Biện chứng cái đẹp trong xã hội thông qua ngũ luân. Minh họa bằng các tác phẩm nghệ thuật, ca dao, tục ngữ để làm rõ điều đó

Con người đồng hoá thế giới theo nhiều quy luật khác nhau trong đó có quy luật của cái đẹp. Trong cuộc sống con người cái đẹp luôn là người bạn đồng hành khắp mọi nơi, cái đẹp vây quanh con người trong mỗi bước đi, mỗi việc làm, mỗi hành vi ứng xử. Ở đâu có cuộc sống con người là ở đó có cái đẹp. Cái đẹp luôn là khát khao vươn tới của con người. Bởi vậy trong lịch sử tư tưởng Mỹ học cái đẹp là phạm trù thẩm mỹ xuất hiện sớm nhất. Với tư cách là chủ thể thẩm mỹ con người luôn đi tìm cái đẹp, khám phá cái đẹp và cao hơn là sáng tạo cái đẹp. Quan niệm về cái đẹp trong quan hệ ngũ luân của nho giáo thể hiện quan hệ : Vua - tôi, Thầy - trò, bố mẹ - con cái, vợ chồng, anh em - bạn bè. Đó chính là cách nhìn nhận cái đẹp của con người trong phép ứng xử với xã hội. Bàn về cái đẹp đây là một phạm trù đứng ở vị trí trung tâm trong mối quan hệ thẩm mỹ con người với hiện thực. Cái đẹp có mặt ở khắp mọi nơi trong cuộc sống quanh ta được biểu hiện qua muôn vàn những sự vật, hiện tượng những kích thước màu sắc, hình dạng phẩm chất khác nhau. Từ những cái đẹp tự nhiên cho đến những hành động, cử chỉ, ánh mắt, lời nói và hình thể đều chứa đựng yếu tố của cái đẹp, hiện thân của cái đẹp.

doc18 trang | Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 2037 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Biện chứng cái đẹp trong xã hội thông qua ngũ luân. Minh họa bằng các tác phẩm nghệ thuật, ca dao, tục ngữ để làm rõ điều đó, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Biện chứng cái đẹp trong xã hội thông qua ngũ luân. Minh họa bằng các tác phẩm nghệ thuật, ca dao, tục ngữ để làm rõ điều đó. MỞ ĐẦU Con người đồng hoá thế giới theo nhiều quy luật khác nhau trong đó có quy luật của cái đẹp. Trong cuộc sống con người cái đẹp luôn là người bạn đồng hành khắp mọi nơi, cái đẹp vây quanh con người trong mỗi bước đi, mỗi việc làm, mỗi hành vi ứng xử. Ở đâu có cuộc sống con người là ở đó có cái đẹp. Cái đẹp luôn là khát khao vươn tới của con người. Bởi vậy trong lịch sử tư tưởng Mỹ học cái đẹp là phạm trù thẩm mỹ xuất hiện sớm nhất. Với tư cách là chủ thể thẩm mỹ con người luôn đi tìm cái đẹp, khám phá cái đẹp và cao hơn là sáng tạo cái đẹp. Quan niệm về cái đẹp trong quan hệ ngũ luân của nho giáo thể hiện quan hệ : Vua - tôi, Thầy - trò, bố mẹ - con cái, vợ chồng, anh em - bạn bè. Đó chính là cách nhìn nhận cái đẹp của con người trong phép ứng xử với xã hội. Bàn về cái đẹp đây là một phạm trù đứng ở vị trí trung tâm trong mối quan hệ thẩm mỹ con người với hiện thực. Cái đẹp có mặt ở khắp mọi nơi trong cuộc sống quanh ta được biểu hiện qua muôn vàn những sự vật, hiện tượng những kích thước màu sắc, hình dạng phẩm chất khác nhau. Từ những cái đẹp tự nhiên cho đến những hành động, cử chỉ, ánh mắt, lời nói và hình thể đều chứa đựng yếu tố của cái đẹp, hiện thân của cái đẹp. NỘI DUNG I. PHẠM TRÙ CÁI ĐẸP TRONG MỸ HỌC 1. Cái đẹp Cái đẹp là một phạm trù mỹ học cơ bản, quan trọng. Nó là nền tảng, là xuất phát điểm mà các phạm trù khác phải chuyển động xung quanh nó, để tôn vinh nó, phục vụ nó. Trong việc đánh giá về cái đẹp có một phần rất quan trọng nếu không muốn nói là quyết định ở phía chủ quan. Mà nói đến chủ quan là nói đến những tiêu chuẩn đánh giá rất khác biệt nhau do thực tiễn xã hội và cá nhân không giống nhau. Vì thế mà hàng ngàn năm nhân loại đi tìm kiếm một khái niệm phổ biến về cái đẹp mà vẫn chưa thể minh định rõ ràng. Phạm trù cái đẹp thể hiện trong nhiều mặt: cái đẹp trong tự nhiên, cái đẹp trong xã hội, cái đẹp trong nghệ thuật. Nói về cái đẹp thì phải đạt hai tiêu chí: chân, thiện, mỹ và tính nhân dân, nhân loại. Cái đẹp có mặt ở khắp mọi nơi trong cuộc sống của chúng ta được biểu hiện qua muôn vàn những sự vật, hiện tượng. Khi tiếp xúc với cái đẹp ta cảm thấy dễ chịu, khoan khoái, phấn chấn trong lòng. Gần gũi với cái đẹp ta như quên hết mọi âu lo phiền muộn của đời thường. Đã có bao nhiêu các triết gia lớn đã từng bàn về cái đẹp, bao nhiêu học thuyết mỹ học đã từng đề xuất khái niệm về cái đẹp nhưng hình như nó vẫn còn ở phía trước, bởi con người đã gặp trở ngại từ cả hai phía: khách quan và chủ quan. Mỹ học duy tâm khách quan lý giải cái đẹp từ trong thế giới của “tinh thần thượng đế” thì mỹ học duy tâm chủ quan (tiêu biểu là: hume, kant, Lalo) lại tuyệt đối hoá cái đẹp theo quan niệm chủ quan, tìm nguồn gốc của cái đẹp trong ý thức của chủ thể, trong cảm xúc chủ quan của cá nhân. Theo kant: “Cái đẹp không ở trên đôi má hồng của cô thiếu nữ mà trong con mắt của kẻ si tình”. Còn Lalo: “Thiên nhiên chỉ đẹp trong trường hợp sự thụ cảm thẩm mỹ cung cấp cái đẹp cho nó. Theo quan điểm mỹ học thiên nhiên chỉ đẹp do những gì mà nghệ thuật của chúng ta đã gửi gắm nó”. Cái đẹp chỉ được gọi là đẹp khi có phẩm chất hài hoà, câu đối, mực thước, số lượng, chất lượng và sự tiến bộ. Cái đẹp tồn tại trong tự nhiên, trong xã hội và trong nghệ thuật. Cái đẹp trong xã hội thể hiện qua tập quán nghi lễ, qua phép ứng xử con người với tự nhiên, với xã hội trong phạm vi quy mô từ nhỏ đến lớn… 2. Cái đẹp trong xã hội Cái đẹp trong xã hội là kết quả của hoạt động thực tiễn của con người. Hoạt động thực tiễn của con người thì vô cùng phong phú nên trong đời sống xã hội cái đẹp cũng được biểu hiện dưới muôn hình nghìn vẻ khác nhau. Cái đẹp cũng có mặt trong các hoạt động đa dạng của con người từ vui chơi giải trí đến các hoạt động lao động sản xuất, đấu tranh xã hội và các mối quan hệ phức tạp khác nhau của con người. Trong lĩnh vực này cái đẹp chịu sự chi phối trực tiếp của các quan điểm chính trị, đạo đức và không xa rời những tiêu chuẩn xã hội - thực tiẽn nhất định. Đặc biệt trong bản thân con người với sự hài hoà giữa hình thể bên ngoài với thế giới tinh thần bên trong là một nhân tố quan trọng làm nên cái đẹp trong xã hội. Sự tồn tại của cái đẹp trong mọi lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội chính là một thước đo trình độ văn minh của xã hội. Cái đẹp trong xã hội thể hiện qua tập quán nghi lễ, qua phép ững xử của con người với tự nhiên, con người với xã hội trong phạm vi vi mô gia đình đến phạm vi vĩ mô là xã hội, nhân gian mà quy tụ lại gọi là văn hoá ứng xử. Trong giới hạn của đề tài bài này tôi chỉ đề cấp đến cái đẹp trong ngũ luân của nho giáo về năm mối quan hệ xã hội. II. CÁI ĐẸP TRONG NGŨ LUÂN 1. Cái đẹp trong cách nhìn của nho giáo Trước hết để hiểu cái đẹp trong ngũ luân ta phải biết được cái đẹp trong văn hoá ứng xử là gì ? Văn hoá ứng xử là lối sống, suy nghĩ, hành động của con người với con người, con người với tự nhiên thể hiện qua từng đạo lý. Nho giáo là một tôn giáo có nguồn gốc ở Trung Hoa. Thời Xuân thu là thời kỳ nở rộ xuất hiện các nhà tư tưởng, các trào lưu triết học trong đó khổng tử - nhà tư tưởng vĩ đại mở đường cho thời kỳ cổ đại này. Thời đại Khổng Tử là thời đại mà theo ông “Lễ nhạc hư hỏng” cần phải khôi phục lại “lễ”. “Lễ” mà ông nói ở đây là lễ nghi, quy phạm đạo đức thời Tây Chu, tức là lễ nhà chu. Ông cho rằng: “vua không giữ đạo vưa, tôi không giữ đạo tôi, cha không giữ đúng đạo cha, con không làm đúng đạo con nên thiên hạ “vô đạo” và “thiên hạ đại loạn”. Do vậy phải lập kỷ cương cho vua ra vua, tôi ra tôi, cha ra cha, con ra con để thiên hạ “hữu đạo”, xã hội yên ổn. Và từ quy định trong năm mối quan hệ trong ngũ luân của nho giáo Trung Hoa khi được truyền sang Việt Nam nó đã được Việt Nam hoá phù hợp với đời sống đạo đức văn hoá của người Việt Nam để giảm bớt tính hà khắc trong ngũ luân. Đối với Nho giáo “Mỹ” gắn liền với “thiện”. “tận thiện, tận mỹ” là yêu cầu cao nhất của cái đẹp. Cả Khổng Tử và Mạnh Tử đều lấy cái đẹp gắn liền với cái thiện, mà hạt nhân của “thiện” là “lễ” và “nhân”. Nho giáo không đề cao cái đẹp tự nhiên mà đề cao cái đẹp: “khắc vàng vẻ nét, chạm trổ loá mắt” chỉ có cái đẹp tuyệt sảo này mới thống trị được nhân tâm (Qúach Mạt Nhược). Và ở góc độ nhìn nhận về cái đẹp trong ngũ luân với truyền thống văn hoá Việt Nam tôi chỉ đề cập đến mặt tích cực tạo nên cái đẹp trong mối quan hệ ngũ luận. Nho giáo muốn lập một trật tự vĩnh viễn để dứt loạn cho nên quy về quan hệ phức tạp vào chỉ năm quan hệ cường điệu trật tự trên dưới, định hình nghi lễ đòi hỏi con người khiêm cẩn theo nghi lễ. “Quân quân, thần thần, phụ phụ, tử tử”. Nho giáo lấy một cộng đồng làm mẫu mực: gia đình coi quan hệ cha con, anh em, vợ chồng lên từ ái, dưới cung thuận là đẹp đẽ nhất, bắt các quan hệ khác phải bắt chước sửa đổi theo thứ quan hệ tự nhiên, đơn giản nhưng đặc thù về mặt quan hệ giữa con người và con người ấy. Nho giáo quy tất cả mọi quan hệ thành chỉ năm (ngũ luân) hay chỉ ba (tam cương) tạo ra một xã hội luân thường xoá bỏ sự khác nhau thực tế và rất quan trọng giữa gia đình, xã hội và nhà nước. Trong ngũ luân con người không phải là những cá nhân có thân thể, dục vọng, có quyền lợi cá tính,… mà là những con người có chức năng luôn luôn phải giữ gìn khiêm tốn, cẩn thận từ nhìn ngó, ăn nói hành động nhất nấht phải theo đúng phận, đúng vị và khắc phục dục vọng cho hợp đạo nghĩa. Trong quan hệ người với người Nho giáo đề cao năm mối quan hệ và đưa ra các quy định cho mối quan hệ đó: Tôi phải trung với vua Con phải có hiếu với cha mẹ Em phải nghĩa anh Bạn bề phải tín thật. Hay: “Làm vua đứng ở điều nhân, làm tôi đứng ở điều kính, làm con phải đứng ở điều hiếu, làm cha phải đứng ở điều từ, giao tiếp với người trong nước đứng ở điều tin”. 2. Cái đẹp trong ngũ luân 2.1.Cái đẹp trong quan hệ vua tôi Nho giáo có nguồn gốc từ Trung Hoa mà người thầy ưu tú là Khổng Tử. Nho giáo bắt nguồn từ trong xã hội phong kiến nên mang đậm chất quy định nghiêm khắc của chế độ xã hội đó. Quan hệ vua - tôi là một trong năm mối quan hệ trong ngũ luân. Quyền lợi của vua là quyền lợi của dân tộc, đất nước là của vua, dân là con vua. Vua là thiên tử có cả “vương quyền” và “thần quyền” nên nhất nhất phải theo vua. Không theo vua là phản quốc sẽ bị mang ra pháp trường sử theo pháp luật hay yêu cầu của vua. Vua là cha của muôn dân có trách nhiệm phải “tề gia, trị quốc, bình thiên hạ” nên vua phải là người trí tuệ hơn người, anh minh. Còn trách nhiệm của bề tôi là phải trung với vua: trung hiếu, trung quân, trung nghĩa, trung thành tất cả đứng đầu là chữ trung. Tư tưởng trung quân của các nhà Nho giáo chính là yêu nước. Vì thế mà đã có không ít các nho thần đã giúp vua “trị quốc, bình thiên hạ” theo muong muốn. Nhiều bài thơ tuyệt mệnh viết trước lúc bị hành hình, trước lúc lưỡi mã tấu của bọn đao phủ cho chúng ta thấy ảnh hưởng sâu đậm của cương thường. “Bài thơ của Nguyễn Duy Hiệu : “Xin đem tấm lòng son xuống chầu các vua Thánh”. Bởi vua là cha của muôn dân nên phải mang lại no ấm và thái bình cho muôn dân. Bề tôi phải phục tùng giúp vua trị nước. Trần Hưng Đạo đã nói về lòng trung nghĩa “trung với vua với một dòng họ thì trong đó đã bao hàm một nội dung yêu nước vì lúc đó quyền lợi của vua gắn liền với quyền lợi của dân tộc”. Trung quân tức là ái quốc. Dưới cách nhìn của Nho giáo Nguyễn Trãi thì trung với vua vừa được hiểu là trung với nước, lòng yêu thương “xót dân đen con đỏ”. “Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân” (Bình Ngô đại cáo - Nguyễn Trãi). Hay phải giúp vua tề gia trị quốc khi đất nước thái bình, giúp vua đánh đuổi giặc xâm lăng như trong tác phẩm : “Nam Quốc sơn hà - Lý Thường Kiệt”. Sông núi nước Nam vua Nam ở Giành giành định phận ở sách trời Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời. (Nam Quốc sơn hà - Lý Thường Kiệt). Ở Việt Nam tinh thần yêu nước và tinh thần dân tộc là một truyền thống rất mạnh. Người Việt Nam tiếp thu tư tưởng trung quân Nho giáo trên cơ sở tinh thần yêu nước và tinh thần dân tộc sẵn có khiến cho cái trung quân đó đã bị biến đổi và gắn liền với ái quốc. Khi xuất hiện mâu thuẫn giữa vua với đất nước, dân tộc thì đất nước, dân tộc là cái quyết định. Lê Hoàn thay nhà Đinh, Lý Công Uẩn thay nhà (tiền) Lê, Trần Cảnh thay nhà Lý… vào lúc triều đại cũ không còn đủ năng lực lãnh đạo đất nước nên đều được ủng hộ. Nguyễn Trãi theo Lê Lợi mà không theo con cháu nhà Trần, Ngô Thì Nhậm theo Tây Sơn mà không theo nhà Lê,… chính vì đặt nước lên trên mà một người dòng dõi nho gia Hồ Chí Minh dám đi ngược lại giáo huấn của nho giáo. Nói chung cái đẹp trong quan hệ vua - tôi là “trung với nước, hiếu với dân”. Quan hệ ấy rất rạch ròi: vua yêu dân yêu nước; tôi giúp vua bình thiên hạ, trị quốc… Đây là một mối quan hệ đẳng cấp. Nhưng trong đó cái đẹp chính là tinh thần nhân nghĩa yêu nước của cả vua - tôi. 2.2.Cái đẹp trong quan hệ thầy trò Quan hệ thầy trò là quan hệ xã hội từ ngàn xưa, con người đã đề cập đến. Trong ngũ luân thì quan hệ thầy trò được đặt trên quan hệ bố mẹ - con cái. Vì theo Nho giáo bố mẹ cho ta thân xác hình hài (tiểu ngã) còn thầy cho ta kiến thức, hiểu biết (đại ngã) nên vai trò của người thầy rất lớn. Thầy đặt trên phụ. Thầy là người học cao biết rộng uyên thâm bác học. Người thầy nghiêm khắc dạy bảo trò và trò phải kính trọng thầy. Đấy là một nét đẹp có văn hoá của con người. Hình ảnh của người thầy đã đi sâu vào trong nhận thức của con người và được dân gian thể hiện qua ca giao - tục ngữ. “Qua sông phải bắc cầu kiều Muốn con hay chữ phải yêu lấy thầy” - Ca dao - Vì vậy mà thầy là người có công rất lớn “cầu kiều” cho con người nhận thức được tri thức, thế giới, cái đẹp… Thầy là người mang lại tri thức cho ta về mọi vấn đề nên luôn phải kính trọng thầy. “Nhất tự vi sự, bán tự vi sư” hay “không thầy đố mày làm nên”. - Ca dao - Và không có thầy con người sẽ mù tri thức và không làm là một quan hệ thiêng liêng được mọi người đề cao và tôn trọng. Thầy trò quan hệ với nhau mà nghiêm khắc vừa mềm mỏng, thầy được ví như người ta về tinh thông và tầm hiểu biết của người học trò. Vì thế mà phải luôn luôn “tôn sư trọng đạo” khi ấy mới là người học trò tốt, người học trò giỏi. Đây chính là nét đẹp, cái đẹp trong văn hoá ứng xử của con người với con người. 2.3.Quan hệ bố mẹ với con cái và con cái với bố mẹ Theo thánh (Khổng Tử): “con người khác con vật biết chăn nuôi và quý trọng bố mẹ”. Đây là quan hệ nằm trong luôn ba : cha - con là một mối quan hệ thiêng liêng “máu mủ ruột già”. Đạo làm con phải có hiếu với cha mẹ. Cha mẹ là người sinh ra ta cho ta hình hài vóc dáng. Họ là những người mang nặng đẻ đau và phải luôn đặt chữ Hiếu” trong Nho giáo trong mối quan hệ bình đẳng với cả cha và mẹ, công lao cha mẹ sinh thành nuôi nấng biết bao giờ kể xiết. Công cha như núi thái sơn Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra Một lòng thờ mẹ kính cha Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con. Ca dao. Những người con có hiếu thì phải là những người biết làm cho cha mẹ vui vẻ, hạnh phúc. Theo Mạnh Tử : “mình mẩy tóc da cha mẹ sinh ra chớ nên huỷ hoại, là hiếu trước tiên vậy. Lập thân hành đạo, để tiếng đời thơm cho cha mẹ là hiếu tột bậc”. Vì cha mẹ là những người sinh ra con cái từ “tinh cha huyết mẹ” nên “một giọt máu đào hơn ao nước lã”. Khi thấy con mình bị làm sao mà vẫn chưa rõ nguyên do đã : “Bênh con lon xen mắng người”. Trong xã hội xưa cũng như ngày nay thì con cái luôn phải hiếu biết kính tọng thương mến cha mẹ, biết vâng lời phụng dưỡng cha mẹ. “Đói lòng ăn hột chà là Để cơm nuôi mẹ, mẹ già yếu răng:. Ca dao. Con cái phải phụng dưỡng cha mẹ: nhà nào cha mẹ mạnh khoẻ giàu có thì thường ở riêng một mình. Người nào già yếu quá hoặc không có thì ở với con cái. Con có thì của ngon vật lạ cơm dâng nước tiến, nhà nghèo cũng biết lưng cơm lành, bát canh ngon để phụng dưỡng. Hoặc con ở xa thì gửi đồng quà tấm bánh… không được đối xử bất hiếu với đấng sinh thành. Theo Nho giáo thì : “Phụ mẫu tại bất viễn du” - “Cha mẹ còn sống không được đi xa” hay “bất hiếu hữu tam vô hậu vi đai”. Con bất hiếu: Lúc sống thì chẳng cho ăn Để đến khi chết làm văn tế ruồi. hoặc : Mẹ nuôi con biển hồ lai láng Con nuôi mẹ kể tháng kể ngày. Ca dao hay : Một mẹ nuôi được mười con Mười con không nuôi nổ một mẹ. Ca dao. Từ tấm lòng hiếu thảo của con cái trong lịch sử Việt Nam đã xuất hiện bao tấm gương con cái hiếu thảo với cha mẹ, phụng dưỡng cha mẹ, … Đây là một nét đẹp văn hoá từ ngàn xưa và cho đến ngày hôm nay, mai sau, muôn đời. Tình cảm yêu thương của cha mẹ dành cho con cái ngay từ tấm bé là nền tảng cho sự kính trọng, yêu quý của con cái. “Mẹ hát con khen, ai chen vô lọt”. Khi con cái phải xa cha mẹ và khi được gặp nhau thì: Ngầm ngập như mẹ gặp con Lon xon như con gặp mẹ. Trong nếp sống tình cảm của người Việt Nam con cái coi tên cha mẹ kính trọng, hễ đọc đến thì phải kiêng. Nhiều người muốn tên cha mẹ mình người ta kiêng nữa cho nên có chữ : “nhập gia vấn huý” - vào đến nhà phải hỏi tên huý mà kiêng. Tuy nhiên kính mến con hiếu với cha mẹ lòng kính trọng chưa đủ mà thêm đừng để cho cha mẹ phiền lòng. Mình càng mong cha mẹ vẻ vang thì mình lại càng phải nghĩ cách lập thân mình. Cha mẹ có trách nhiệm yêu thương dạy dỗ con cái ngay từ thủa ấu thơ: Mẹ dạy thì con khéo, bố dài thì con khôn. Ca dao Ta lại càng hiểu được nỗi khổ bơ vơ của những đứa con bất hạnh và thấy được tầm quan trọng của người mẹ: Mồ côi cha ăn cơm với cá Mồ côi mẹ liếm lá ngoài đường. Tục ngữ. Khi đó ta mới biết trân trọng những tình cảm quý giá mà cha mẹ đã dành cho. Và con cái phải lấy đó để đối xử tốt với cha mẹ. Bởi họ chỉ có một lòng yêu thương con: “chỗ ướt mẹ nằm, chỗ ráo mẹ nhường con” để nuôi con khôn lớn mong đợi con trưởng thành. Nét đẹp trong Nho giáo là khuôn vàng thước ngọc cho con người tuân theo. Nó là chuẩn mực đạo đức để loài người tiến đến đỉnh cao của văn minh văn hoá ứng xử. Cách ứng xử đẹp đẽ của con cái với cha mẹ là cái đẹp truyền thống trong Nho giáo vẫn còn đến ngày nay. 2.4. Quan hệ vợ chồng Vợ chồng là những người cùng nhau chia ngọt xẻ bùi, đầu gối tay ấp nên ăn ở với nhau phải như bát nước đầy không bao giờ nghĩ đến chuyện thiệt hơn. Vợ chồng là nghĩa già đời. Ai ơi chớ nghĩ những lời thiệt hơn Ca dao. Quan hệ vợ chồng trong ngũ luân đòi hỏi phải thuỷ chung son sắc. Trong xã hội xưa thì người chồng là quan trọng nhất phải giữ nghĩa với vợ mà vợ phải giữ tiết với chồng. Người con gái khi đã đi lấy chồng thì : “Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử”. Người vợ luôn phải yêu thương chồng mà không được tơ tưởng đến người khác, một lòng giữ tấm lòng son sắc: Chồng em áo rách em thương Chồng người áo gấm xông hương mặc người Ca dao hoặc Qua đình ngả nón trông đình Đình bao nhiêu ngói thương mình bấy nhiêu Ca dao Đó là những hình ảnh quen thuộc của người phụ nữ Việt Nam xưa biểu hiện một nét đẹp văn hoá trong luân thường đạo lý. Và bù lại người chồng cũng phải hết lòng yêu thương vợ. Vợ chồng phải yêu thương kính trọng nhau như khách: “Phu phụ tương kính như tân” thì mới ấm êm gia đạo. Và “Phu phụ hoà nhi hậu gia đạo hành” - vợ chống có hoà thuận mới nên gia đạo. Đã đi vào cổ tích biết bao mối tình vợ chồng thương yêu thắm thiết với nhau. Như câu chuyện Phạm Công - Cúc Hoa. Rồi nghe những lời than khóc của cụ Nguyễn Khuyến khóc vợ : “Nhà chỉ nghèo thay nhờ được bà hay lam hay làm thắt lưng bó aue, xắn váy quai cồng tất tưởi chân nam chân chiêu vì tớ đỡ đần mọi việc. Bà đi đâu vội nấy để cho lão vất va vất vảng búi tóc củ hành, buông quần ống toạ gật gù tay đũa tay chén, lấy ai kể chuyện hôm mai”. Người chồng là người phải biết làm cho vợ được sung sướng nhưng người vợ cũng là người giúp đỡ chồng lớn lao khi chống làm nên nghiệp “của chồng công vợ”. Khi vợ chống một lòng yêu thương nhau thì: “Thuận vợ thuận chồng tát bể đông cũng cạn”. Hay vợ chồng luôn bên nhau: Vợ chồng như đôi cu cu Chồng thì đi trước vợ gật gù theo sau Ca cao Vợ chồng ăn ở với nhau người ta không xét đến công cán mà xét đến nhân nghĩa. Họ không vì của cải này nọ mà cao hơn hết chính là tình yêu thương san sẻ với nhau “Tôi tớ xét công, vợ chồng xét nhân nghĩa”. Có rất nhiều người chồng làm đẹp lòng vợ, người vợ làm đẹp lòng chồng: Chồng khôn vợ được đi hài Vợ khôn chồng được nhiều bài cậy trông. Ca dao Trong đời sống vợ chống phải biết nhường nhịn nhau thì mới giữ được trong ấm ngoài êm. “Chồng tới vợ lui, chồng hoà vợ thuận”. Người vợ phải biết khéo léo chiều chồng, phải biết nữ công gia chánh bởi “người phụ nữ là người nhen nhóm ngọn lửa hồng trong mỗi gia đình và trong mỗi trái tim người chồng”. Người vợ không thể là một người chứng nọ tật kia: “Đi chợ ăn quà về nhà đánh con”. và khi vợ chống thương yêu nhau trọn nghĩa vẹn tình thì những gì xấu của chồng (vợ) thì trong con mắt yêu thương ấy cái gì cũng đẹp, cũng thi vị như anh chàng: Lỗ mũi mười tám gánh lông Chồng yêu chồng bảo tơ hồng trời cho Đêm nằm thì ngáy o o Chồng yêu chồng bảo ngáy cho vui nhà Đi chợ thì hay ăn quà Chồng yêu chồng bảo về nhà đỡ cơm Ca dao hay nhờ bàn tay khéo léo của người vợ. Ai làm cho cải tôi ngồng Cho dưa tôi khú cho chồng tôi chê Chồng chê thì mặc chồng chê Dưa khú nấu với cá chê ngọt lừ Ca dao. Và trong xã hội cũ thì những người con hiếu dế, người vợ giá ở vậy chờ chồng… được biểu dương là những tấm gương sáng về đạo đức. Sự tích hòn vọng phu biểu tượng cho người vợ bế con chờ chống đánh giặc mãi không về đã hoá núi. Những mặt trái trong ngũ luân ở mối quan hệ vợ chồng ngày xưa thì Nho giáo lại đề cao vai trò của người chống mà quên đi vai trò của người vợ. Mặc dù vậy khi tưởng Nho giáo đi vào Việt Nam những mối quan hệ trong ngũ luân đã được Việt Nam hoá. Vì vậy nó không còn mang nặng tính chất khuôn mẫu Nho giáo mà mang đậm dấu ấn văn hoá người Việt. Những nét đẹp trong quan hệ vợ chồng từ ngàn năm trước giờ đã trở thành khuôn mẫu đạo đức một nét đẹp của đời sống vợ chồng. Nét đẹp đó sẽ không thể theo thời gian mà nó chỉ biến đổi cho phù hợp với h