnh đạo ôn cũng khác nhau.
Kết quả giám định về các chủng sinh lý (race) của
nấm Pyricularia oryzae Cav. tại Hà Tĩnh vụ xuân
2017 của Bộ môn Bệnh cây, Học viện Nông nghiệp
Việt Nam, Viện Bảo vệ thực vật đã xác định có 4 nòi
cùng xuất hiện, gây hại các nòi nấm gây bệnh đạo ôn
ở Hà Tĩnh khác nòi 106,4 đã được công bố năm 1999.
Kết quả nghiên cứu cũng chỉ ra trên một giống có thể
có 2 hay nhiều nòi bệnh đạo ôn gây hại; một nòi có
thể gây hại nhiều giống khác nhau. Các nhà khoa học
của Học viện Nông nghiệp Việt Nam và Viện Bảo vệ
thực vật tiếp tục nghiên cứu độc tính của các nòi gây
bệnh đạo ôn ở Hà Tĩnh để phục công tác chỉ đạo
phòng trừ bệnh.
5. Biện pháp phòng trừ bệnh đạo ôn
Nấm gây bệnh đạo ôn tồn tại trên hạt giống, rơm
rạ, cỏ dại, đất trồng, lúa chét sau gặt bằng sợi nấm và
bào tử truyền lan bệnh bằng nhiều con đường khác
nhau. Để phòng ngừa và khống chế bệnh gây hại, cần
thiết phải áp dụng đồng bộ một hệ thống các biện pháp
tổng hợp trong đó bao gồm hệ thống các biện pháp kỹ
thuật trồng trọt, sử dụng giống kháng bệnh, cơ cấu
theo mùa vụ thích hợp với các biện pháp hóa học
nhằm chủ động phòng ngừa bệnh và ngăn chặn sự phát
triển bệnh dịch, đảm bảo được năng suất ổn định của
các giống lúa gieo trồng.
5.1. Sử dụng giống kháng bệnh
Đây là biện pháp an toàn và hiệu quả nhất cho các
loài dịch hại nói chung và bệnh đạo ôn nói riêng. Hiện
nay, hầu hết các giống gieo trồng phổ biến ở Việt Nam
đều nhiễm bệnh đạo ôn. Các nghiên cứu chọn tạo
giống kháng bệnh đạo ôn đang được các nhà chọn tạo
giống nghiên cứu lai tạo nhằm phục vụ nhu cầu của
sản xuất trong tương lai gần.
5.2. Biện pháp canh tác
Điều chỉnh hợp lý các biện pháp canh tác có tác
dụng phòng ngừa, hạn chế nguồn bệnh lây lan, đồng
thời điều hòa môi trường sống và sự sinh trưởng phát
triển của cây, nâng cao tính chống chịu bệnh là biện
pháp chính trong công tác phòng trừ đạo ôn.
Áp dụng kỹ thuật thâm canh lúa cải tiến SRI, gieo,
cấy mật độ hợp lý tùy theo từng chân đất (gieo sạ với
Tạp chí
KH-CN Nghệ AnSỐ 3/2018 [22]
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
lượng giống 2-2,5kg/500m2, hoặc cấy thưa,
cấy 1-2 dảnh/khóm). Bón phân cân đối
(NPK), không bón thừa đạm. Tăng cường
phân hữu cơ, sau bón thúc đẻ nhánh cần làm
cỏ, sục bùn và giữ ấm đồng ruộng.
Khi lúa bị bệnh đạo ôn, tuyệt đối không
bón đạm, hoặc phun bất kỳ một loại kích thích
sinh trưởng hoặc phân bón lá mà nông dân
cần giữ đủ ẩm (nước) trên ruộng, phun thuốc
đặc hiệu theo 4 đúng, khi bệnh ngừng hẳn
mới tiến hành bón bổ sung thêm.
Ở những khu đồng có điều kiện tưới tiêu thì
khi lúa đẻ nhánh rộ cần tiến hành để khô ruộng
từ từ cho đến nứt chân chim và khi lúa đứng cái
cho nước vào bón thúc.
5.3. Biện pháp sử dụng các chế phẩm
sinh học, chất kích thích kháng
Theo Lăng Cảnh Phú và Phạm Văn Kim,
(2000), sử dụng vi khuẩn hoại sinh Flavi-
monas Oryzihabitans với mật số 108 CFU/ml
lên lá lúa trên giống OM 269 và MLT 265,
sau đó phun nấm Pyricularia Oryzae Cav. tấn
công cây lúa. Kết quả cho thấy vi khuẩn có
khả năng kích kháng tốt, giúp cây lúa giảm từ
60- 69% bệnh so với đối chứng, 28 ngày sau
khi tấn công vi khuẩn này không gây tác hại
cho cây trồng.
Theo Ngô Chí Thành và ctv, (2003) khi
nghiên cứu về diễn biến hoạt tính của Cata-
lase và Peroxidase trong kích thích tính
kháng lưu dẫn của clorua đồng, acibenzolar-
S- methyl và nấm Colletotrichum sp. đối với
bệnh đạo ôn cho thấy, hiệu quả giảm bệnh
đạo ôn được xử lý với clorua đồng là 68,7%,
acibenzolar - S - methyl là 68,4%, Col-
letotrichum sp. là 60,2%. Kết quả này cho
thấy clorua đồng, acibenzolar- S- methyl và
nấm Colletotrichum sp là những tác nhân
kích kháng lưu dẫn chống bệnh đạo ôn của
lúa. Điều đó chứng tỏ 3 tác nhân gây kích
kháng trên đã kích thích cơ chế kháng bệnh
bên trong cây lúa được xử lý bằng